Wednesday 23 October 2013

Ý nghĩa xuất gia.





 
Đức Phật ra đời trong loài người, mở ra cho chúng ta nguồn sống bất tử. Giáo lý của ngài dành trọn vẹn cho con người. Những người đệ tử có nhân duyên phát tâm sống theo con đường giải thoát của Đức Phật, họ có hai hướng đi do Phật vạch ra. Một hướng dành cho Phật tử tại gia và một hướng của Phật tử xuất gia.
Đức Phật phân định rõ ràng tư cách, vị trí, việc làm khác nhau của đệ tử xuất gia và tại gia. Dù hai hàng xuất gia và tại gia cùng đi chung lộ trình giải thoát, nhưng Đức Phật đã đề cao tư cách của đệ tử xuất gia là chúng trung tôn, là trưởng tử của Như Lai, là giường cột của đạo pháp. Điều này đã nói lên vai trò quan trọng chính yếu của người xuất gia trong công việc hoằng truyền chánh pháp Như Lai.
Ngoài ra, theo quan niệm thông thường, mọi người đều nghĩ rằng người xuất gia được nhiều công đức; nên Phật tử nào cũng ham muốn xuất gia. Tuy nhiên, khi bước chân vào sống trong giới xuất gia, họ chẳng được chút công đức gì, mà chỉ gặp toàn là sóng gió. Họ bị đẩy từ khó khăn này đến khó khăn khác; đến độ phải thoái tâm, bỏ cuộc. Số người hoàn tục không ít và trở về đời sống tại gia thường nhật, họ cũng gặp nhiều trở ngại mà người ta thường phê phán là lỡ đời, lỡ đạo.
Muốn cho vấn đề sáng tỏ, để việc xuất gia tu học đúng theo con đường của Đức Phật vạch ra, chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa xuất gia. Để có thể tiêu biểu cho hình ảnh của Phật trên cuộc đời và thay ngài giáo hóa chúng sinh, người xuất gia phải thể hiện trọn vẹn ý nghĩa hai chữ xuất gia trong đời sống tu hành. Đối với Tăng Ni đang đi theo con đường xuất gia, không mang ý nghĩa gì khác hơn là chúng ta đang nỗ lực hoàn chỉnh ba việc làm chính yếu là xuất thế tục gia, xuất phiền não gia và xuất tam giới gia.
Trước tiên, khi bước theo lộ trình của người xả tục xuất gia, chúng ta nhìn đời khác với cái nhìn đầy tham vọng trước kia; nghĩa là chúng ta bắt đầu thay đổi cách nhìn về nhân sinh. Quán sát theo lời Phật dạy về con người và thế giới con người đều chịu sự chi phối của định luật vô thường sinh diệt. Nói chung, nhìn vào thật tướng các pháp, thấy được tất cả vậtluôn thay đổi. Thay đổi từ thân vật chất, đếntinh thần, hay hoàn cảnh bên ngoài và xa hơn nữa, thay đổi cả vận hành của muôn pháp trong vũ trụ.
Tất cả những hiện hữu trên cuộc đời dưới dạng giả hợp này thường được Phật dạy rằng các pháp hữu vi như chiêm bao, như bọt nước, như ảo thuật, chỉ là cái bóng mà thôi. Tuy nhiên, người thế gian mê lầm bị những ảo hóa giả tạm đó xoay chuyển, làm mất bản tâm. Ví như người xem ảo thuật, say mê cái giả đến độ quên mất cảnh sống thật của mình.
Trái lại, người xuất gia nhận chân được mọi loài hữu tình, vô tình, vật chất, tinh thần, đều nằm trong quy luật sinh diệt biến hóa. Vì thế, bước đi đầu tiên của chúng ta tu hành là ra khỏi nhà thế tục, không chạy theo cuộc đời huyễn mộng. Chúng ta từ bỏ những gì không thật, không cần thiết cho đời sống thường hằng của người tu.
Chúng ta còn nhớ xưa kia động cơ thúc đẩy Đức Phật đi tìm chân lý, cũng vì ngài thấu rõ và nhàm chán cái giả tạm của vạn vật. Và hơn nữa, ngài không chịu khuất phục, mặc cho vô thường tiêu diệt mình. Trong năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh, ngài cắt đứt mọi liên hệ thế gian, không cho những phiền hà bên ngoài quấy nhiễu. Ngài để tâm, suy tư, tập trung đến mức độ cao nhất, gọi là tuệ đã sinh, minh đã sinh. Ngài nhìn vật chính xác, không còn lỗi lầm. Ở trong cảnh giới vô thường, Đức Phật đã tìm được cái chơn thường. Ngài mới trở thành vĩnh hằng bất tử, sống mãi với nhân loại cho đến ngày nay.
Chúng ta xuất gia cũng vậy, tập nhìn theo Phật, biết rõ mọi vật không bền chắc. Từ đó, không sinh vọng tâm, tham đắm; chúng ta được giải thoát. Những gì người thế tục nói, làm, ưa thích, người xuất gia hoàn toàn không làm, không ưa thích, gọi là "tâm hình dị tục”.
Tuy nhiên, không phải chúng ta giác ngộ mọi việc vô thường, để rồi chán nản, buông xuôi hai tay, mặc kệ nó. Trái lại, chúng ta quan sát sự vật thay đổi và an thân lập mạng, uyển chuyển theo sự thay đổi của nó, nhịp nhàng thích nghi, mới được giải thoát; giống như chúng ta thay đổi y phục tùy theo thời tiết. Chúng ta tự đặt mình nằm ngoài sự biến đổi, không để hoàn cảnh chi phối, tác hại cuộc sống vật chất và tinh thần của chúng ta.
Từ bước căn bản là người xuất gia từ bỏ những gì sinh diệt, để hướng tâm đến cái không sinh diệt. Lần hồi chúng ta phát hiện thường tánh của mọi vật và tu dưới dạng thường tánh, mới là điều quan trọng. Bấy giờ, an trú trong thế giới nội tâm, tiếp nhận niềm vui kỳ diệu tồn tại, luân chuyển trong tâm hồn; không bị lệ thuộc ở ngoại cảnh hay người. Đạt được sở đắc này, hành giả đã thể hiện được phần nào mẫu người xuất gia đáng quý.
Sau khi vượt bỏ ngôi nhà thế tục, với nhận thức rằng mọi việc giả tạm, thay đổi, biến hóa theo nhân duyên, là điều tất yếu. Người tu quyết chí tu hành, không bận tâm đến những thị phi, danh lợi, hơn thua làm gì. Nhờ không để tâm mà không sinh buồn phiền, tức giận. Và những phiền muộn nổi dậy trong lòng, chúng ta cũng biết nó là giả, phải tự dập tắt.
Đối với người xuất gia, muốn theo con đường giải thoát, nhà phiền não là chướng ngại thứ hai dứt khoát phải vượt qua. Vì chúng ta nhận chân được phiền não đồng nghĩa với vô minh; nó tiêu hủy đức hạnh và trí tuệ, làm cách ly chúng ta với Phật.
Đức Phật dạy rằng chúng ta cũng có kho tàng tri kiến Như Lai như ngài. Chúng ta không sử dụng được, chỉ vì dại khờ để bọn ma phiền não đánh cướp thánh tài vô giá ấy.
Để nhận diện được giặc phiền não, chúng ta căn cứ theo phân tích của ngài Thế Thân trong luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, thấy được sáu căn bản phiền não và 21 tùy phiền não. Kiểm tra cho kỹ từng phiền não đã đốt chết chơn tánh, người xuất gia nỗ lực khắc phục chính bản thân mình, xóa tan những phiền não tồn tại.
Trên bước đường tu, chúng ta đoạn diệt được một phần phiền não, tầm nhìn theo đó sáng ra. Xóa sạch phiền não nhiễm ô và làm cho mình thanh tịnh, mới lấy đó làm hạt nhân tác động cho người trong sạch theo. Ngược lại, mang tâm nhiễm ô, tội lỗi mà giáo hóa chúng sinh thì thật vô ích; chẳng khác gì hai người mù dẫn nhau đi.
Đức Phật giác ngộ, thấy phiền não khởi từ tâm. Nhưng chúng ta đối cảnh sinh phiền não, nên lầm tưởng nó ở ngoài. Nói cách khác, ta nhận lầm phiền não là ta, nên luôn luôn khổ đau. Thật vậy, cảnh bên ngoài dù có thay đổi, tâm chúng ta vẫn tự tại, bình thản, thì tác động của cảnh cũng chẳng ảnh hưởng gì đến ta. Tu hành cần lưu ý điều chỉnh nội tâm hơn là hướng về ngoại cảnh. Phiền não tận diệt thì hoàn cảnh tự tốt đẹp theo. Không đoạn trừ phiền não trong tâm, nhưng siêng năng làm nhiều, thì càng làm, phiền não càng nổi dậy; trở thành tự ái, bất mãn, chúng ta đã tu sai pháp.
Qua hai chặng đường xuất thế tục và xuất phiền não, sinh hoạt bình thường của con người về vật lý và tâm lý không còn chi phối người xuất gia được. Chúng ta tiến đến mục tiêu thứ ba của người xuất gia là cố gắng vượt ra khỏi ba cõi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chúng ta nhận chân được cách sống của ba cõi, từ cuộc sống vật chất của cõi Dục, đến cuộc sống bằng ý thức nhiễm ô của Sắc giới, và sống với những phiền não chất chứa từ bao đời của kho A lại da thức trong cảnh Vô Sắc.
Ba cách sống này muôn đời đeo đẳng, nhận chìm mọi người trầm luân sinh tử trong tam giới. Hành giả nương theo giáo pháp tam thừa tu tập, vượt qua sinh diệt pháp của thế gian và đoạn trừ tận gốc tham sân, phiền não. Hành giả không còn bị định luật thiên nhiên và tình cảm dày xéo, nhưng sống với giới thân huệ mạng thường còn bất biến.
An trụ trong thế giới tri thức, đạo đức; hành giả nhận thức về cuộc sống con người chính xác hơn, việc làm đúng đắn, thánh thiện hơn. Vì thế, hành giả không bị thế gian ràng buộc. Tuy thân còn hiện hữu ở thế gian, nhưng không bị cuộc đời làm ô nhiễm. Đó là chân hạnh phúc trên trần thế, hay hữu dư y Niết bàn.
Dù thế gian không có gì hấp dẫn, hành giả vẫn tiếp tục hiện diện ở cõi đời, làm mẫu người mô phạm tác động lợi ích cho thế gian. Thành tựu xong hạnh nguyện này, bất cứ lúc nào thân vô thường hoại diệt theo định luật thời gian, hành giả không buồn quan tâm đến nó; nhẹ nhàng bỏ sanh thân tạm bợ, trở về với Pháp thân vĩnh hằng.
Ngoài ba nghĩa trên, ý nghĩa xuất gia cũng được đề cập trong kinh Duy Ma. Qua phẩm Thanh Văn, chúng ta nhận thấy Duy Ma chỉnh lý sự sai lầm về vấn đề xuất gia. Ngài mượn nhận thức sai lầm của một số người mà gán cho La Hầu La, để chỉ chúng ta thế nào là xuất gia đúng pháp.
La Hầu La không dám đến thăm bệnh Duy Ma, nhằm nói lên sự hối hận của La Hầu La. Điều này muốn ám chỉ sự hối hận củangười tu sĩ đã vì lầm lẫn khuyên người bỏ nhà đi tu để mong cầu công đức. Người quan niệm xuất gia có phước đức rồi xuất gia, họ đã phạm sai lầm từ căn bản. Vì mong cầu lợi mà xuất gia, tham chấp lợi thì có khác gì phát xuất từ lòng tham, thuộc về nghiệp và phiền não. Xuất gia như vậy chắc chắn không thể hiện đúng con đường xuất gia của Phật.
Theo Duy Ma, xuất gia đúng nghĩa là phát tâm Bồ đề. Bồ đề tâm còn có tên khác là tuệ giác, tức khả năng nhận thức sáng suốt. Chính vì xuất gia mang ý nghĩa đích thực là Bồ đề tâm, nên người xuất gia thường dùng khẩu hiệu "Duy tuệ thị nghiệp” làm kim chỉ nam trong cuộc sống tu hành.
Thật vậy, sự nghiệp của người xuất gia là trí tuệ; vì trí tuệ, hay tánh sáng suốt quyết định tất cả. Trong hầu hết kinh điển, Đức Phật đều đề cao vai trò quan trọng của trí tuệ và đưa ra phương pháp tu để phát triển tánh sáng suốt. Riêng đối với Đức Phật, mọi người tôn thờ kính ngưỡng cũng vì ngài đã đạt quả vị Toàn giác; đó là đỉnh cao nhất của trí năng.
Đối với hàng Thanh văn, trong quá trình tu tập phát triển Bồ đề tâm, họ thường xuyên gạn lọc tội lỗi, luôn suy nghĩ lời Phật dạy để đem pháp lành vào tâm. Nhờ chận đứng dục nhiễm, trau giồi đạo hạnh, tâm được bình ổn, sáng suốt, Thanh văn thấy được mặt thật của cuộc đời, sống đúng theo hoàn cảnh, làm gương tốt cho người. Trên căn bản đó, đời sống của Thanh văn bỏ tục xuất gia, hưởng thụ của đời rất ít; trong khi họ đóng góp lợi lạc cho đời rất nhiều.
Tiến lên một nấc cao hơn và quan trọng hơn là Bồ đề tâm của Bồ tát không phải chỉ mang tính chất thuần lý như Thanh văn ngồi yên suy nghĩ, đối chiếu lời Phật dạy, để thấy chính xác. Bồ tát không nhất thiết phải mang hình thức xuất gia của Phật. Bồ tát thật sự thể hiện trọn vẹn tư cách xuất gia, vì các ngài dấn thân vào cuộc đời, sống ở tình huống nào cũng vận dụng được trí năng để giải quyết thành công mọi việc. Chẳng những Bồ tát không bị hoàn cảnh bức bách, mà còn chuyển hướng trở thành tốt đẹp.
Dưới kiến giải của Duy Ma, hành giả dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều là xuất gia, nếu vận dụng được trí tuệ đặc thù của mình mà vượt qua mọi khó khăn và giảiquyết vấn đề nhẹ nhàng, đúng đắn. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy rõ cuộc đời của các vị Thiền sư xuất hiện dưới nhiều việc làm khác nhau. Các ngài đóng góp đáng kể cho dân tộc, nên mọi người phải kính ngưỡng. Các ngài thể hiện trọn vẹn ý nghĩa xuất gia theo Duy Ma dạy.
Tóm lại, hàng nhị thừa Thanh văn, hay Bồ tát xuất gia đúng pháp, đều phải hành sử trên căn bản phát huy trí tuệ. Và các ngài thể hiện sinh khí trong sáng của chánh pháp vào đời sống phạm hạnh, thanh tịnh. Như vậy, mới xứng danh là chúng trung tôn tiếp nối mạng mạch Như Lai, hiện hữu như một người khách quý mà mọi người mong chờ. Các ngài đến hay đi, đều lưu lại trong lòng người biết bao niềm kính mến, mang an lạc, giải thoát khắp muôn nơi. Đó cũng chính là con đường xuất gia mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã chọn và thể hiện trên cuộc đời này.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.23/10/2013.THICH CHAN TANH.THE MIND OF ENLIGHTMENT.

No comments:

Post a Comment