GIỚI THIỆU
Hầu như người Việt nam chúng ta ai ai cũng
biết đậu hũ nhưng ít ai biết đến chất isoflavone và các hóa chất thảo mộc khác
trong đậu nành, có khả năng phòng ngừa và trị liệu một số bệnh như bệnh đau tim,
bệnh tai biến mạch máu não, bệnh ung thư vú, ung thư nhiếp hộ tuyến và ung thư
kết tràng.
Vì tính chất đa năng và đa hiệu của đậu
nành do những khám phá gần đây của khoa học nên chúng tôi đã cố gắng soạn thảo
tập tài liệu dưới đây để cống hiến quý bạn và đồng thời cũng để làm sáng tỏ nghi
vấn ăn đậu hũ không tốt cho nhiều người. Tất cả những điều chúng tôi trình bầy
đều lấy từ các nguồn tư liệu có thẩm quyền như kết quả của các công trình khảo
cứu khoa học của Viện Ung Thư Quốc Gia và các viện đại học danh tiếng ở
Mỹ
LỊCH SỬ ĐẬU NÀNH
Đậu nành xuất hiện đầu tiên tại Trung Hoa
khoảng 5000 năm trước đây nhưng mãi đến năm 300 trước Thiên Chúa giáng sinh mới
được ghi vào cổ thư là một nông phẩm chính của miền Bắc Trung Hoa. Từ đây, đậu
nành được lan truyền qua Triều Tiên, Nhật Bản, xuống miền Nam Trung Hoa và các
nước Đông Nam Á Châu. Đến Nhật Bản vào thế kỷ thứ 8 sau Tây lịch và khoảng một
ngàn năm sau đó qua đến Âu Châu.
Bởi vì đậu nành sản sinh nhiều protein
hơn bất cứ loại nông sản nào nên nó được ưa chuộng và trở thành thực phẩm chính
của nhiều quốc gia Á Châu. Những thực phẩm được biến chế từ đậu nành như sữa,
đậu hũ và tầu hũ ky đã có từ hai ngàn năm trước đây, ngày nay đậu hũ là món thực
phẩm được ưa chuộng và phổ thông nhất trên thế giới. Tại một vài thành phố Trung
Hoa, các xưởng làm sữa đậu nành vào sáng sớm để giao sữa nóng đến từng nhà, và
cho đến gần đây, sữa đậu nành tiêu thụ ở Hồng Kông đã nhiều hơn số tiêu thụ
Coca-Cola. Người Trung Hoa tin rằng đậu nành có khả năng chữa lành các chứng
bệnh về thận, phù thũng, da, tiêu chẩy, anemia và leg ulcers.
Đậu nành được du nhập vào lục địa Hoa Kỳ
năm 1765 nhưng chỉ được xem là một loại hạt đậu mới mà thôi cho đến khi Dr. John
Harvey Kellog cách mạng thức ăn sáng của người Hoa Kỳ bằng sữa đậu nành, cereal
và các thức ăn biến chế từ protein đậu nành vào những năm 1920s.
Năm 1931, Dr. A.A. Horvath xuất bản tài
liệu mang nhan đề là "Soya Flour as a National Food." Trong tài liệu này
ông nói rằng dinh dưỡng bằng thực phẩm đậu nành rất là bổ khỏe và có giá trị
cao.
Nhờ những nỗ lực của ông mà ngày nay Hoa
Kỳ sản xuất trên 12 tỷ dollars đậu nành mỗi năm tức khoảng 50 triệu metric tons,
hay bằng phân nửa số lượng sản xuất trên thế giới. Bất hạnh thay, ngoại trừ 1/3
được xuất cảng qua các nước như Nhật Bản v..v.., chúng ta đã dùng 95% số lượng
còn lại để làm thức ăn cho súc vật, thay vì cho người ăn !
NHỮNG QUỐC GIA ĂN NHIỀU ĐẬU NÀNH
Tại các quốc gia vùng Vin Đông, các thực
phẩm biến chế từ đậu nành đã cách mạng lề lối ăn uống của dân chúng, họ dùng
thực phẩm đậu nành hàng ngày như là nguồn dinh dưỡng chính. Những thứ này gồm
có: đậu hũ, sữa đậu nành, miso, tempeh, tương, chao, phù trúc và
dầu..v..v..
Trung bình một người trưởng thành Nhật
Bản (adult) ăn khoảng 50 pounds đậu hũ mỗi năm. Ngày nay nhiều nhà khoa học và
nghiên cứu gia Tây phương đã xác nhận và đánh giá tốt điều mà các y sĩ Trung Hoa
tin tưởng trước đây về khả năng của đậu nành trong việc phòng ngừa và trị liệu
một vài chứng bệnh. Những bệnh như: tim mạch, ung thư, tiểu đường, xốp xương và
thận ít xảy ra tại những vùng dân số tiêu thụ nhiều đậu nành. Hãy xem một vài
con số thống kê dưới đây:
Tại Nhật Bản tỷ lệ chết về bệnh ung thư
vú chỉ bằng một phần tư Hoa Kỳ, tại Trung Hoa là 1/5 và ở Đại Hàn là
1/10.
Chỉ có 10% phụ nữ Nhật Bản có hiệu chứng
nóng phừng (hot flash) vào thời kỳ mãn kinh và tỷ lệ bị bệnh bể xương hông thấp
hơn phụ nữ Hoa Kỳ.
Tại Đại Hàn tỷ lệ phái nam bị bệnh ung
thư trực tràng chỉ bằng 1/4 Hoa Kỳ và bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến là 1/10 so với
Hoa Kỳ.
Sự thực, có nhiều bằng chứng cho thấy
rằng sự tiêu thụ các thực phẩm đậu nành hằng ngày làm giảm nguy cơ xảy ra các
chứng bệnh ung thư vú, nhiếp hộ tuyến, ung thư kết tràng, dạ dày,
da..v..v..
Thế còn bệnh tim mạch bao gồm chứng nhồi
máu cơ tim (heart attack) và tai biến mạch máu não (stroke) thì sao? Theo một
nghiên cứu khoa học thì cứ hai người Hoa kỳ chết có một người chết về bệnh này,
trong khi đó tại Shanghai chỉ có một người trong số 15 người chết.
Có rất nhiều nghiên cứu khoa học đã
khuyến cáo người dân Hoa Kỳ nên thay thế protein thịt động vật bằng protein đậu
nành nhằm làm giảm lượng cholesterol trong máu và ngăn ngừa các chứng bệnh về
tim mạch và ung thư.
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA ĐẬU NÀNH
Hầu như ai cũng biết đậu nành có chứa rất
nhiều protein bao gồm tất cả 8 loại amino acids thiết yếu. Đậu nành cũng là
nguồn phong phú cung cấp calcium, chất xơ, chất sắt và chất sinh tố B.
Cái mà các khoa học gia thích thú nhất
trong những năm nghiên cứu gần đây là sự khám phá ra các hóa chất thảo mộc, mà
chúng tôi tạm gọi là hóa thảo (PHYTOCHEMICALS), có trong đậu nành và những ứng dụng của
chúng, trong lãnh vực y khoa trị liệu.
Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ, Viện Đại
Học Havard, Viện Đại Học Alabama, Minnesota, Iowa và Helsinki, Finland, đã thực
hiện nhiều công trình khảo cứu khoa học để xác định những lợi ích của các hóa
thảo đậu nành này. Họ đã thấy rằng sự tiêu thụ những chất này không những có khả
năng ngăn ngừa mà nó còn có khả năng trị liệu các bệnh như đã nói tới ở trên.
Những hóa thảo đậu nành gồm có: protease inhibitors, phytates, phytosterols,
saponins, phenolic acids, lecithin, omega 3 fatty acids, và isoflavones
(phytoestrogens).
PROTEASE INHIBITORS - có khả năng ngăn
ngừa sự tác động của một số gene di truyền gây nên chứng ung thư. Nó cũng bảo vệ
các tế bào cơ thể không cho hư hại gây nên bởi những môi trường sống xung quanh
như tia nắng mặt trời và các chất ô nhim trong không khí. Năm 1980 các khoa học
gia đã khám phá ra đậu nành nguyên chất có tác dụng ngăn cản không cho bệnh ung
thư phát triển nơi các loài động vật và những năm sau đó họ đã xác nhận sự tác
dụng chống ung thư cho nhiều loại bệnh ung thư. Tuy nhiên protease inhibitors bị
mất bớt đi sau khi đậu nành được biến chế qua phương pháp làm nóng. Thí dụ như
sữa đậu nành loại dehydrated soymilk còn lại 41%, đậu hũ còn lại 0.9% so với bột
đậu nành nguyên chất. [1]
PHYTATES - là một hợp thể phosphorus và
inositol, có khả năng ngăn trở tiến trình gây nên bệnh ung thư kết tràng (colon
cancer) và ung thư vú (breast cancer). Ngoài ra nó cũng còn có khả năng trừ khử
những chất làm cho tế bào d bị ung thư (oxygen free radicals) và phục hồi những
tế bào đã bị hư hại. Được biết chất sắt thặng dư trong cơ thể thường sản sinh ra
oxygen free radicals, nhưng khi có sự hiện diện của phytate, chất này sẽ bị hủy
diệt khả năng sản sinh và vì thế phytate hành xử giống như chất
antioxydants.
Cũng nên biết, sau nhiều năm lưu ý dân
chúng rằng phytate có thể gây phương hại đến tình trạng thiếu chất sắt trong cơ
thể vì nó ngăn cản sự hấp thụ chúng, nay các nhà khoa học đã khám phá ra rằng
phytate bảo vệ chúng ta khỏi có quá nhiều chất sắt. [2]
PHYTOSTEROLS - cũng có khả năng phòng
ngừa các bệnh về tim mạch bằng cách kiểm soát lượng cholesterol trong máu, đồng
thời nó cũng có khả năng làm giảm thiểu sự phát triển các bứu ung thư kết tràng
và chống lại ung thư da. [3] Những nhóm dân số tiêu thụ nhiều sản phẩm đậu nành
như Nhật Bản, Triều Tiên và Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm Hoa Kỳ đã có tỷ lệ thấp căn
bệnh ung thư kết tràng.
SAPONINS - giống như phytate, hành xử như
chất anti-oxidants để bảo vệ tế bào cơ thể chúng ta khỏi bị hư hại do tác dụng
free radicals. Nó cũng còn có khả năng trực tiếp ngăn cản sự phát triển ung thư
kết tràng và đồng thời làm giảm lượng cholesterol trong máu.
PHENOLIC ACIDS - là một dược chất hóa học
anti-oxidants và phòng ngừa các nhim sắc thể DNA khỏi bị tấn công bởi các tế bào
ung thư.
LECITHIN - là một hóa chất thực vật quan
trọng, đóng một vai trò quyết định trong việc kích thích sự biến dưỡng ở khắp
các tế bào cơ thể. Nó có khả năng làm gia tăng trí nhớ bằng cách nuôi dưỡng tốt
các tế bào não và hệ thần kinh, nó làm vững chắc các tuyến và tái tạo các mô tế
bào cơ thể. Nó cũng có công năng cải thiện hệ thống tuần hoàn, bổ xương, và tăng
cường sức đề kháng. Khi hệ thần kinh thiếu năng lượng, chất lecithin ở đậu nành
sẽ phục hồi năng lượng đã mất. Đạm chất đậu nành có chứa 3 phần trăm chất
Lecithin, bằng với lượng Lecithin có trong lòng đỏ trứng gà.
OMEGA-3 FATTY ACIDS - là loại chất béo
không bão hòa (unsaturated fats) có khả năng làm giảm lượng cholesterol xấu LDL
đồng thời làm gia tăng lượng cholesterol tốt HDL trong máu. [4] Nhiều nghiên cứu
khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều omega-3 fatty acids có trong các loại thực
vật như đậu nành, hạt pumpkin, walnuts, hemp, flax và các lá rau xanh giúp chống
lại sự phát triển các căn bệnh về tim mạch. [5] Tưởng cũng nên biết omega-3
fatty acids còn gọi là alpha-linolenic acid, gồm hai thứ EPA và DHA cũng có
trong một vài loại cá biển và trong fish-liver oil supplements. Những loại nầy
cũng có khả năng giống như omega-3 trong thực vật nhưng có thêm một cái không
tốt là nó có tác dụng làm cho các phân tử tế bào cơ thể trở nên không ổn định,
tức sản sinh ra các chất oxygen free radicals là những chất gây ra ung thư và
gây xáo trộn chất insulin, sinh ra chứng tiểu đường. Vì thế các khoa học gia
thuộc Viện Đại Học Arizona [6]và Viện Đại Học Cornell đã công bố sự nguy hiểm
của omega-3 fatty acid trong cá và dầu cá. [7]
ISOFLAVONES (phytoestrogens) - là một hóa
chất thực vật đã làm các nhà khoa học say mê nghiên cứu nhất, vì nó có cấu trúc
tương tự như chất kích thích tố sinh dục của phái nữ. (female hormone estrogen)
và sự vận hành giống như estrogen. Vì thế các nhà khoa học còn gọi nó là
estrogen thảo mộc (plant estrogen).
Sau khi nghiên cứu, các khoa học gia đều
cho rằng isoflavones có khả năng mãnh liệt chống lại các tác dụng gây nên chứng
ung thư liên hệ đến hormone.
Được biết quá lượng estrogen trong cơ thể
là yếu tố chính dẫn đến ung thư vú, ung thư buồng trứng (ovarian), tử cung
(uterine), và ung thư cổ của phụ nữ. Trong nếp sống của người Tây phương, dân
chúng thường có quá nhiều estrogen bởi vì tiêu thụ nhiều protein thịt động vật
có saün chất hormone mà người ta trích vào làm cho chúng mau lớn và nhiều sữa.
Phần nhiều phụ nữ Tây phương mập vì chế độ dinh dưỡng nhiều thịt và chất béo,
cũng làm tăng lượng estrogen, (buồng trứng tự động sản xuất thêm estrogen khi
quá chất béo cần thiết). Nơi đàn ông chất béo thặng dư được biến đổi thành
androgens và là nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến. Hiện nay các
nhà khoa học đã tìm thấy ba chất genistein, daidzein và glycetein trong
isoflavones đậu nành mà genistein là tâm điểm nghiên cứu.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, genistein
có những lợi ích dưới đây:
· Giống như những isoflavones khác, hành xử
như là chống estrogen (anti-estrogen) bằng cách ngăn cản không cho sản sinh
estrogen khi quá lượng estrogen cần thiết trong cơ thể.
· Ngăn ngừa sự phát triển các tế bào ung
thư.
· Kích thích các tế bào ung thư làm cho
chúng trở lại trạng thái bình thường.
· Ngăn trở sự lớn mạnh của các tế bào ung
thư DNA nhưng không ngăn cản sự lớn mạnh của các tế bào bình thường.
· Hành xử như là các chất chống ốc xi hóa
(anti-oxidant), bảo vệ các tế bào bình thường khỏi bị hư hại bởi sự tấn công của
các chất d gây chứng ung thư (free radical).
Bởi vì năm tạo tác lợi ích trên của genistein, nên isoflavone được coi là một hóa chất thực vật nhiệm mầu chống lại các căn bệnh ung thư và các khoa học gia tin tưởng rằng genistein cần phải được tinh chế thành dược liệu để điều trị tất cả các loại ung thư. Trong một nghiên cứu của Viện Đại Học Minnesota, genistein đã được dùng thành công trong việc phá hủy các tế bào ung thư máu BCP trong loài chuột. Ung thư máu BCP là một loại ung thư phổ thông nơi trẻ em.
Bởi vì năm tạo tác lợi ích trên của genistein, nên isoflavone được coi là một hóa chất thực vật nhiệm mầu chống lại các căn bệnh ung thư và các khoa học gia tin tưởng rằng genistein cần phải được tinh chế thành dược liệu để điều trị tất cả các loại ung thư. Trong một nghiên cứu của Viện Đại Học Minnesota, genistein đã được dùng thành công trong việc phá hủy các tế bào ung thư máu BCP trong loài chuột. Ung thư máu BCP là một loại ung thư phổ thông nơi trẻ em.
Cũng có nhiều chứng cớ rằng chất
genistein đã chữa trị khỏi chứng nóng phừng, phòng ngừa bệnh xốp xương, và có
thể thay thế loại estrogen supplement trên thị trường như Premarin. Genistein
cũng ngăn ngừa các bệnh động tim, tai biến mạch máu não và sự phát triển tiến
trình xơ cứng mạch máu (atherosclerosis). Cuối cùng, genistein là một hóa chất
thực vật khá mạnh chống lại các chứng bệnh sưng như bệnh khớp thấp (arthritis)
và các chứng bệnh liên hệ đến tình trạng đau nhức ở các khớp xương và bắp thịt
như rheumatoid arthritis.
Ngoài genistein ra một chất khác của
isoflavone đậu nành là chất Daidzein cũng có những lợi ích như genistein:
· Có khả năng ngăn ngừa sự hao mòn xương và
sự phát triển chứng bệnh xốp xương.
· Khả năng chống ốc xi hóa (anti-oxidant) và
chống ung thư (anti-cancer)
· Kích thích các tế bào ung thư máu để trở
thành thứ khác và chuyển hoán chúng về trạng thái bình thường.
Một cách tổng quát, tiêu thụ 50 mg isoflavone có trong protein đậu nành hằng ngày sẽ (1) làm giảm lượng cholesterol trong máu ít nhất là 35%, (2) không cần thiết phải dùng estrogen supplement, một thứ thuốc có nguy cơ gây nên chứng ung thư vú, tử cung và buồng trứng, và (3) phòng ngừa bệnh xốp xương.
Một cách tổng quát, tiêu thụ 50 mg isoflavone có trong protein đậu nành hằng ngày sẽ (1) làm giảm lượng cholesterol trong máu ít nhất là 35%, (2) không cần thiết phải dùng estrogen supplement, một thứ thuốc có nguy cơ gây nên chứng ung thư vú, tử cung và buồng trứng, và (3) phòng ngừa bệnh xốp xương.
Vì tác dụng cân bằng hormone trong cơ
thể, isoflavone có thể ứng dụng cho phái nữ không phân biệt tuổi, trước hay sau
khi dứt kinh.
PHÒNG NGỪA BỆNH TIM MẠCH
Trong một nghiên cứu gần đây được thực
hiện bởi Dr. James W. Anderson, M.D. Professor of Medicine and Clinical
Nutrition thuộc viện đại học University of Kentucky, Lexington [8] với 730 tình
nguyện viên để xem ảnh hưởng của việc ăn protein đậu nành với hệ thống mạch máu
qua việc đo lường chất cholesterol.
Sau khi thử nghiệm và phân tích các dữ
kiện thâu thập, kết quả cho thấy là lượng cholesterol trong máu giảm theo tỷ lệ
lượng tiêu thụ protein đậu nành: nhóm ăn 25 grams một ngày giảm 8.9 mg/dl, nhóm
ăn 50 grams giảm 17.4 mg/dl, và nhóm ăn 75 grams protein đậu nành giảm 26.3
mg/dl lượng cholesterol trong máu. Tính chung theo bách phân thì lượng
cholesterol giảm 9.3%, lượng LDL cholesterol giảm 12.9%, lượng triglycerides
VLDL giảm 10.5%, và lượng HDL cholesterol tăng 2.4%.
Bởi vì mỗi 1% lượng cholesterol giảm sẽ
làm giảm mức độ nguy hiểm của bệnh động tim và tai biến mạch máu não từ 2% đến
3%, cho nên với lượng trung bình cholesterol giảm 9.3% độ nguy hiểm về bệnh tim
mạch có thể xảy ra sẽ giảm được 18% đến 28%.
Căn cứ theo kết quả, giáo sư Anderson đã
khuyến cáo như sau:
Phòng ngừa tổng
quát, áp dụng chung cho
những người có sức khỏe tốt, 7 servings protein đậu nành mỗi tuần, tức khoảng 10
grams mỗi ngày (8 oz sữa đậu nành mỗi ngày hay 4 cái soy burgers mỗi tuần hay
mỗi tuần ăn 4 lần đậu hũ mỗi lần 2 servings, mỗi serving là 3 ounces tức khoảng
một phần tư khuôn đậu hũ Hinoichi Regular.) Hay nói đơn giản hơn, cứ mỗi ngày ăn
khoảng một miếng đậu hũ trong hộp đựng bốn miếng hoặc một phần tư hộp đậu hũ
Hinochi là đủ.
Phòng ngừa đặc
biệt, áp dụng cho những
người có bệnh tiểu đường hay có độ nguy hiểm cao về các bệnh tim mạch hoặc những
người có thân nhân bị các chứng bệnh về tim mạch, tiểu đường, xốp xương, 14
servings protein đậu nành mỗi tuần tức khoảng 20 grams protein đậu nành với 40
mg isoflavones đậu nành mỗi ngày, tương đương với khoảng 3/4 khuôn đậu hũ hiệu
Hinoichi loại regular có trọng lượng 14 ounces (396 grams).
Trị liệu cho những người có bệnh tim mạch
hay bệnh xốp xương, 21 serving protein đậu nành mỗi tuần tức 30 grams protein
với 60 mg isoflavones mỗi ngày.
TRỊ LIỆU BỆNH NHIẾP HỘ TUYẾN
Trong tạp chí Healthy and Natural
Journal, Vol.2, No.2, với tựa đề "Concentrated Soybean
Phytochemicals," Bác sĩ Walker đã tường trình thành công việc trị liệu bệnh
nhiếp hộ tuyến (tiền liệt tuyến)bằng tinh chế đậu nành (concentrated soy
supplement) như sau:
Ông Clarence Mohnehan 79 tuổi quê quán ở
Livonia tiển bang Michigan, đã được tuyên bố là sẽ chết trong vòng 60 ngày sau
khi việc trị liệu bằng quang tuyến thất bại. Ung thư của ông đã lan khắp hệ
thống bạch huyết. Khi được chuyển qua bác sĩ Kenneth Pittaway để chữa thử bằng
đậu nành trị liệu pháp theo lời thỉnh cầu của người con trai, thì ông chỉ còn
cân nặng 90 lbs., rất yếu, đau ở phần đơn điền, da vàng, mắt mờ đục.
Sau 9 tháng trị liệu bằng dinh dưỡng rau
đậu với uống tinh chế đậu nành concentrated soy supplement mỗi ngày, ông
Mohnehan đã bình phục hoàn toàn. Theo các tests của phòng thí nghiệm, ông không
còn một dấu hiệu ung thư nào trong cơ thể, da dẻ trông khỏe mạnh, các hoạt động
cơ thể bình thường, và cân nặng 135 lbs lúc xuất viện tháng 12-1994.
Trên đây là một case trong nhiều case trị
liệu bằng đậu nành thành công ở Hoa Kỳ. Thật ra lối trị liệu này đã có từ lâu
tại Trung Hoa nhưng mới được áp dụng tại Hoa Kỳ trong vài ba năm gần đây. Hiện
nay nhiều công ty Hoa Kỳ và Trung Hoa đang chạy đua trong việc sản xuất dược
liệu lấy từ tinh chất đậu nành dưới hình thức viên tablet và capsule.
Những thứ tinh chất đậu nành supplement
mới nhất có chứa từ .5 đến 2.5% isoflavone và genistein.
Tại Nhật Bản, trung bình một người tiêu
thụ từ 20 đến 100 mg chất isoflavones mỗi ngày từ các thực phẩm đậu nành. Được
biết nếu tiêu thụ hàng ngày khoảng 50 mg isoflavones sẽ ngăn ngừa được một vài
thứ bệnh ung thư.
Đậu hũ và tempeh, có chứa khoảng 10 mg
isoflavones mỗi ounce. Để có đủ lượng isoflavones đậu nành cần thiết hầu có thể
ngăn ngừa bệnh ung thư và tim mạch, một người cần phải tiêu thụ từ 5 oz đến 30
oz đậu hũ hay tempeh mỗi ngày, (mỗi một hộp đậu hũ Hinoichi loại regular bán
trên thị trường cân nặng 14 ounces). Ba mươi ounces đậu hũ có chứa khoảng 300 mg
isoflavones và trong một viên soy supplement có tổng cộng 25.17 mg
isoflavones.
Tưởng cũng nên biết, trong tiến trình
biến chế đậu nành thành đậu hũ người ta có thêm vào chất calcium sulfate, một
chất bột không mầu sắc tìm thấy trong đá vôi, xương, răng, vỏ sò hoặc trong chất
tro của thực vật, để cho đông đặc, vì thế một hộp đậu hũ loại firm nặng 14
ounces có chứa khoảng 120 mg calcium, riêng loại silken chỉ có 40 mg. Chúng tôi
có e-mail hỏi giáo sư bác sĩ James Anderson [9] chuyên gia nổi tiếng về dinh
dưỡng tại Viện Đại Học Kentucky về sự ảnh hưởng của chất này thì được giáo sư
cho biết calcium là một chất khoáng rất cần thiết cho cơ thể mà nhu cầu calcium
hằng ngày phải cần từ 800 đến 1200 mg. Số lượng calcium trong đậu hũ (3 ounces)
chỉ đáp ứng được 10% mà thôi, cần phải ăn thêm những thực phẩm khác nữa mới đủ.
Ông cũng cho biết là trong các cuộc nghiên cứu dài hạn và quan sát dân số các
khu vực tiêu thụ nhiều đậu nành, đã không tìm thấy một side effect nào trong
việc tiêu thụ nhiều thực phẩm đậu nành nói chung và đậu hũ nói
riêng..
Ngày nay, dân chúng Hoa Kỳ nói riêng và
Tây phương nói chung đã nhìn thấy ăn chay như là một lối sống bảo vệ sức khỏe cá
nhân và gìn giữ môi sinh thế giới. Họ cũng đã thấy thực phẩm đậu nành có giá trị
dinh dưỡng rất cao và chất isoflavones cùng những hóa chất thực vật khác trong
đậu nành đang được công nhận là dược liệu phòng ngừa và trị liệu nhiều thứ bệnh.
T
hiên nhiên đã cho chúng ta trái đất để ở và trái đất đã cho chúng ta nhiều thứ chúng ta cần để sống khỏe. Chúng ta cần phải thừa nhận sự thật này và nên sống gần với thiên nhiên. Có lẽ đậu nành với những hóa chất thực vật của nó sẽ là cái chìa khóa để nhân loại mở cửa bước vào một đời sống an lạc và hạnh phúc.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.19/3/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment