Tuesday 22 October 2013

Thay Lời Tựa.
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh đại thừa gồm bảy quyển tổng cộng là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng của Phật và Bồ Tát.
Tâm nguyện của Phật là tâm nguyện khắp độ chúng sanh đạt thành đạo quả giác ngộ. Bởi thế nên ngay quyển đầu của kinh về Phẩm Phương Tiện đã nói: "Phật ra đời là vì một nhơn duyên lớn duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật". Thế nghĩa là Phật rộng mở phương tiện pháp môn, chỉ bày chơn tâm Phật tánh để chúng sanh tin tưởng khả năng thánh thiện của mình mà tiến tu đến Phật quả.
Phương tiện của Phật là phương tiện huyền diệu được sanh trưởng và dinh dưỡng bởi trí tuệ từ bi hỷ xả lợi tha có khả năng đưa tất cả chúng sanh đồng chứng nhất thừa Phật quả. Ðức Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành, nếu chúng sanh tinh tấn nỗ lực tu hành thì cũng sẽ thành Phật như ta vậy. Nhưng chúng sanh đắm chìm trong ngũ dục lạc, nên tạo nhiều tội lỗi để rồi hiện thành căn tánh cao thấp, nghiệp duyên nặng nhẹ khác nhau. Ðức Phật lại phải từ đó mà lập ra có muôn ngàn phương tiện để hóa độ. Nghĩa là từ nhứt thượng thừa mà đức Phật đã phải phương tiện huyền khai làm thành ba thừa để rồi sau đó, khi căn tánh chúng sanh thuần thục ngài lại dần dần đưa lên nhứt thừa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Hai mươi tám phẩm Kinh Pháp Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và Ðại Bồ Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh, từ tam thừa Thinh Văn Duyên Giác và Bồ Tát đến quả vị nhứt thừa vô thượng Phật quả.
Nội dung kinh Pháp Hoa cho ta thấy không phương tiện độ sanh nào mà không có, không cửa pháp môn giải thoát rốt ráo nào mà không mở, không cảnh giới Phật nào mầu nhiệm thiện duyên thâm mật với chúng sanh cõi ta bà này mà không ảnh hiện, không hạnh nguyện giáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ Tát mà không thể đạt ba la mật. Thật là một bộ kinh khế hợp cho đủ mọi trình độ căn tánh nghiệp duyên của chúng sanh. Vì thế xưa nay kinh Pháp Hoa đã được không biết bao nhà Phật học huyên bác chú thích sớ giải làm cho kinh Pháp Hoa rạng rỡ từ ngàn năm này đến ngàn năm khác và phổ cập nhân gian. Ðến nỗi nghĩa lý của kinh Pháp Hoa quá ư vi diệu tuyệt vời, kinh bản được đời đời ấn hành phổ biến uy thế tạo thành một tôn phái với danh xưng là Pháp Hoa Tôn hay Thiên Thai Tôn, một tôn phái có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản và Trung Hoa do Trí Giả Ðại Sư thành lập.
Trong thời thế sự cuồng quây, đạo tâm ngày một suy vi, phong hóa niềm tin lay chuyển đến tận gốc rễ như thời này đây, để cho mọi người còn chút phước duyên đang bềnh bồng trên bể đời có thuyền nương tựa, có đất phì nhiêu của bến bờ để gieo giống Bồ Ðề, nên Phật Học Viện Quốc Tế nguyện in lại kinh Pháp Hoa này ngõ hầu làm thuyền bát nhã, làm ruộng phước phì nhiêu, làm hải đăng và bến đổ cho khắp cả mọi kiếp thuyền đời trở thành những thiện hữu Bồ Ðề kết duyên cùng Phật đạo Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Khắp nguyện mười phương bạn lành gần xa mở rộng lòng ra phát tâm Bồ Ðề thọ trì và ấn tống kinh Pháp Hoa này để tạo cơ hội sớm ngộ nhập tri kiến Phật, ngõ hầu thăng hoa đời sống đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Phật lịch 2530, Vía Phật A Di Ðà - 1986 Bính Dần
Thích Ðức Niệm

Nghi-Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám-hối, sám-hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Chư Phật. (1 lạy)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Tôn Pháp. (1 lạy)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt-thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
 
(Quì, tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật.
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Ðều phát lòng Bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(cầm hương lạy 1 lạy)
 
(Ðứng chắp tay xướng)
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ
Sắc thân Phật vô-tận
Trí-tuệ Phật cũng thế,
Tất cả Pháp thường-trụ
Cho nên con về nương,
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Qui-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Ðồng sanh nước An-Lạc.
Án phạ nhựt ra vật. (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ
(Câu này thông cả 9 câu dưới, đều xướng ở đầu câu)
Thường-tịch-quang tịnh độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Thật báo trang nghiêm độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương Tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương Tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y chánh
Khắp pháp-giới Tôn Pháp (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Quán-thế-Âm Bồ-tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Ðại Thế-Chí Bồ-tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm: Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
( Ðứng chắp tay nguyện: )
' Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh ' Trong pháp-giới, đều nguyện
dứt trừ ba chướng(1)' nên qui mạng (2) sám-hối(3)'
(1 lạy quỳ chắp tay sám hối)
Chí Tâm Sám Hối:
Ðệ tử... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không kể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chằng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6) trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. - Kinh rằng: 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh, vì thế trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà pháp lồ (7) sám hối làm cho đệ tử và pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-Ðộ khắp với chúng-sinh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn-lành của đệ tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật-đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát nguyện rồi qui mạng đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-Bảo (1 lạy)
( lạy xong tiếp Nghi Thức tụng kinh )
 
Thích Nghĩa Sám Pháp
(1) Phiền não, nghiệp nhân, quả báo ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: 'Ba món
chướng.'
(2) Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng chính là nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.
(3) Nói đủ là Sám-ma hối quá. 'Sám ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá', tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: sáu căn, và ba nghiệp: thân, khẩu, ý.
(5) Giết cha, giết mẹ, giết thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội
Nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
(6) A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ quỉ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
(7) Bày lộ tội lỗi ra trước Chúng-Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).
________________________
Nghi Thức Trì Tụng
----------------

Bài Tán Lư Hương
Lò hương vừa nhen nhúm
Pháp-giới đã được xông
Các Phật trong hải hội đều xa hay
Theo chỗ kết mây lành
Lòng thành mới ân cần
Các Phật hiện toàn thân.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát Ma-ha-tát (3lần)
 
Chân Ngôn Tịnh Pháp Giới
Án lam ( 7 lần )
( Trì chú này thì thân tâm, cảnh vật đều thanh tịnh )
Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta bà ha. (7 lần)
( Trì chú này thì hơi miệng trong sạch )
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạt thuật độ hám (3 lần)
(Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng-dường cả mười phương)
 
Văn Phát Nguyện
Nam-mô Thập-phương Thường-trụ Tam-bảo (3 lần)
Cúi lạy đấng Tam-giới Tôn,
Qui mạng cùng mười phương Phật
Tôi nay phát nguyện rộng
Thọ-trì kinh Pháp-Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ ( súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục )
Nếu có kẻ thấy nghe
Ðều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
 
Bài Khai Kinh
Pháp vi-diệu rất sâu vô-lượng
Trăn nghìn muôn ức khó gặp
Tôi nay nghe thấy được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như-Lai.
 
Bài Khen Ngợi Kinh
Hơn sáu muôn lời, thành bảy cuốn
Rộng chứa đựng vô-biên nghĩa mầu
Trong cổ nước cam-lộ rịn nhuần
Trong miệng chất đề-hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng.
Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát. ( 3 lần )

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Quyển Thứ Nhất
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
 
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Tựa' Thứ Nhất
1.- Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu-hội. Các vị đó đều là bực A-La-Hán, các lậu (3) đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong (4) dứt sự ràng rịt trong các cõi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha-Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Ðề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nâu-Lâu-Ðà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm, Ba-Ðề, Ly-Bà-Ða Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Ðà Tôn-Ðà-La Nan-Ðà, Phú-Lâu-Na Di-Ða-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Ðề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-La-Hán hàng tri-thức của chúng.
Lại có bực hữu-học và vô-học (6) hai nghìn người.
Bà Tỷ-khiêu-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Ðề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỷ-khiêu-ni Gia-Du-Ðà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
 
2.- Bực đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô thượng chính-đẳng chính-giác (7), đều chứng được pháp đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng-dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức.
Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí-tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10), danh đồn khắp vô-lượng thế-giới có thể độ vô số trăm nghìn chúng-sanh.
Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát. Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðắc-Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-tát, Bất-Hưu Tức Bồ-tát, Bửu-Chưởng Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dõng-thí Bồ-tát. Bửu-Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Mãn-Nguyệt Bồ-tát, Ðại-Lực Bồ-tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-tát, Việt-Tam-Giới Bồ-tát, Bạt-Ðà Bà-La Bồ-tát, Di-Lặc Bồ-tát, Bửu-Tích Bồ-tát, Ðạo-Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội.
3.- Lúc bấy giờ, Thích-Ðề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên-tử câu hội.
Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một muôn thiên-tử câu hội.
Tự-tại Thiên-tử, đại tự-tại Thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn Thiên-tử câu hội.
Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Ðại-Phạm, Quang-Minh Ðại-Phạm v.v...cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên-tử câu hội.
Có tám vị Long-Vương: Nan-Ðà Long-Vương, Bạt-Nan-Ðà Long-Vương, Sa-Dà-La Long-Vương, Hòa-Tu-Cát Long-Vương, Ðức-Xoa-Ca Long-Vương, A Na-Bà-Ðạt-Ða Long-Vương, Ma-Na-Tư Long-Vương, Ưu-Bát-La Long-Vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Ðại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương. Nhạc-âm Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-Trĩ A-tu-la vương, Dà-La-Khiên-Ðà A-tu-la vương, Tỳ-Ma-Chất-Ða-La A-tu-la vương, La-Hầu A-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca-lâu-la vương: Ðại-Uy-Ðức Ca-lâu-la vương, Ðại-Thân Ca-lâu-la vương, Ðại-Mãn Ca-lâu-la vương, Như-Ý Ca-lâu-la vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.
Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Ðề-Hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
4.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ-chúng vây quanh cúng-dàng cung kính ngợi-khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh đại-thừa tên là: 'Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật sở hộ-niệm'.
Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chính-định 'Vô-lượng nghĩa xứ', thân và tâm của Phật đều không lay động.
Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động (12).
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-khiêu, Tỳ-khiêu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13), A-tu-la (14), Ca-lâu-la (15), Khẩn-na-la (16), Ma-hầu-la-dà (17), nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân thánh vương, các đại-chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
5.- Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, dưới thời chiếu đến địa-ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-Cứu-Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18), ở các cõi kia.
Lại thấy các đức Phật hiện-tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhơn-duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
6.- Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-tát nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này'.
Nay đức Phật đương nhập chính-định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?'
Ngài lại nghĩ: 'Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dàng vô-lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi-hữu này, ta nay nên hỏi ông'.
Lúc đó, hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng: 'Tướng thần-thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?'
7.- Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời rồng quỉ thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, đều thấy cõi nước trang-nghiêm của các đức Phật?'
Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
 
8.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Ðức Ðạo-Sư cớ chi
Lông trắng giữa chặn mày
Phóng ánh-sáng khắp soi?
Trời mưa hoa Mạn-đà
Cùng hoa Mạn-thù-Sa,
Gió thơm mùi chiên-đàn
Vui đẹp lòng đại chúng
Vì nhơn duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơ thới
Ðược việc chưa từng có.
9.- Ánh sáng giữa chặn mày
Soi suốt thẳng phương Ðông
Một muôn tám nghìn cõi
Ðều ánh như sắc vàng.
Từ địa ngục A-Tỳ
Trên đến trời hữu đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thụ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõ.
 
10.- Lại thấy các đức Phật
Ðấng Thánh-Chúa Sư-Tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bực thứ nhất.
Tiếng của ngài thanh-tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-tát
Vô-số ức muôn người
Tiếng phạm-âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe.
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chính pháp
Dùng nhiều món nhơn-duyên
Cùng vô-lượng tỉ-dụ
Ðể soi rõ Phật Pháp
Mà khai ngộ chúng sanh.
Nếu có người bị khổ
Nhàm lìa già, bệnh, chết,
Phật vì nói Niết-Bàn
Ðể dứt các ngằn khổ
Nếu là người có phước
Ðã từng cúng-dàng Phật
Chí cầu pháp thù-thắng
Vì nói hạnh Duyên-Giác
Nếu lại có Phật-tử
Tu-tập các công hạnh
Ðể cầu tuệ vô thượng
Phật vì nói tịnh-đạo.
 
11.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra:
 
12.- Tôi thấy ở cõi kia
Có hằng-sa Bồ-tát
Dùng các món nhơn-duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Hoặc có vị bố-thí
Vàng, bạc, ngọc, san-hô,
Chơn châu, ngọc như-ý,
Ngọc xa-cừ mã-não,
Kim-cương các trân-bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu, cán chưng châu báu
Vui-vẻ đem bố-thí
Hồi-hướng về Phật-đạo
Nguyện được chứng thừa ấy
Bực nhất của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có vị Bồ-tát
Xe tứ-mã xe báu
Bao lơn che tàn đẹp
Trau-tria dùng bố-thí.
Lại thấy có Bồ-tát
Bố-thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Ðể cầu vô-thượng đạo.
Lại thấy có Bồ-tát
Ðầu, mắt và thân thể
Ðều ưa vui thí cho
Ðể cầu trí-tuệ Phật
 
13.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Ta thấy các quốc-vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo vô-thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung-điện cả thần-thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y Pháp phục.
Hoặc lại thấy Bồ-tát
Mà hiện làm Tỷ-khiêu
Một mình ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển
Cũng thấy có Bồ-tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật-đạo
Và thấy bực ly-dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thuyền-định
Ðược năm món thần thông
Và thấy vị Bồ-tát
Chắp tay trụ thuyền-định
Dùng nghìn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp-Vương
Lại thấy có Bồ-tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thụ trì.
Lại thấy hàng Phật-tử
Ðịnh-tuệ trọn đầy đủ
Dùng vô-lượng tỉ-dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp
Cùng thấy vị Bồ-tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung-kính
Chẳng lấy đó làm mừng,
Và thấy có Bồ-tát
Ở rừng phóng hào-quang
Cứu khổ chốn Ðịa-ngục
Khiến đều vào Phật-đạo.
Lại thấy hàng Phật-tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh-hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật-đạo
Cũng thấy đủ giới-đức
Uy-nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bửu-châu
Ðể cầu chứng Phật-Ðạo.
Và thấy hàng Phật-tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ Tăng-thượng-mạn
Mắng rủa cùng đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Ðể cầu chứng Phật-đạo
Lại thấy có Bồ-tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến-thuộc ngu si
Ưa gần-gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Ðể cầu được Phật-đạo.
14.- Lại thấy vị Bồ-tát
Ðồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Ðem cúng Phật và Tăng,
Áo tốt đồ thượng-phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô-giá y
Dùng nghìn muôn ức thứ
Nhà báu bằng Chiên-đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Ðể cúng Phật cùng Tăng
Rừng vườn rất thanh-tịnh
Bông trái đều sum-sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng cho Phật và Tăng,
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Ðể cầu đạo vô-thượng.
15.- Lại có vị Bồ-tát
Giảng nói pháp tịch-diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô-số chúng-sanh
Hoặc thấy vị Bồ-tát
Quán sát các pháp tịnh
Ðều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không
Lại thấy hàng Phật-tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu-tuệ này
Mà cầu đạo vô-thượng.
16.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Lại có vị Bồ-tát
Sau khi Phật diệt-độ
Cúng dàng Xá-Lợi-Phật.
Lại thấy hàng Phật-tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô-số hằng-sa
Nghiêm sức khắp cõi nước.
Bửu tháp rất cao đẹp
Ðều năm nghìn do-tuần.
Bề ngang rộng xứng nhau
Ðều hai nghìn do-tuần.
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Ðều có nghìn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Các vị Trời, rồng, thần,
Người cùng với phi-nhơn
Hương, hoa, cùng kỹ-nhạc
Thường đem đến cúng-dàng
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Các hàng Phật-tử kia
Vì cúng-dàng xá-lợi
Nên trang-sức tháp miếu,
Cõi quốc-giới tự-nhiên
Thù đặc rất tốt-đẹp
Như cây Thiên-thụ-vương
Hoa kia đang xòe nở
17.- Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng-hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần-lực của chư Phật
Trí-tuệ đều hi-hữu
Phóng một luồng tịnh-quang
Soi khắp vô-lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Ðược điều chưa từng có.
18.- Xin Phật-tử Văn-Thù
Giải-quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn ngài và nhìn ta
Ðức Thế-Tôn cớ chi
Phóng ánh quang-minh này?
Phật-tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì
Ðức Phật phóng quang này?
Khi Phật ngồi đạo-tràng
Chứng được pháp thâm-diệu
Vì muốn nói Pháp đó
Hay là sẽ thọ-ký?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang-nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Ðây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn-Thù nên biết
Bốn-chúng và Long, Thần
Nhìn xem xét ngài đó
Mong sẽ nói những gì?
19.- Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Ðại Bồ-tát cùng các vị Ðại-Sĩ: 'Các Thiện-nam-tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Thế-Tôn muốn nói Pháp lớn, mưa pháp-vũ lớn, thổi pháp-loa lớn, đánh pháp-cổ lớn và diễn pháp-nghĩa lớn.
Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá-khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào-quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào-quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào-quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng-sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.
20.- Các thiện-nam-tử! Như vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh Như-Lai, Ứng-Cúng, Chính-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-Thượng-Sĩ, Ðiều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chính pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất xâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm-hạnh thanh bạch.
Phật, vì người cầu đạo Thanh-Văn, nói pháp tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-Giác, nói pháp mười hai nhơn duyên (23), Vì hàng Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả Vô-thượng chính-đẳng chính-giác thành bậc nhất-thiết chủng-trí.(25)
Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Ðọa.
Di-Lặc nên biết! Ðức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.
Ðức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.
Tám vị vương tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ (26) . Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm đại thừa, thường tu hạnh thanh-tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
21.- Ðức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh lúc đó nói kinh đại thừa tên 'Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'. Nói kinh đó rồi Phật liền ở trong đại-chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh giới chánh-định 'Vô-Lượng nghĩa-xứ', thân và tâm chẳng động.
22.- Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động.
Lúc đó trong hội, hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự nam, Cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
23.- Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh-sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây.
Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh-sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này.
Khi ấy, có vị Bồ-tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
24.- Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chính-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm', trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
26.- Ðức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng ma, phạm sa-môn, bà-la-môn, và trời, người, a-tu-la mà tuyên rằng: 'Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn'.
Khi đó có vị Bồ-tát, tên Ðức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh liền thọ-ký (12) cho, bảo các Tỷ-khiêu rằng 'Ông Ðức-Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, Chính-đẳng Chính-giác'.
Ðức Phật thọ-ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
27.- Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-tát trì kinh 'Diệu-Pháp Liên-Hoa' trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
28.- Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chính-dẳng Chính-giác. Các vị Vương-tử đó cúng-dàng vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt ráo sau hết, hiệu là Nhiên-Ðăng.
29.- Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân-duyên căn lành nên được gặp vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng-dàng cung-kính tôn trọng khen ngợi.
30.- Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đây. Còn Cầu-Danh Bồ-tát là ngài đấy.
Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh đại-thừa tên: 'Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'.
Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
31.- Ta nhớ thuở quá-khứ
Vô-lượng vô-số kiếp
Có Phật Nhơn Trung-tôn
Hiệu Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh
Ðức Thế-Tôn nói pháp
Ðộ vô-lượng chúng-sanh
Vô số ức Bồ-tát
Khiến vào trí-tuệ Phật.
32.- Khi Phật chưa xuất-gia
có sanh tám vương-tử
Thấy Ðại-Thánh xuất-gia
Cũng theo tu phạm-hạnh
33.- Phật nói kinh Ðại-Thừa
Tên là 'Vô-Lượng-Nghĩa'
Ở trong hàng đại-chúng
Mà vì rộng tỏ bày.
Phật nói kinh ấy rồi
Liền ở trong pháp-tòa
Xếp bằng nhập chính-định
Tên 'Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ'
Trời rưới hoa Mạn-đà
Trống trời tự-nhiên vang
Các Trời, rồng, quỉ, thần
Cúng-dàng đấng Nhơn-Tôn,
Tất cả các cõi Phật
Tức thời vang động lớn,
34.- Phật phóng sáng giữa mày
Hiện các việc hi-hữu
Ánh-sáng chiếu phương-đông
Muôn tám nghìn cõi Phật
Bày sanh-tử nghiệp báo
Của tất cả chúng-sanh
Lại thấy các cõi Phật
Dùng các báu trang-nghiêm
Màu lưu-ly pha-lê
Ðây bởi Phật-quang soi.
35.- Lại thấy những Trời, người
Rồng, thần, chúng Dạ-Xoa
Càn-thát, Khẩn-na-la
Ðều cúng-dàng Phật mình
 
36.- Lại thấy các Như-Lai
Tự-nhiên thành Phật-đạo,
Màu thân như núi vàng
Ðoan nghiêm rất đẹp mầu
Như trong lưu-ly sạch
Hiện ra tượng chơn kim
Thế-Tôn trong đại-chúng
Dạy nói nghĩa thâm diệu.
37.- Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúng Thanh-Văn vô-số,
Nhơn Phật-quang soi sáng
Ðều thấy đại-chúng kia.
Hoặc có các Tỷ-khiêu
Ở tại trong núi rừng
Tinh-tấn giữ tịnh-giới
Dường như gìn châu sáng
 
38.- Lại thấy các Bồ-tát
Bố-thí nhẫn-nhục thảy
Số đông như hằng-sa (28)
Ðây bởi sáng Phật soi.
Lại thấy hàng Bồ-tát
Sâu vào các thuyền-định
Thân tâm lặng chẳng động
Ðể cầu đạo vô-thượng.
Lại thấy các Bồ-tát
Rõ tướng pháp tịch-diệt
Ðều ở tại nước mình
Nói pháp cầu Phật-đạo.
39.- Bấy giờ bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng
Hiện sức thần-thông lớn
Tâm kia đều vui mừng
Mỗi người tự hỏi nhau
Việc này nhơn-duyên gì?
40.- Ðấng của Trời người thờ
Vừa từ chính-định dậy
Khen Diệu-Quang Bồ-tát
Ông là mắt của đời
Mọi người đều tin về
Hay vưng giữ tạng pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được
Ðức Phật đã ngợi khen
Cho Diệu-Quang vui mừng
Liền nói kinh Pháp-Hoa
Trải sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời chỗ ngồi ấy
Ngài Diệu-Quang Pháp-sư
Trọn đều hay thụ-trì
Pháp thượng diệu của Phật.
41.- Phật nói kinh Pháp-Hoa
Cho chúng vui mừng rồi
Liền chính trong ngày đó
Bảo hàng chúng trời, người
Các pháp 'nghĩa thật tướng'
Ðã vì các ông nói
Nay ta giữa đêm này
Sẽ vào cõi Niết-Bàn
Phải một lòng tinh-tấn
Rời các sự buông-lung
Các Phật rất khó gặp
Ức kiếp được một lần
42.- Các con của Phật thảy
Nghe Phật sắp nhập-diệt
Thảy đều lòng buồn khổ
Phật sao gấp diệt vậy?
Ðấng Thánh-Chúa-Pháp-Vương
An ủi vô-lượng chúng:
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Ðức-Tạng Bồ-tát đây
Tâm đã được thông thấu
Nơi vô-lậu thiệt-tướng
Kế đây sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh-Thân
Cũng độ vô-lượng chúng.
43.- Ðêm đó Phật diệt độ
Như củi hết, lửa tắt
Chia phân các xá-lợi
Mà xây vô-lượng tháp
Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni
Số đông như hằng-sa
Lại càng thêm tinh-tấn
Ðể cầu đạo vô-thượng
44.- Diệu-Quang pháp-sư ấy
Vưng giữ Phật pháp-tạng
Trong tám mươi tiểu-kiếp.
Rộng nói kinh Pháp-Hoa.
Tám vị vương-tử đó
Ðược Diệu-Quang dạy bảo
Vững bền đạo Vô-thượng
Sẽ thấy vô-số Phật
Cúng-dàng các Phật xong
Thuận theo tu đại đạo
Nối nhau đặng thành Phật
Chuyển thứ thọ-ký nhau,
Ðấng Phật rốt sau cả
Hiệu là: Phật Nhiên-Ðăng
Ðạo-sư (29) của thiên tiên
Ðộ thoát vô-lượng chúng.
45.- Diệu-Quang pháp-sư đó
Có một người đệ-tử
Tâm thường cưu biếng trễ
Tham ưa nơi danh lợi
Cầu danh lợi không nhàm
Thường đến nhà sang giàu
Rời bỏ việc tụng học
Bỏ quên không thông thuộc
Vì bởi nhân-duyên ấy
Nên gọi là Cầu-Danh
Cũng tu các nghiệp lành
Ðược thấy vô-số Phật
Thuận tu theo đại đạo
Ðủ sáu ba-la-mật
Nay gặp đấng Thích-Ca
Sau đây sẽ thành Phật
Hiệu rằng: 'Phật Di-Lặc
Rộng độ hàng chúng-sanh
Số đông đến vô-lượng.
46.- Sau Phật kia diệt độ
Lười-biếng đó là ngài
Còn Diệu-Quang Pháp-sư
Nay thời chính là ta.
Ta thấy Phật Ðăng-Minh
Ðiềm sáng trước như thế
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói 'Pháp-Hoa'
Tướng nay như điềm xưa.
Là phương-tiện của Phật
Nay Phật phóng ánh-sáng
Giúp bày nghĩa thiệt-tướng
Các người nay nên biết
Chắp tay một lòng chờ
Phật sẽ rưới nước pháp
Ðầy đủ người cầu đạo
Các người cầu ba thừa (30)
Nếu có chỗ nghi-hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết không còn thừa.

 

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Phương Tiện' Thứ Hai

1.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chính định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trí-tuệ của các đức Phật rất sâu vô-lượng, môn trí-tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-Chi-Phật đều không biết được. Vì sao?
Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô-số các đức Phật, trọn tu vô-lượng đạo-pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh-tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.
Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhơn-duyên, các món thí-dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương-tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Ðức Như-Lai đã đầy-đủ phương-tiện, tri-kiến và ba-la-mật.
Xá-Lợi-Phất! Tri-kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô-lượng vô-ngại lực, vô sở-úy, thuyền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.
Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời-lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.
Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô-lượng vô-biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.
2.- Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chơn-thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhơn như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt-ráo như vậy.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:
3.- Ðấng Thế-Hùng khó lường
Các trời cùng người đời
Tất cả loài chúng-sanh
Không ai hiểu được Phật
Trí-lực, vô-sở-úy
Giải-thoát các tam-muội
Các pháp khác của Phật
Không ai so lường được
Vốn từ vô-số Phật
Ðầy đủ tu các đạo
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Khó thấy khó rõ được
Trong vô-lượng ức kiếp
Tu các đạo đó rồi
Ðạo tràng được chứng quả
Ta đều đã thấy biết
Quả-báo lớn như vậy
Các món tính tướng nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc đó
 
4.- Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năng
Các loài chúng sinh khác
Không có ai hiểu được
Trừ các chúng Bồ-tát
Người sức tin bền chặt
Các hàng đệ-tử Phật
Từng cúng-dàng các Phật
Tất cả lậu đã hết
Trụ thân rốt sau này
Các hạng người vậy thảy
Sức họ không kham được,
Giả-sử đầy thế-gian
Ðều như Xá-Lợi-Phất
Cùng suy chung so lường
Chẳng lường được Phật-trí
Chính sử khắp mười phương
Ðều như Xá-Lợi-Phất
Và các đệ-tử khác
Cũng đầy mười phương cõi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.
Bậc Duyên-giác trí lành
Vô-lậu thân rốt sau
Cũng đầy mười phương cõi
Số đông như rừng tre,
Hạng này chung một lòng
Trong vô-lượng ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳng biết được chút phần.
Bồ-tát mới phát tâm
Cúng-dàng vô-số Phật
Rõ thấu các nghĩa thú
Lại hay khéo nói pháp
Như lúa, mè, tre, lau
Ðông đầy mười phương cõi
Một lòng dùng trí mầu
Trải số kiếp hằng-sa
Thảy đều chung suy lường
Chẳng biết được trí Phật
Hàng Bất-thối Bồ-tát
Số đông như hằng-sa
Một lòng chung suy cầu
Cũng lại chẳng hiểu được.
5.- Lại bảo Xá-Lợi-Phất
Pháp nhiệm-mầu rất sâu
Vô-lậu khó nghĩ bàn
Nay ta đã được đủ
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng vậy,
Xá-Lợi-Phất phải biết
Lời Phật nói không khác
Với Pháp của Phật nói
Nên sinh sức tin chắc
Pháp của Phật lâu sau
Cần phải nói chơn thật
Bảo các chúng Thanh-văn
Cùng người cầu Duyên-giác
Ta khiến cho thoát khổ
Ðến chứng được Niết-Bàn
Phật dùng sức phương-tiện
Dạy cho ba-thừa-giáo
Chúng-sinh nơi nơi chấp
Dắt đó khiến ra khỏi.
6.- Khi đó trong đại-chúng có hàng Thanh-văn lậu-tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam cùng Cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân-cần ngợi-khen phương-tiện mà nói thế này: 'Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được.'
Ðức Phật nói một nghĩa giải-thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?
7.- Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn-chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Nhơn gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật?
Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn-chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen-ngợi pháp nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu?
Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8.- Ðấng Huệ-Nhật Ðại-Thánh
Lâu mới nói pháp này,
Tự nói pháp mình chứng
Lực, vô-úy, tam-muội,
Thuyền-định, giải-thoát thảy
Ðều chẳng nghĩ bàn được.
Pháp chứng nơi đạo-tràng
Không ai hỏi đến được,
Ý con khó lường được
Cũng không ai hay hỏi.
Không hỏi mà tự nói
Khen-ngợi đạo mình làm
Các đức Phật chứng được
Trí-tuệ rất nhiệm-mầu.
Hàng vô-lậu La-Hán
Cùng người cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nghi
Phật cớ chi nói thế?
Hạng người cầu Duyên-Giác.
Tỷ-Khiêu, Tỷ-Khiêu-ni,
Các trời, rồng, quỉ, thần
Và Càn-thát-bà thảy
Ngó nhau cưu lòng nghi
Nhìn trông đấng Túc-Tôn,
Việc đó là thế nào
Xin Phật vị dạy cho?
Trong các chúng Thanh-Văn
Phật nói con hạng nhất
Nay con nơi trí mình
Nghi lầm không rõ được
Vì là pháp rốt-ráo
Vì là đạo Phật làm
Con từ miệng Phật sanh
Chắp tay nhìn trông chờ
Xin ban tiếng nhiệm-mầu
Liền vì nói như thực
Các trời, rồng, thần thảy
Số đông như hằng-sa
Bồ-tát cầu thành Phật
Số nhiều có tám muôn
Lại những muôn ức nước
Vua Chuyển-Luân-Vương đến
Ðều lòng kính chắp tay
Muốn nghe đạo đầy-đủ.
9.- Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ.'
10.- Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao?
Trong hội đây có vô-số trăm nghìn muôn ức A-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí-tuệ sáng-suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin'.
Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Ðấng Pháp-Vương vô-thượng
Xin nói chuyện đừng lo
Vô-lượng chúng hội đây
Có người hay kính tin.
11.- Ðức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất: 'Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, a-tu-la đều sẽ kinh nghi Tỷ-khiêu Tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.'
Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:
Thôi thôi! Chẳng nên nói
Pháp ta diệu khó nghĩ
Những kẻ tăng-thượng-mạn
Nghe ắt không kính tin.
12.- Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Ðời đời đã từng theo Phật học-hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an-ổn nhiều điều lợi-ích.
Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ðấng Vô-thượng-lưỡng-túc
Xin nói pháp đệ-nhất
Con là trưởng-tử Phật
Xin thương phân-biệt nói.
Vô-lượng chúng-hội đây
Hay kính tin pháp này
Ðời đời Phật đã từng
Giáo-hóa chúng như thế
Ðều một lòng chắp tay
Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.
Chúng con nghìn hai trăm
Cùng hạng cầu Phật nọ
Nguyện Phật vì chúng này
Cúi xin phân-biệt nói
Chúng đây nghe pháp ấy
Thời sinh lòng vui-mừng.
13.- Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Ông đã ân-cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân-biệt giải-nói.'
14.- Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Ðức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.
15.- Bấy giờ, Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói.'
Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe'.
16.- Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh-thoại đến thời-tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
17.- Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời-nghi nói pháp ý-thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên, lời lẽ thí-dụ diễn nói các pháp.
Pháp đó không phải là suy-lường phân-biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng-sinh khai tri-kiến-Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri-kiến-Phật cho chúng-sinh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh chứng vào đạo tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Ðó là các đức Phật do vì một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời'.
18.- Ðức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: 'Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem tri-kiến-Phật chỉ cho chúng-sinh tỏ ngộ thôi.'
Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai chỉ dùng một Phật-Thừa mà vì chúng-sinh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.
Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.
Xá-Lợi-Phất! Thuở quá-khứ các đức Phật dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời-lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật-thừa, nên các chúng-sinh đó theo chư Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí.'
Xá-Lợi-Phất! Thuở vị-lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật-thừa nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.
Xá-Lợi-Phất! Hiện-tại nay, trong vô-lượng trăm nghìn muôn-ức cõi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi-ích an-vui cho chúng-sinh. Các đức Phật đó cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật-thừa, các chúng-sinh ấy theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo-hóa Bồ-tát, vì muốn đem tri-kiến-Phật mà chỉ cho chúng-sinh, vì muốn đem tri-kiến-Phật cho chúng-sinh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng-sinh chứng vào tri-kiến-Phật vậy.
Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng-sinh có những điều ưa-muốn, thân-tâm mê-chấp, ta tùy theo bản-tính kia dùng các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ cùng sức phương-tiện mà vì đó nói pháp.
Xá-Lợi-Phất! Như thế đều vì để chứng được một Phật-thừa 'nhất-thiết chủng-trí.'
20.- Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà-huống có ba!
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền-não trược, chúng-sinh trược, kiến trược, mệnh trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng-sinh nhơ nặng, bỏn-sẻn, tham-lam, ghét-ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương-tiện, nơi một Phật-thừa, phân-biệt nói thành ba.
21.- Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ-tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, người này chẳng phải là đệ-tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.
Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỷ-Khiêu, Tỷ-khiêu-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt-ráo Niết-Bàn, bèn chẳng lại chí-quyết cầu đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỷ-khiêu thực chứng-quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện-tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ-trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.
Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ-trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư-vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật-thừa thôi.
Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
22.- Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni
Cựu lòng tăng-thượng-mạng
Cận-sự-nam ngã-mạn
Cận-sự-nữ chẳng tin,
Hàng bốn-chúng như thế
Số kia có năm nghìn
Chẳng tự thấy lỗi mình
Nơi giới có thiếu-sót
Tiếc giữ tội quấy mình
Trí nhỏ đó đã ra,
Bọn cám tấm trong chúng
Uy-đức Phật phải đi,
Gã đó kém phước-đức
Chẳng kham lãnh pháp này,
Chúng nay không cành lá
Chỉ có những hột chắc
23.- Xá-Lợi-Phất khéo nghe!
Pháp của các Phật được
Vô-lượng sức phương-tiện
Mà vì chúng-sinh nói.
Tâm của chúng-sinh nghĩ
Các món đạo ra làm
Bao nhiêu những tánh dục
Nghiệp lành dữ đời trước
Phật biết hết thế rồi
Dùng các duyên thí-dụ
Lời-lẽ sức phương-tiện
Khiến tất cả vui-mừng.
Hoặc là nói thế-kinh
Cô-khởi cùng bổn-sự.
Bổn-sinh, vị-tằng-hữu
Cũng nói những nhân-duyên
Thí-dụ và Trùng-tụng
Luận-nghị cộng chín kinh.
Căn-độn ưa pháp nhỏ.
Tham-chấp nơi sinh-tử
Nơi vô-lượng đức Phật
Chẳng tu đạo sâu mầu
Bị các khổ-não loạn
Vì đó nói Niết-bàn.
Ta bày phương-tiện đó
Khiến đều vào tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông
Sẽ được thành Phật-đạo
Sở-dĩ chưa từng nói
Vì giờ nói chưa đến,
Nay chính là đến giờ
Quyết định nói đại-thừa.
24.- Chín bộ pháp của ta
Thuận theo chúng-sanh nói
Vào đại-thừa làm gốc
Nên mới nói kinh này.
Có phật-tử tâm tịnh
Êm dịu cũng căn lợi,
Nơi vô-lượng các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hàng phật-tử này
Nói kinh đại-thừa đây.
Ta ghi cho người đó
Ðời sau thành Phật-đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh-giới vậy
Hạng này nghe thành Phật
Rất mừng đầy khắp mình,
Phật biết tâm của kia.
Nên vì nói đại-thừa.
Thanh-Văn hoặc Bồ-tát,
Nghe ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Ðều thành Phật không nghi.
25.- Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có một thừa pháp
Không hai cũng không ba
Trừ Phật phương-tiện nói
Chỉ dùng danh tự giả
Dẫn dắt các chúng-sanh
Vì nói trí-tuệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thực
Hai thứ chẳng phải chơn.
Trọn chẳng đem tiểu-thừa
Mà tế độ chúng-sinh,
Phật tự trụ đại-thừa
Như pháp của mình được
Ðịnh, huệ, lực trang-nghiêm
Dùng đây độ chúng-sanh.
Tự chứng đạo vô-thượng
Pháp bình-đẳng đại-thừa
Nếu dùng tiểu-thừa độ
Nhẫn đến nơi một người
Thời ta đọa sân tham
Việc ấy tất không được,
Nếu người tin về Phật
Như-Lai chẳng dối gạt
Cũng không lòng tham ghen
Dứt ác trong các pháp
Nên Phật ở mười phương
Mà riêng không chỗ sợ.
Ta dùng tướng trang-nghiêm
Ánh-sáng soi trong đời
Ðấng vô-lượng chúng trọng
Vì nói thực-tướng ấn
26.- Xá-Lợi-Phất! nên biết
Ta vốn lập thệ-nguyện
Muốn cho tất cả chúng
Bằng như ta không khác,
Như ta xưa đã nguyện
Nay đã đầy-đủ rồi
Ðộ tất cả chúng-sanh
Ðều khiến vào Phật-đạo
Nếu ta gặp chúng-sanh
Dùng Phật-đạo dạy cả
Kẻ vô-trí rối sai
Mê-lầm không nhận lời.
Ta rõ chúng-sanh đó
Chưa từng tu cội lành
Chấp chặt nơi ngũ-dục
Vì si-ái sinh khổ,
Bởi nhân-duyên các dục.
Sanh vào ba đường dữ
Xoay lăn trong sáu nẻo
Chịu đủ những khổ độc
Thân mọn thụ bào thai
Ðời đời tăng trưởng luôn
Người đức mỏng ít phước
Các sự khổ bức ngặt
Vào rừng rậm tà-kiến
Hoặc chấp có, chấp không
Nương gá các chấp này
Ðầy đủ sáu mươi hai
Chấp chặt pháp hư-vọng
Bền nhận không bỏ được
Ngã-mạn tự khoe cao
Dua-nịnh lòng không thực
Trong nghìn muôn ức kiếp
Chẳng nghe danh-tự Phật
Cũng chẳng nghe chính-pháp
Người như thế khó độ.
27.- Cho nên Xá-Lợi-Phất!
Ta vì bày phương-tiện
Nói các đạo dứt khổ
Chỉ cho đó Niết-Bàn
Ta dầu nói Niết-Bàn
Cũng chẳng phải thực-diệt,
Các pháp từ bản-lai
Tướng thường tự vắng-lặng
Phật-tử hành-đạo rồi
Ðời sau được thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba-thừa.
Tất cả các Thế-Tôn
Ðều nói đạo nhất-thừa
Nay trong đại-chúng này
Ðều nên trừ nghi-lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa.
28.- Vô-số kiếp đã qua
Vô-lượng Phật diệt-độ
Trăm nghìn muôn ức Phật
Số nhiều không lường được.
Các Thế-Tôn như thế
Các món duyên thí-dụ
Vô-số ức phương-tiện
Diễn nói các pháp tướng,
Các đức Thế-Tôn đó
Ðều nói pháp nhất-thừa
Ðộ vô-lượng chúng-sanh
Khiến vào nơi Phật-đạo
Lại các đại-thánh-chúa
Biết tất cả thế-gian
Trời người loài quần-sanh
Thâm-tâm chỗ ưa-muốn
Bèn dùng phương-tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ-nhất.
29.- Nếu có loài chúng-sinh
Gặp các Phật quá-khứ
Hoặc nghe pháp bố-thí
Hoặc trì-giới nhẫn-nhục
Tinh-tấn, thuyền, trí thảy
Các món tu phước-tuệ,
Những người như thế đó
Ðều đã thành Phật-đạo
Sau các Phật diệt-độ
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng-sinh như thế
Ðều đã thành Phật-đạo
30.- Các Phật diệt-độ rồi
Người cúng-dàng Xá-Lợi
Dựng muôn-ức thứ tháp
Vàng, bạc và pha-lê
Xà-cừ cùng mã-não
Ngọc mai-khôi, lưu-ly
Thanh-tịnh rộng nghiêm sức,
Trau-giồi nơi các tháp,
Hoặc có dựng miếu đá
Chiên-đàn và trầm-thủy
Gỗ mật cùng gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thảy,
Hoặc ở trong đồng trống
Chứa đất thành miếu Phật
Nhẫn đến đồng-tử giỡn
Nhóm cát thành tháp Phật,
Những hạng người như thế
Ðều đã thành Phật-đạo.
31.- Nếu như người vì Phật
Xây dựng các hình-tượng
Chạm-trổ thành các tướng
Ðều đã thành Phật-đạo.
Hoặc dùng bảy báu làm
Thau, đồng bạch, đồng đỏ
Chất nhôm cùng chì kẽm
Sắt, gỗ cùng với bùn
Hoặc dùng keo, sơn, vải
Nghiêm-sức làm tượng Phật
Những người như thế đó
Ðều đã thành Phật-đạo
Vẽ vời làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang-nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Ðều đã thành Phật-đạo.
Nhẫn đến đồng-tử giỡn
Hoặc cỏ cây và bút
Hoặc lấy móng tay mình
Mà vẽ làm tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công-đức
Ðầy đủ tâm đại-bi
Ðều đã thành Phật-đạo
Chỉ dạy các Bồ-tát
Ðộ thoát vô-lượng chúng.
32.- Nếu người nơi tháp-miếu
Tượng báu và tượng vẽ
Dùng hoa, hương, phan, lọng
Lồng kính mà cúng-dàng
Hoặc khiến người trổi nhạc
Ðánh trống, thổi sừng ốc
Tiêu địch, cầm, không-hầu
Tỳ-bà, chụp-chả đồng
Các tiếng hay như thế
Ðem dùng cúng-dàng hết
Hoặc người lòng vui-mừng
Ca ngâm khen đức Phật
Nhẫn đến một tiếng nhỏ
Ðều đã thành Phật-đạo
33.- Nếu người lòng tán-loạn
Nhẫn đến dùng một hoa
Cúng-dàng nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc lại chỉ chắp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng-dàng tượng
Lần thấy vô-lượng Phật
Tự thành đạo vô-thượng
Rộng độ chúng vô-số
Vào vô-dư Niết-bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu lòng người tán-loạn
Vào nơi trong tháp-miếu
Một xưng Nam-mô Phật
Ðều đã thành Phật-đạo
Nơi các Phật quá-khứ
Tại-thế, hoặc diệt-độ,
Có người nghe pháp này
Ðều đã thành Phật-đạo
34.- Các Thế-Tôn vị-lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như-Lai đó
Cùng phương-tiện nói pháp.
Tất cả các Như-Lai
Dùng vô-lượng phương-tiện
Ðộ thoát các chúng-sinh
Vào trí vô-lậu Phật,
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật.
Các Phật vốn thệ-nguyện
Ta tu hành Phật-đạo
Khắp muốn cho chúng-sinh
Cũng đồng được đạo này.
Các Phật đời vị-lai
Dầu nói trăm nghìn ức
Vô-số các pháp-môn
Kỳ-thực vì nhất-thừa.
Các Phật lưỡng-túc-tôn
Biết pháp thường không tính
Giống Phật theo duyên sinh
Cho nên nói nhất-thừa.
Pháp đó trụ ngôi pháp
Tướng thế-gian thường còn
Nơi đạo-tràng biết rồi
Ðức Phật phương tiện nói.
Hiện-tại mười phương Phật
Của trời người cúng-dàng
Số nhiều như hằng-sa
Hiện ra nơi thế-gian
Vì an-ổn chúng-sanh
Cũng nói pháp như thế.
Biết vắng-bặt thứ nhất
Bởi dùng sức phương-tiện
Dầu bày các món đạo
Kỳ-thực vì Phật-thừa
Biết các hạnh chúng-sinh
Thâm-tâm nó nghĩ nhớ
Nghiệp quen từ quá-khứ
Tính-dục, sức tinh-tấn
Và các căn-lợi độn
Dùng các món nhân-duyên
Thí-dụ cùng lời-lẽ
Tùy-cơ phương-tiện nói.
Từ nay cũng như vậy
Vì an-ổn chúng-sinh
Dùng các món pháp-môn
Rao bày nơi Phật-đạo
Ta dùng sức trí-tuệ
Rõ tính dục chúng-sinh
Phương-tiện nói các pháp
Ðều khiến được vui-mừng.
Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng-sinh
Nghèo cùng không phước-tuệ
Vào đường hiểm sinh-tử
Khổ nối luôn không dứt
Sâu tham nơi ngũ-dục
Như trâu 'mao' mến đuôi
Do tham-ái tự che
Ðui mù không thấy biết
Chẳng cầu Phật thế lớn
Cùng pháp dứt sự khổ
Sâu vào các tà-kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ
Phật vì chúng-sinh này
Mà sinh lòng đại-bi
36.- Xưa, tu ngồi đạo-tràng
Xem cây cùng kinh-hành
Suy-nghĩ việc như vầy:
Trí-tuệ của ta được
Vi-diệu rất thứ nhất
Chúng-sinh các căn chậm
Tham vui si làm mù
Các hạng người như thế
Làm sao mà độ được?
Bấy giờ các Phạm-Vương
Cùng các Trời Ðế-Thích
Bốn Thiên-Vương hộ đời
Và trời Ðại-tự-tại
Cùng các thiên-chúng khác
Trăm nghìn ức quyến-thuộc
Chắp tay cung-kính lễ
Thỉnh ta chuyển-pháp-luân.
Ta liền tự suy-nghĩ
Nếu chỉ khen Phật-thừa
Chúng-sanh chìm nơi khổ
Không thể tin pháp đó
Do phá pháp không tin
Rớt trong ba đường dữ
Ta thà không nói pháp
Mau vào cõi Niết-Bàn
Liền nhớ Phật quá-khứ
Thực-hành sức phương-tiện
Ta nay chứng được đạo
Cũng nên nói ba thừa.
37.- Lúc ta nghĩ thế đó
Mười phương Phật đều hiện
Tiếng phạm an-ủi ta
Hay thay! đức Thích-Ca
Bậc Ðạo-sư thứ nhất
Ðược pháp vô-thượng ấy
Tùy theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương-tiện
Chúng ta cũng đều được
Pháp tối-diệu thứ nhất
Vì các loại chúng-sinh
Phân-biệt nói ba-thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳng tự tin thành Phật
Cho nên dùng phương-tiện
Phân-biệt nói các quả
Dầu lại nói ba-thừa
Chỉ vì dạy Bồ-tát.
38.- Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta nghe các đức Phật
Tiếng nhiệm-mầu rất sạch
Xưng: 'Nam-mô chư Phật!'
Ta lại nghĩ thế này
Ta ra đời trược-ác
Như các Phật đã nói
Ta cũng thuận làm theo
Suy-nghĩ việc đó rồi
Liền đến thành Ba-Nại.
Các pháp-tướng tịch-diệt
Không thể dùng lời bày
Bèn dùng sức phương-tiện
Vì năm Tỷ-khiêu nói.
Ðó gọi chuyển-pháp-luân
Bèn có tiếng Niết-bàn
Cùng với A-La-Hán
Tên pháp, tăng sai khác.
Từ kiếp xa nhẫn lại
Khen bày Pháp Niết-Bàn
Dứt hẳn khổ sống chết
Ta thường nói như thế
39.- Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta thấy các Phật-tử
Chí-quyết cầu Phật-đạo
Vô-lượng nghìn muôn ức
Ðều dùng lòng cung-kính
Ðồng đi đến chỗ Phật
Từng đã theo các Phật
Nghe nói pháp phương-tiện
Ta liền nghĩ thế này
Sở-dĩ Phật ra đời
Ðể vì nói Phật-tuệ
Nay chính đã đúng giờ.
40.- Xá-Lợi-Phất phải biết!
Người căn chậm trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu-mạo
Chẳng thể tin pháp này
Nay ta vui vô-úy
Ở trong hàng Bồ-tát
Chính bỏ ngay phương-tiện
Chỉ nói đạo vô-thượng.
Bồ-tát nghe pháp đó
Ðều đã trừ lưới nghi
Nghìn hai trăm la-hán
Cũng đều sẽ thành Phật
Như nghi-thức nói pháp
Của các Phật ba đời
Ta nay cũng như vậy
Nói pháp không phân-biệt
Các đức Phật ra đời
Lâu xa khó gặp-gỡ
Chính sử hiện ra đời
Nói pháp này khó hơn
Vô-lượng vô-số kiếp
Nghe pháp này cũng khó,
Hay nghe được pháp này
Người đó cũng lại khó
Thí như hoa linh-thoại
Tất cả đều ưa-mến
Ít có trong trời, người
Lâu lâu một lần trổ.
41.- Người nghe pháp mừng khen
Nhẫn đến nói một lời
Thời là đã cúng dàng
Tất cả Phật ba đời
Người đó rất ít có
Hơn cả hoa Ưu-đàm.
Các ông chớ có nghi
Ta là vua các pháp
Khắp bảo các đại chúng
Chỉ dùng đạo nhất thừa
Dạy bảo các Bồ-tát
Không Thanh-Văn đệ-tử
42.- Xá-Lợi-Phất các ông!
Thanh-Văn và Bồ-tát
Phải biết pháp mầu này
Bí yếu của các Phật
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham ưa các dục
Những chúng-sinh như thế
Trọn không cầu Phật-đạo
Người ác đời sẽ tới
Nghe Phật nói nhất-thừa
Mê lầm không tin nhận
Phá pháp đọa đường dữ
Người tàm quí trong sạch
Quyết chí cầu Phật-đạo
Nên vì bọn người ấy
Rộng khen đạo nhất-thừa.
Xá-Lợi-Phất nên biết
Pháp các Phật như thế
Dùng muôn ức phương-tiện
Tùy thời nghi nói pháp
Người chẳng học tập tu
Không hiểu được pháp này
Các ông đã biết rõ
Phật là thầy trong đời
Việc phương-tiện tùy-nghi
Không còn lại nghi lầm
Lòng sinh rất vui mừng
Tự biết sẽ thành Phật.
________
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
_________________
QUYỂN THỨ NHẤT
________
Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương-tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.
Nam-mô Pháp-hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.
Nam-mô quá-khứ Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh Phật (3 lần)
THÍCH NGHĨA
(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là 'Khế Kinh' nghĩa là  'pháp thường khế hiệp chân-lý cùng khế hiệp căn-cơ chúng-sinh'. DIỆU PHÁP LIÊN HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả các pháp. Kinh pháp này là bậc nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc-biệt:
1. Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.
2. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.
3. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.
4. Ong và bướm không bu đậu.
5. Không bị người dùng làm trang điểm (Xưa đàn bà Ấn-Ðộ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)
(2) Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công-đức lành.
(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh-tử luân hồi.
(5) Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi 'Hữu-học'. Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong tiểu thừa pháp, thời không còn phải học nữa nên gọi Vô-học.
(7) Quả chứng của Phật.
(8) Tổng trì: Gồm nhiếp các Pháp.
(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.
(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.
(11) Tên của vị vua 33 nước trời Ðao-lỵ ở trên đỉnh núi Tu-Di.
(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.
(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Ðao-lỵ.
(14) Thần phi-thiên: có phúc như trời mà đức kém hơn trời.
(15) Chim cánh vàng (kim sí-điểu)
(17) Thần rắn.
(18) 1) Trời, 2) Người, 3) A-tu-la, 4) Thú, 5) Quỉ, 6) Ðịa ngục.
(19) Phật là vua pháp (pháp-vương). Bồ-tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.
(20) Người thụ tam-qui ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là 'Cư-sĩ'.
(21) Vô-số (một số lớn). Kiếp có: tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp. Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm. Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp. Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.
(22) 1) Khổ-đế, 2) Tập-đế, 3) Diệt-đế, 4) Ðạo-đế.
(23) 1) Vô-minh, 2) Hành, 3) Thức, 4) Danh sắc, 5) Lục nhập, 6) Xúc, 7) Thụ, 8) Ái, 9) Thủ, 10) Hữu,
11) Sinh, 12) Lão-tử . 12 món này làm nhân duyên lẫn nhau.
(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4)Tinh-tấn-độ, 5) Thuyền-định-độ,
6) Trí-tuệ-độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Ðông-thắng-thần châu. 2) Nam-Thiệm-bộ châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa châu, 4) Bắc-câu-lô
châu.
(27) (THỌ-KÝ): Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...
(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Ðộ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số
cát ấy để chỉ một một số đông nhiều.
(29) Ông thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa, Phật-thừa.
(31) Phương-chước hay phương-pháp tiện-lợi dễ-dàng.
 
SỰ-TÍCH
TẢ KINH PHÁP HOA
ÔNG NGHIÊM CUNG
Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Ðại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phát cho người trì tụng.
Lúc đó có thần ở miếu Cung-Ðình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.
Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: 'Giúp ông mua giấy'. Nói xong biến mất.
Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Ðô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.
Ðến cuối đời Ðường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.
'Vậy thời tả kinh, hay in kinh công-đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện-tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà mọi người ở gần cũng được nhờ, cả thần thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.' HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.21/10/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment