Tuesday, 29 July 2014

Phật Học Vấn Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần 3
Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam giải đáp
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Lý Bỉnh Nam Lão Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
 
* Hỏi: Vì sao thánh hiệu của Phật Đà có mười loại, do nhân duyên nào mà xưng hô [như vậy]? (Kha Băng hỏi)
 
      Đáp: Mười hiệu của Phật Đà trọn chẳng phải là gọi theo tên họ, mà nhằm nêu rõ đức năng to lớn của Ngài nên đặt ra mười thứ [danh hiệu] xưng tụng vậy! Giống như hiện thời khen ngợi người khác, bèn nói: “Mỗ công, ngô huynh, tiên sinh” (Tiên sinh X... anh tôi), đó là gọi bằng ba danh hiệu. Nếu nói “mỗ công, mỗ trưởng, thị lương lại, thị chánh nhân, thị quốc gia chi trụ thạch” (Ông X... hoặc bậc trưởng quan X... là vị quan tốt, là bậc chánh nhân, là cột trụ của nước nhà) tức là dùng năm cách xưng hô. Xưa kia, danh hiệu được phong tại Trung Quốc phần nhiều cũng tuân theo lệ ấy!
 
      * Hỏi: Thầy thường nói: “Sau khi chết bốn mươi chín ngày, người ta sẽ đầu thai”; nhưng con trai trưởng của tôi đã chết sáu năm rồi, thường báo mộng cho em gái nó: “Không có nhà để ở!” Sau đấy, đứa con thứ lại mộng thấy quan tài của anh nó bị phơi ra dưới ánh mặt trời. Ngày hôm sau, liền tới nơi an táng, thấy tình trạng chẳng khác gì trong mộng. Như vậy thì thuyết “thần thức đầu thai sau bốn mươi chín ngày” giải thích như thế nào? Nếu hài cốt là giả, sao [người đã khuất] lại bận tâm không có nhà để ở? (Trì Huệ Lâm hỏi)
 
      Đáp: Đấy chẳng phải là thân Trung Ấm, mà là thân trong quỷ đạo. Hết thảy phàm chúng đều chấp trước Ngã và Ngã Sở (cái mà ta có). Đứa con đã mất của cư sĩ lúc sống chưa nghe Phật pháp, làm sao có thể phá chấp. Chấp xương là “ta”, chấp quan tài là “cái ta có”, tự nhiên là chuyện thường tình, có chi là lạ?
 
      * Hỏi: Nguyên nhân lai lịch khiến Nho, Thích, Đạo dùng mõ là như thế nào? (Hoàng Cẩm Lương hỏi).
 
      Đáp: Chưa khảo cứu.
 
      * Hỏi: Tăng ni chẳng lạy thần khác, nhưng tôi thấy kinh Kim Cang có dạy: “Chẳng có cao thấp”, nếu luận theo phương diện thần thánh có thể do đức mà chứng quả to hay nhỏ, nghĩ tới người đang trôi giạt trong biển khổ thì cớ sao chẳng lạy? (Hoàng Cẩm Lương hỏi)
 
      Đáp: Tăng ni là một ngôi trong Tam Bảo, là thầy của người, trời, trăm thần, thầy chẳng lạy trò là lẽ đương nhiên, có gì lạ đâu?
 
      * Hỏi: Thích Ca Truyện chép Thái Tử Tất Đạt hai mươi chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Sách Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải nói đức Phật xuất gia tu hành lúc mười chín tuổi, sai khác nhau đến mười năm? (Hứa Minh Hoài hỏi)
 
      Đáp: Các kinh ghi chép sai khác, đều có căn cứ riêng. Chủ yếu chép [đức Phật xuất gia lúc] hai mươi chín tuổi là Trung A Hàm, Tăng A Hàm, Đại Bát Niết Bàn, Bổn Hạnh Tập Kinh v.v... Chủ trương [Phật xuất gia] lúc mười chín tuổi là Tu Hành Bổn Khởi Kinh, Thụy Ứng Bổn Khởi Kinh, Lục Đạo Tập Kinh v.v....
 
      * Hỏi: “A-tăng-kỳ kiếp” là trong mỗi đại kiếp có bốn trung kiếp, tức là thành, trụ, hoại, không; xét theo kinh nói thì thật sự có bốn trung kiếp ấy hay không? (Hứa Minh Hoài hỏi)
 
      Đáp: A-tăng-kỳ kiếp và đại kiếp khác nhau! Đừng lẫn lộn! Còn như ông hỏi: “Thành, trụ, hoại, không là đích xác hay chăng?” Thử xem mỗi ngày có giờ Tý, giờ Ngọ, sáng, tối hay chăng? Mỗi năm có Xuân, Hạ, Thu, Đông hay chăng? Hiểu rõ điều này sẽ chẳng nghi ngờ!
 
      * Hỏi: Thích Đề Hoàn Nhân là thiên chúa cõi Tam Thập Tam Thiên mà cũng phải luân hồi ư? (Hứa Minh Hoài hỏi)
 
      Đáp: Dẫu sanh lên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thuộc về Tứ Không vẫn còn bị luân hồi, huống hồ tầng trời thứ hai trong Dục Giới!
 
      * Hỏi: Đối với Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý, gộp lại thành ba mươi bảy đạo phẩm sâu mầu, dường như hàng sơ cơ như chúng tôi chẳng có cách nào lãnh ngộ, chỉ có Ngũ Căn, Ngũ Lực là có thể biết được một hai phần, những điều khác hoàn toàn bù trất! Hai loại tinh tấn đầu tiên trong Thất Giác Chi có thể sử dụng trí huệ để hiểu rõ đạo lý chân chánh. Trí huệ ấy là do Cần Căn và Tấn Lực cùng phát động đó chăng? Hay là do cách nào khác mà đạt được trí huệ, hay là trí huệ vốn tự nhiên có? (Hứa Minh Hoài hỏi)
 
      Đáp: Chuyện này khó thể nói hết trong một lời, mong cư sĩ trước hết hãy kiếm một quyển Phật Học Thường Thức Khóa Bổn của Đài Trung Liên Xã, tìm đọc phần ba mươi bảy đạo phẩm. Sau khi hiểu đại ý, lại xem phần chú thích chi tiết về ba mươi bảy phẩm trong các kinh, sẽ tự có thể lãnh ngộ đôi chút. Ông lại hỏi về Thất Giác Chi, sử dụng trí huệ v.v... Ở đây, tôi giải thích đại lược. Tu ba mươi bảy đạo phẩm, cần phải tuân theo thứ tự của bảy khoa, khi đã thành tựu Huệ Lực trong Ngũ Lực ở phần trước, tự nhiên tri kiến hướng theo nẻo chánh đáng, có thể khéo phân biệt, lại tấn tu Thất Chi, lúc ấy mới khởi giác chiếu, biết nên lấy hay bỏ các pháp ra sao, điều nào đáng nên tinh tấn, và điều nào chẳng nên tinh tấn. Những điều khác có thể suy từ đây ra. Trí huệ ấy cố nhiên là vốn có, nhưng nếu chẳng tu những pháp trước đó, nó cũng chẳng thể hiển hiện.
 
      * Hỏi: Phật Đản mỗi năm vào ngày mồng Tám tháng Tư là dựa theo Dương lịch hay Âm lịch? Tại các nơi có những lễ hội lớn nào? Phụ cận vùng Ngô Thê có đại hội truyền bá đạo pháp nào? (Trần Vấn Vân hỏi)
 
      Đáp: Âm lịch và Dương lịch cùng được dân gian tuân hành, hết sức thiếu nhất trí, các chùa kỷ niệm Phật Đản cũng tùy theo mỗi nơi mà tổ chức sao cho thuận tiện. Còn như ông hỏi vùng Ngô Thê[1] có đại hội hay không, tôi chẳng biết!
 
      * Hỏi: Khuyên người khác ghét tam đồ, chuộng cõi trời, có phải là cảnh giới vẫn chưa siêu thoát, tiến nhập tịch diệt (phi đoạn, phi thường) hay chăng? (Trần Vấn Vân hỏi)
 
      Đáp: Phật giáo có ngũ thừa thuyết pháp, đấy là lời phương tiện thấp nhất để nói với kẻ hạ hạ căn. Giống như dạy trẻ trong vườn trẻ, nếu đem chương trình đại học để dạy chúng thì biết ông thầy ấy là một tên đần quá cỡ!
 
      * Hỏi: Tôi đọc bài Nhân Sanh Thiên của pháp sư Từ Hàng, con người và súc sanh phân biệt ở chỗ biết đạo và hành đạo. Trâu, ngựa ăn những thứ kém hèn, làm lụng nhọc nhằn chẳng oán, mà cũng chẳng biết si mê vật chất trên thế gian, dường như chúng tự nhiên hợp đạo? (Trần Vấn Vân hỏi)
 
      Đáp: Kẻ hèn này chưa từng đọc [bài ấy], chẳng biết nguyên văn như thế nào, sợ chẳng giống như cư sĩ đã nhớ. Xin hãy xét lại câu nói “cũng chẳng si mê vật chất thế gian”! Lắng lòng quan sát súc sanh, chúng nó biểu hiện đầy đủ dâm, nộ, si, ông nói chúng “hợp đạo” thì chẳng biết là hợp với đạo gì?
 
      * Hỏi: Phật thuộc về Pháp Thân bất sanh, bất diệt, hết thảy các phiền não thế gian chẳng phải do vô minh sanh ra hay sao? Cớ gì phải kỷ niệm Ứng Thân có sanh diệt? (Trần Vấn Vân hỏi)
 
      Đáp: Thân phàm phu do phiền não dẫn dắt mà có, do vô minh sanh ra. Đức Phật chẳng phải là như thế, mà chính là vì độ chúng sanh, nên thừa nguyện hóa hiện. Chúng ta kỷ niệm Ứng Thân, chẳng qua là ai nấy trọn hết đạo nhằm bày tỏ chút lòng báo ân mà thôi.
 
      * Hỏi: Gần đây nhất, có kẻ hỏi: “Con người có linh hồn hay không? Lại nói: “Đến rốt ráo thì linh hồn ở chỗ nào?” Lại nói: “Nhà thương mổ bao tử cho người ta, cho người ấy uống thuốc mê, người ấy liền chẳng biết đau, giống như đã chết. Nếu có linh hồn thì lẽ ra phải nằm mộng, nhưng lại chẳng nằm mộng?” (Thích Tâm Xuyên hỏi)
 
      Đáp: Kẻ sơ học chẳng thể nào hiểu rõ vấn đề này! Nếu giải thích rõ ràng, sợ rằng cũng chưa thể lãnh ngộ. Kinh dạy: “Chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa”, chỉ có vậy! Nếu chỉ ra [linh hồn tức thần thức] ở một chỗ nhất định, chính là sai lầm lớn. Ở đây, tôi dùng đĩa ghi âm làm thí dụ, thử hỏi âm thanh ấy đến từ chỗ nào, rốt ráo là cái đĩa ấy có âm thanh hay chăng? Nói là không thì người ta biết nó có thể phát ra âm thanh phân minh. Bảo là có, cớ sao nó chẳng thể tự phát ra tiếng? Hiểu được cơ duyên này, sẽ nghĩ ra quá nửa! Nếu bảo nằm mộng là có linh hồn, không nằm mộng là chẳng có linh hồn, tôi lại nêu một tỷ dụ, khi con người đi đứng, cử động bèn có tri giác, bảo đó là người sống, nhưng nếu lúc nằm ngủ thì tri giác chẳng khởi, có thể nói là người ấy đã chết hay chăng? Xin hãy thấu hiểu!
* Hỏi: Nơi trang một trăm bốn mươi bảy sách Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải Thích, phẩm thứ sáu, có nói: Trong Hiền Kiếp này có một ngàn vị Phật xuất thế, Thích Ca là vị Phật thứ tư, còn có chín trăm chín mươi sáu vị Phật nữa. Theo kinh Phật nói Tam Bảo Phật là quá khứ Di Đà, hiện tại Thích Ca, vị lai Di Lặc. Vì sao chẳng nói vị Phật trong kiếp thứ nhất, vị Phật trong kiếp thứ hai.... mà nói Tam Bảo Phật? (người giấu tên hỏi)
 
      Đáp: Kiếp nhiều như vi trần, chẳng thể tính toán, chẳng biết nói kiếp thứ nhất từ đâu! Hơn nữa, kinh ấy do Thích Ca Như Lai nói, nên các vị chú giải chỉ nói về thời kỳ Phật Thích Ca ứng thế mà thôi, làm sao có thể dây dưa thời trước, la cà thời sau, nêu ra cả đống chi tiết ra ngoài vấn đề chính!
 
      * Hỏi: Mở đầu hai thiên thượng và hạ của Sa Di Luật Nghi Yếu Lược đều nói “ngũ hạ” hay “thập hạ”, ngũ hạ và thập hạ có ý nghĩa như thế nào? (Diêu Bổn Khiết hỏi)
 
      Đáp: Trong nhà Phật, hàng năm từ ngày Mười Sáu tháng Tư tới ngày Rằm tháng Bảy, có quy chế Kết Hạ An Cư, lấy đó để tính một năm, mấy hạ là mấy năm, giống như cách tính năm tháng trong thế tục vậy!
 
      * Hỏi: Đức Phật nói vạn vật đều có linh tánh, nhưng tôi chưa rõ cái gọi là “linh tánh” có vô lượng sai khác [hay không], chẳng hạn như linh tánh chứa đựng trong một con muỗi có phải là ít hơn ruồi nhặng, mà ruồi nhặng lại ít hơn cầm thú hay không? Mà ruồi nhặng lại ít [linh tánh] hơn chim bay thú chạy? Mà linh tánh của chim bay thú chạy lại ít hơn con người? Hay là dựa trên mức độ sáng suốt mạnh hay yếu mà phân biệt, tùy thuộc nghiệp lực to hay nhỏ mà luân hồi lục đạo? (Châu Gia Lân hỏi)
 
      Đáp: Vật hữu hình hữu chất thì có thể dùng số lượng để tính toán, còn tánh là vô hình, vô chất, không thể đo lường, tính toán nhiều hay ít được! Ví như người và chó, mèo đều nằm mộng (chó, mèo nằm đã được các học giả nghiên cứu động vật suy đoán [nhận biết chúng có nằm mộng]), mộng cũng chẳng có hình và chất; cho nên chẳng thể đo lường ba loại mộng ấy, mỗi loại nặng mấy cân, mấy lạng. Nếu luận về tác dụng mạnh hay yếu, tự nhiên có sai khác, đó là vì Như Lai Tạng được huân tập nhiễm hay tịnh. Tịnh nhiều hơn thì tác dụng thiện to, tác dụng ác nhỏ; nhiễm chiếm phần hơn thì ngược lại. Còn nói về luân hồi lục đạo, càng không thể chỉ nói nghiệp lực lớn hay nhỏ, mà còn phải gộp thêm những nhân thiện hay ác đã gieo để xem xét!
 
      * Hỏi: Nghe nói âm thanh viên mãn của Phạm Bái có thể lợi lạc chúng sanh, vậy thì các bài tán như Hương Tán và Di Đà Tán có phải là một loại Phạm Bái hay không? Phạm Bái có bao nhiêu loại? Có ca khúc, nhạc phổ để dễ tu tập hay chăng? (Châu Gia Lân hỏi)
 
      Đáp: Các thứ tán Phật hiện đang lưu hành tại Trung Quốc có thể gọi là Phạm Bái, nhưng đã khác với thanh điệu Ngư Sơn Phạm Bái[2] thời Hán - Ngụy. Nếu vào thời cổ ở Thiên Trúc, dường như là mỗi câu kinh, chú ngữ đều có âm vận đặc biệt, chuyên gọi là Phạm âm. Như kinh chép: Vua nghe tiếng tụng kinh mà vui vẻ thí xả, chim nhạn nghe tiếng đọc tụng bèn lưu luyến lượn quanh, có thể biết [Phạm âm thuở ấy] chẳng giống như đời sau phải dựa vào thanh điệu, phách nhịp để xướng lên. Hiện thời, tụng niệm Hoa Nghiêm Tự Mẫu[3] như ta thường nghe nói tới, cũng phải dựa vào chuông, mõ, tang, chập chõa để tạo thành thanh vận, chưa hề thấy do môi họng khép mở [mà tạo thành vận điệu riêng]. Có chỗ khác biệt như thế, có thể biết là giai điệu từ thời cổ tới nay đã bị thất truyền!
 
      * Hỏi: Chùa chiền có khi cất trong núi, có khi dựng tại vùng ngoại ô, có khi dựng trong đô thị, vị trí nào thích đáng? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: Chùa Phật lập nơi núi non, rẫy bái thích hợp cho kẻ tự tu, xa lìa trần lao, dễ đắc tịch tĩnh. Lập ở đô thị thích hợp để độ người khác, gần gũi quần chúng nhằm thuận tiện tiếp dẫn họ.
 
      * Hỏi: Trong một gia đình, có người tin Phật giáo, có kẻ tin ngoại giáo, có cách nào khiến cho mọi người đều quay về tin tưởng Phật giáo hay chăng? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu” (Đạo khác nhau, chẳng thể bàn tính với nhau). Một gia đình, tín ngưỡng mỗi người mỗi khác, đấy chính là biểu hiện của tâm và đức rời rã. Gia chẳng tề, mà mong hưng thịnh, sợ rằng là “noi theo cây để tìm cá”. Nếu muốn chuyển dời khiến cho người nhà cùng hưởng sự giáo hóa của Phật, ắt phải tự mình nêu gương, thanh tịnh tam nghiệp! Có khổ thì tự hứng chịu, có lợi bèn chia đều. Chí thành, chẳng dối trá, làm mọi việc luôn có chí thường hằng, người nhà sẽ bị cảm hóa. Lại còn phải hiểu rõ Phật lý, tri kiến chính xác, vận dụng phương tiện thiện xảo, lời lẽ khế cơ. Trước hết, dùng đức để nhiếp thọ; sau đấy, dùng trí để nhiếp thọ, đối phương như ngồi hứng gió Xuân, ắt tâm họ sẽ vui vẻ, chân thành khâm phục vậy!
 
      * Hỏi: Người tin Phật có kẻ mang tràng hạt (xâu chuỗi) theo mình, có người chẳng mang theo, rốt cuộc người tin Phật có phải luôn mang theo bên mình hay chăng? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: Tín ngưỡng ở trong tâm, chứ không ở nơi tràng hạt; nhưng thường mang tràng hạt bên mình sẽ có thể luôn nhắc nhở cái tâm niệm Phật, cũng là một trợ duyên vậy!
 
      * Hỏi: Tín đồ lúc vào nhà vệ sinh có lúc vô ý mang theo các vật như sách Phật, tràng hạt, huy chương v.v... hoặc mặc pháp y đi vào, có sao không? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: Chuỗi tràng hạt và huy chương là vật mang theo tùy thân, nếu trót mang lầm vào phòng vệ sinh, đều phạm lỗi thiếu thận trọng. Nếu là sách Phật thì nên cung kính đọc nơi bàn, đọc xong, xếp sách, bọc lại, lẽ nào có chuyện mang theo vào nhà xí? Nếu có, tức là cố ý làm ác. Lúc sắp mặc pháp y, còn phải nên chắp tay, trọn chẳng được phép mặc vào nhà xí. Dẫu là áo hải thanh (áo tràng), còn chẳng được mặc để đi tiểu, huống hồ ca-sa ư?
 
      * Hỏi: Lúc tụng kinh, vì sao phải dùng Phật cụ? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: “Phật cụ” chỉ những gì, ông chưa từng nói rõ, tôi chẳng thể đáp được. Tôi đoán thử chơi thì chẳng phải là ông nói đến những thứ như mõ, chuông, khánh ư? Nếu đúng vậy [thì mục đích dùng pháp khí] nhằm giữ cho âm tiết chỉnh tề, và khiến cho người đọc tụng chẳng hôn trầm. Lại còn có thể dẫn khởi sự quán cảm của chúng sanh, dễ làm cho họ phát tâm.
 
      * Hỏi: Thắp hương có khi dùng ba cây, có khi dùng một cây, vốn phải nên dùng mấy cây? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: Thoạt đầu không nhất định; về sau, tùy theo phong tục các nơi mà khác biệt. Ba cây nhằm thể hiện ý nghĩa Giới - Định - Huệ. Thuận theo tập quán mỗi nơi mà làm đều được, không gì là chẳng nên!
 
      * Hỏi: Chùa chiền có nơi đốt giấy vàng bạc, có nơi chẳng đốt, thoạt đầu vốn có đốt giấy vàng bạc hay chăng? Đốt giấy vàng bạc có ý nghĩa gì? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: Giấy vàng bạc v.v... là vật để bố thí cho loài quỷ, Phật chẳng cần đến thứ ấy. Người ở trong nhà chùa mà hiểu lý sẽ chẳng đối trước Phật làm những chuyện ấy!
 
      * Hỏi: Kính vâng lời thầy, ban viên chúng con là đệ tử Phật, nhất định hóa độ chúng sanh! Thứ nhất là đối với Phật, Tổ, thứ hai là đối với thầy báo ân, mong Ngài vĩnh viễn ở Đài Trung chỉ dạy tín đồ chúng con, thầy có cao kiến như thế nào? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: “Nhất định hóa độ chúng sanh”, lời ấy vừa thốt ra, tiếng vang động trên giấy, chư Phật đều nghe. Kẻ hèn này mong mỏi cư sĩ phải thực hiện lời ấy! Nhưng muốn thực hiện chuyện này, ắt tự mình phải dồn công phu nơi hai đằng Giới và Thừa. Nếu chịu khuất mình học hỏi, tôi sẽ trọn hết lòng ngu thành cống hiến. Còn như vĩnh viễn trụ lại Đài Trung, là do nhân duyên quyết định; nhưng kẻ hèn này cũng chưa hề có ý nghĩ khác với tâm của cư sĩ vậy!
      * Hỏi: Tây Phương Cực Lạc thế giới có đồng thời xoay chuyển theo địa cầu hay không? Chúng ta ở châu Á, cõi nước ấy ở phương Tây của chúng ta, nhưng nếu người đang ở châu Mỹ, cõi nước ấy có ở phương Tây [của họ] hay chăng? (Lý Sĩ Nhân hỏi)
 
      Đáp: Theo thuyết cũ trong khoa học, mặt trời là hằng tinh, địa cầu là một ngôi sao nhỏ thuộc vào Thái Dương Hệ, cho nên địa cầu xoay quanh mặt trời; nhưng trong không gian, không phải là chỉ có một Thái Dương Hệ. Cực Lạc há chỉ ở phía Tây châu Á, mà là ở phía Tây của cả Thái Dương Hệ. Nếu dựa theo Phật học để suy lường, quả địa cầu này chỉ là một châu trong một đơn vị thế giới, tức là một thiên hạ trong Sa Bà tam thiên đại thiên thế giới. Ở đây, chỉ dùng phạm vi của Sa Bà để luận, [địa cầu] sẽ giống như một hạt kê trong cái kho quá to! [Kinh nói] Cực Lạc ở phương Tây là nói về phương Tây của Sa Bà đại thiên (tam thiên đại thiên thế giới), chẳng phải là phía Tây của một thiên hạ này! Lại dùng thí dụ trên đây để giảng rõ hơn, một đại thiên thế giới giống như một cái kho rất to, nhưng cái kho lớn ấy quả thật là vô lượng vô biên. Kinh nói “ở phía Tây” là nói ở phía Tây của mười vạn ức cái kho lớn, chẳng phải là nói phía Tây của một hạt kê!
 
      * Hỏi: Lục đạo chúng sanh ngoại trừ nhân đạo có thể tu ra, những đường khác như quỷ đạo, thiên đạo cũng có thể tu hành thành Phật ư? (Lý Sĩ Nhân hỏi)
 
      Đáp: Chúng sanh đều có Phật Tánh, tự có khả năng tu hành thành Phật. Chỉ vì trong những đường khác, hoặc là do tham luyến sự vui sướng nên chẳng nghĩ đến tu hành, hoặc vì chịu khổ, chẳng rảnh rỗi để tu, hoặc do mê ngu quá nặng nên chẳng biết tu. Dễ tu dễ thành chỉ có duy nhất nhân loại mà thôi! Vì thế, nói: “Thân người khó được”. Quý trọng thân người là vì dễ tu thành Phật!
 
      * Hỏi: Phật quốc trừ Tây Phương Cực Lạc thế giới ra, còn có Phật quốc nào khác hay chăng? Sau khi nhập Niết Bàn, Thích Ca Mâu Ni trụ trong cõi nào? (Lý Sĩ Nhân hỏi)
 
      Đáp: Trong điều trước đã nói đến tam thiên đại thiên thế giới là một Phật quốc; có vô lượng vô biên đại thiên thế giới, Phật quốc cũng giống như vậy. Phật có ba thân là Pháp, Báo và Ứng. Hai thân Báo và Ứng có hạn lượng, Pháp Thân tràn ngập hư không, không nơi đâu chẳng trụ.
 
      * Hỏi: Khi trước con nghe kinh, từng nghe nói đến chuyện thuyết pháp ở núi Hổ Khâu, đá cũng gật đầu. Tờ Trung Ương Nhật Báo số ra ngày mồng Tám tháng Tám lại có câu “đá chẳng gật đầu”. Rốt cuộc là như thế nào? Xuất xứ từ sách nào vậy? (Trương A Long hỏi)
 
      Đáp: Cao tăng Trúc Đạo Sanh là đệ tử của La Thập đại sư, giảng kinh Niết Bàn, lập ra nghĩa “Xiển Đề cũng có Phật Tánh”, đại chúng chẳng dung, nên Ngài đi về phương Nam, vào núi Hổ Khâu gom đá làm đồ chúng, để giảng kinh Niết Bàn, đến chỗ “Xiển Đề cũng có Phật Tánh”, hỏi: “Ta nói có khế hợp Phật tâm hay chăng?” Các hòn đá đều gật đầu. Chuyện này được chép trong Cao Tăng Truyện, người đời sau bèn mượn chuyện này để làm từ ngữ chỉ sự khuyên răn người khác. Người tiếp nhận lời khuyên gọi là “điểm đầu” (gật đầu), kẻ chẳng tiếp nhận lời khuyên gọi là “bất điểm đầu”.
 
      Hỏi: Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, sanh về cõi Phật nào? Hay là ở trong tam giới? (Liêu Diệu Cát hỏi)
 
      Đáp: Phật có ba thân, đó là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. Pháp Thân ngự trong cõi Thường Tịch Quang, cõi ấy chỉ có cái tên, thật sự là Chân Như Lý Thể. Nếu nói theo phương diện sắc tướng, tận hư không, khắp pháp giới, không gì chẳng bao gồm, làm sao phân biệt ở trong hay ngoài tam giới cho được! Báo Thân sống trong cõi Thật Báo Vô Ngại, cõi này do Phật trí biến hiện, trọn chẳng có ngằn mé không gian và thời gian. Ứng Thân thì trăm ngàn vạn ức, ngự trong cõi tịnh hay sống trong cõi uế khác nhau. Có thể nói cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng do Phật trí biến hiện, nên có kiếp thành, trụ, hoại, không, ba cõi là Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, Tam Tai là nước, lửa, gió. Thân và cõi đã thuật sơ lược, cần phải biết là Phật nhập Niết Bàn chẳng giống như phàm phu tử vong. Phàm phu chết sẽ có thần thức; lại hướng đến nơi khác đầu thai, cho nên nói “có sanh”. Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, bất quá là dứt hóa hiện Ứng Thân trong cõi này! Câu “sanh về cõi nào” chẳng thể áp dụng được!
 
      * Hỏi: Cõi trời có mấy tầng? Tam thiên đại thiên thế giới nên giải thích như thế nào? Có mấy quả địa cầu? (Cư sĩ Huệ Lượng hỏi)
 
      Đáp: Cõi trời có hai mươi tám tầng. Hư không vô lượng, thế giới vô tận. Nhằm nói thuận tiện, [ta có thể] giả định bao nhiêu tinh cầu hợp thành một đơn vị thế giới (trên một địa cầu như vậy, năm đại dương, sáu châu[4], kinh tuyến, vĩ tuyến, đường xích đạo, các vành đai nhiệt độ cũng là giả định), hợp một ngàn đơn vị thế giới làm một tiểu thiên thế giới; hợp một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; hợp một ngàn trung thiên thế giới thành một đại thiên thế giới. Địa cầu chính là tinh cầu; xin hãy ngửa mặt xem bầu trời vào ban đêm, thử hỏi có mấy tinh cầu?
 
      * Hỏi: Di Lặc Tôn Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật là anh em ruột suốt ba đời, cùng tu đại đạo, cùng chứng Bồ Đề Vô Thượng Chánh Giác, trọn đủ mười hiệu, thân trọn vạn ức. Suốt cả ba đời, đại công thành tựu, Di Lặc Phật là anh, Thích Ca Phật là em, đại đạo chánh giác đều đã thành tựu. Trước là giao cho em tiếp quản cai trị cõi đời trong ba ngàn năm. Nay chính nhằm thời kỳ Hạ Nguyên[5], anh sẽ cai trị cõi đời, nên Di Lặc Phật sẽ tiếp quản trong hai vạn năm, rộng lập chánh pháp Long Hoa, phổ độ trời, người, có phải là [Phật Thích Ca] chưa liễu ngộ hay chăng? Dám xin cư sĩ hãy chỉ dạy cho đúng! (Lam Thủy Thuận hỏi)
 
      Đáp: “Trước là giao cho em tiếp quản cai trị cõi đời trong ba ngàn năm. Nay chính nhằm thời kỳ Hạ Nguyên, anh sẽ cai trị cõi đời, Di Lặc Phật sẽ tiếp quản trong hai vạn năm”, cư sĩ nghe lời này từ chỗ nào? Khuyên cư sĩ hãy mau mau rửa tai! Nếu không, nó sẽ nhập tâm, sẽ bị hại, tâm tánh đã bị mê hoặc, lại còn chuốc lấy tội báng pháp! Kẻ trí chẳng chịu làm như thế! Tôi bảo cùng ông lời thành thật, những lời lẽ ấy đều là yêu ngôn do tàn dư của bọn giặc Trương Lăng[6], Hoàng Cân[7] cuối đời Hán, hoặc bọn Bạch Liên Giáo, Hàn Sơn Đồng[8] cuối đời Nguyên v.v... bịa ra hòng dối gạt kẻ ngu muội, vô tri. Nếu lầm lạc tin theo, sẽ thành tà ma, hậu họa vô cùng! Ngoại đạo trên thế giới nhiều như mè, nếu chúng chẳng giả mạo Phật giáo, tôi cũng chẳng đa sự biện bác cùng chúng nó!
 
      * Hỏi: Chúng sanh sau khi chết đi, do nghiệp lực lôi kéo, dẫn đường đầu thai, thuyết ấy đúng hay sai? Có kẻ nói sau khi chịu hết tội trong địa ngục rồi mới đầu thai, hay là chết nơi đây bèn sanh sang nơi kia. Nếu thuyết sau là đúng thì lập ra địa ngục có phải là sự thật hay chăng? (Hồ Chánh Lâm hỏi).
 
      Đáp: Hữu tình trong lục đạo đều gọi là chúng sanh. Kẻ đã ở trong địa ngục, đương nhiên khi tội trong địa ngục đã mãn, sẽ chuyển sanh vào đường khác; nhưng chúng sanh trong các đường khác, sau khi chết, có nghiệp lực thuộc đường nào sẽ đầu thai vào đường đó; trọn chẳng phải là nhất loạt phải vào địa ngục trước rồi mới được chuyển sanh vào nơi khác. Câu hỏi sau cùng [của ông] dường như là hiểu lầm. [Đối với chuyện] chết nơi đây, sanh vào nơi kia; do duyên cớ gì mà [ông nghĩ] địa ngục chẳng phải là thật? Xin ông hãy nói cặn kẽ nghĩa ấy!
 
      * Hỏi: Nếu chúng sanh đã đền sạch ác nghiệp trong địa ngục, cớ sao lại có nghiệp cảm duyên khởi khiến cho kẻ ấy sau khi chuyển sanh lại tạo những tội nghiệp để rồi phải chịu tội hòng đền trả những nghiệp đã tạo? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
 
      Đáp: Tạo nghiệp chẳng phải chỉ một đời, gây ác nghiệp chẳng phải chỉ một mối, nhiều lần thọ báo, có gì là khó hiểu? Nếu như gã X.... phạm [các tội] giết, trộm, dâm, khi tội giết hại bị phát hiện, quan phủ tự nhiên vây bắt, phán quyết xử phạt hắn về tội giết hại. Sau đấy, chuyện trộm, dâm lại bị phát hiện, ắt cũng sẽ luận tội riêng biệt. Đó là lý do thứ nhất. Lại nữa, xử phạt có chánh và phụ, chánh là như tử hình hoặc giam cầm v.v... phụ là như cách chức, tước quyền, phần nhiều là chánh hình (hình phạt chính) đã mãn hạn, nhưng hình phạt phụ vẫn còn đang phải chấp hành. Cổ nhân nói “dư khánh, dư ương” (sự may mắn còn thừa, tai ương sót lại) chính là nói về tình trạng này. Đấy là lý do thứ hai.
 
      * Hỏi: Phật là viên giác, hóa thân độ chúng sanh lẽ ra thù thắng hơn Bồ Tát vô ngại, nhưng Chánh Pháp Minh Như Lai chẳng rời Tịch Quang, chuyển làm thân Bồ Tát, có phải là nhằm mục đích nhờ vào sự chuyển thân ấy để tăng trưởng, phát khởi đại nguyện từ bi cứu vớt tứ sanh hay không? (La Đức Chương hỏi).
 
      Đáp: Trong một đại thiên thế giới, có một vị Phật làm giáo chủ, cũng như một nước chẳng có hai vua. Nếu vị Phật khác có duyên với chúng sanh trong thế giới ấy, hoặc muốn phụ trợ vị Phật trong thế giới ấy hóa độ chúng sanh, thì khi Ngài đến thế giới ấy phải thị hiện thân Bồ Tát. Chánh Pháp Minh Như Lai [thị hiện làm Quán Thế Âm Bồ Tát] do lý do này. Phật là hết thảy viên mãn, ông nói “tăng trưởng, phát khởi” là đã hiểu lầm mất rồi!
 
* Hỏi: Nay tôi có một đồng nghiệp hỏi: “Người xuất gia trì tịnh hạnh, cớ sao trong chùa đặt ra trống bịt bằng da trâu, nhẫn tâm đánh trống?”, ông ta hỏi khiến cho tôi chẳng biết trả lời như thế nào! Trong chùa, đặt ra trống, lại dùng da trâu để bịt [mặt trống] thì dường như là bạch ngọc bị tỳ vết! Hãy nên giải thích như thế nào? (La Đức Chương hỏi)
 
      Đáp: Trống chẳng phải do chùa miếu sáng chế, giết trâu lấy da cũng chẳng do chùa miếu chủ trương. Bất quá chùa miếu mua loại nhạc khí đã có sẵn trong hiện thời mà thôi! Nhưng có thể nói là con trâu ấy rất may mắn, có thể nói là nó đã bố thí thân cho Tam Bảo, lại thường được nghe tiếng tụng kinh, Phật hiệu gia trì, sẽ được giải thoát. Quả thật đã vượt trỗi [những con trâu bị căng da bịt mặt trống] trong chốn nhà hát, hoặc dùng nơi chiến trường, giúp kẻ khác tạo nghiệp người rất nhiều! Gõ trống thì có gì là bất nhẫn?
 
      * Hỏi: Theo truyền thuyết, trước khi thành đạo, Quán Âm Bồ Tát là con gái vua Diệu Trang, tức công chúa Diệu Thiện, thấy thấu suốt hồng trần, chẳng muốn lấy chồng, bỏ cõi tục xuất gia, tu hành đắc đạo. Xin hỏi Diệu Trang Vương xuất hiện trong thời đại nào? Là quốc vương nước nào? Lịch sử có ghi chép hay không? Nghe nói Phổ Đà Sơn ở Nam Hải là đạo tràng của Quán Âm Bồ Tát, núi ấy được sáng lập từ đời nào? Có phải do công chúa Diệu Thiện sau khi đắc đạo đến đó lập đạo tràng hay không? (Phan Kim Tuyền hỏi)
 
      Đáp: Chuyện vua Diệu Trang do những kẻ hiếu sự rảnh rỗi bịa đặt ra, rồi được các nhà xuất bản in ra làm món giải trí cho người khác. Nếu nói đến mặt tốt đẹp của chuyện ấy thì chẳng qua là một loại tiểu thuyết khuyến thiện dành cho những ông già bà cả trong làng quê mà thôi! Trong sử sách lẽ đâu ghi chép những chuyện hoang đường như thế? Phải nên biết: Quán Âm và chuyện này chẳng có mảy may liên quan gì. Hiểu rõ điều này, chẳng cần phải rườm lời về đạo tràng Phổ Đà Sơn nữa!
 
      * Hỏi: Quán Thế Âm bồng một đứa bé, có người nói [đứa bé ấy] là Tống Nhân Tông[9], có đúng hay không? Giả sử là Tống Nhân Tông được Bồ Tát ẵm đến chuyển thế thì người thế gian do đâu mà biết được? Tống Nhân Tông cũng tin Phật hay sao? (A Hoa hỏi)
 
      Đáp: Đó là lời đồn đại vô căn cứ trong thế gian, há đáng tin cậy? Chỉ có điều bản thân Tống Nhân Tông tin Phật hay không, tuy chưa thấy sử sách ghi chép, nhưng rõ ràng là các quan văn võ đầu triều thời ấy đa số là Phật tử, từ đó có thể suy ra để biết công lao hộ pháp của Tống Nhân Tông!
 
      * Hỏi: Bồ Tát nhập thai bị mê khi cách ấm, người vãng sanh Tây Phương thừa nguyện tái lai có bị mê khi cách ấm hay không? (A Hoa hỏi)
 
      Đáp: Điều này tùy thuộc vào quả địa đã chứng như thế nào, chẳng thể luận định nhất loạt như nhau được!
 
      * Hỏi: Nếu Phật tử cầu siêu cho tổ tiên, làm một lần liền hữu hiệu, hay là làm nhiều lần mới hữu hiệu, có cảm ứng hay không, làm sao con cháu biết được? (Trương Khoan Tâm hỏi)
 
      Đáp: Nhiều lần tự nhiên tốt hơn một lần, bởi công đức càng nhiều càng tốt; nhưng cũng phải xét coi là đúng pháp hay không đúng pháp. Nếu đúng pháp thì một lần bèn hữu hiệu; nếu không đúng pháp, trăm lần cũng vô ích! Nói “đúng pháp” và “không đúng pháp” là vị sư tu pháp (cử hành lễ cầu siêu), đàn tràng được thiết lập, cũng như vị chủ nhân sắp đặt trai diên (cỗ chay cúng dường), nếu trong ba món này có một thứ nào chẳng đúng pháp, công đức sẽ chẳng viên mãn. Còn nếu [cả ba] đều không đúng pháp thì có thể suy ra mà biết!
 
      * Hỏi: Nếu ai nấy đều lìa khỏi kẻ ác, rốt cuộc kẻ ác phải trông cậy vào ai cứu giúp họ trở về đường chánh? (Lữ Chánh Lương hỏi)
 
      Đáp: Ở đây chia thành Bồ Tát và kẻ chưa phải là Bồ Tát, kẻ có chánh tri kiến và kẻ chẳng có chánh tri kiến để nói. Bồ Tát có lòng đại từ bi, nhất loạt phổ độ, chẳng xa lìa kẻ ác. Người có chánh tri kiến, dẫu chẳng thể hóa độ kẻ ác, cũng chẳng đến nỗi bị kẻ ác chuyển biến. Lìa và chẳng lìa, chẳng có ích, mà cũng chẳng có hại. Nếu chưa phải là Bồ Tát, lại thiếu chánh tri kiến, thử hỏi nếu thân cận ác nhân, sẽ gặt được cái quả như thế nào?
 
      * Hỏi: Trời Đao Lợi có thiên nữ và thiên nhân (thiên tử) khác biệt; trời Đâu Suất có phân biệt nam nữ hay chăng? (Đỗ Phấn hỏi)
 
      Đáp: Đâu Suất được xếp vào cõi Lục Dục, sẽ có tướng nam nữ, chỉ trừ nội viện mà thôi!
 
      * Hỏi: Sanh vào nội viện của Đâu Suất Thiên có còn bị đọa lạc hay chăng? (Đỗ Phấn hỏi)
 
      Đáp: Sanh vào nội viện bèn vượt thoát sanh tử. Sau này sẽ theo Di Lặc Phật giáng xuống thế gian này, chứng quả trong Long Hoa tam hội, làm sao có chuyện đọa lạc được!
 
      * Hỏi: Người đã kết hôn có được phép dẫn vợ con theo xuất gia hay chăng? Đạo Giáo còn truyền tụng giai thoại Lữ Động Tân dẫn vợ đi tu tiên, Phật có răn cấm chuyện này hay chăng? (Lý Trung Tâm hỏi)
 
      Đáp: “Gia” có rất nhiều cách giảng giải, nêu đơn giản thì:
1. Bao gồm hết thảy các chỗ có thể sản xuất, sinh sống.
2. Chồng và vợ. Kinh Thi có câu: “Chi tử vu quy, nghi kỳ gia thất” (ngươi về nhà chồng, nên cửa, nên nhà)[10].
Kẻ xuất gia lại chia ra nhiều loại, những người mang hình tướng tỳ-kheo trong hiện tại chỉ là một loại xuất gia, tức là kẻ lìa khỏi gia sản và vợ con. Đối với vấn đề mà ông đã nhún mình hỏi tôi, [nếu vợ chồng] xin thế độ (xuống tóc) tại hai chùa tăng và ni [tách biệt] thì có gì là không được! Nhưng nếu vẫn ở chung một chỗ, chẳng biết sẽ ra thể thống gì? Còn như giai thoại Lữ Động Tân mà ông đã nêu, chẳng dính dáng gì đến [chuyện đang bàn] ở đây!
 
      * Hỏi: Một gia đình Phật hóa có hình thái như thế nào? Lại xin nêu ra một trường hợp thực tế. (Lý Trung Tâm hỏi)
 
      Đáp: Trọn chẳng có hình thái nào khác, bất quá là tín ngưỡng đồng nhất, cùng tu Phật pháp, cùng giữ Phật giới mà thôi. Tiên sinh tuy muốn học Phật, nhưng ắt phải đọc kinh để trước hết hiểu đại lược. Tệ xã (Đài Trung Liên Xã) có thể chọn lựa những sách nhập môn biếu tặng; sau khi đã hiểu biết kha khá rồi thì mới có thể bàn đến chuyện Phật hóa gia đình.
 
      * Hỏi: Cơ Đốc Giáo có những người mang chức trách truyền đạo như mục sư v.v... Các pháp sư, tăng ni Phật giáo cũng có chức trách truyền đạo hay không? (Lý Trung Tâm hỏi)
 
      Đáp: Bất cứ pháp sư nào cũng đều là tăng chúng xuất gia, hy sinh hết thảy, chuyên vì giáo hóa, hướng dẫn chúng sanh, trên hoằng dương Phật pháp, dưới hóa độ chúng sanh, đó là chức vụ, hạnh nghiệp của họ, trọn chẳng vì đổi lấy tiền bạc mà làm chuyện này, cho nên chẳng thể coi họ giống như những người làm nghề ấy được!
 
      * Hỏi: Tôi đọc báo biết ở Đại Hàn có chuyện tăng ni xuất gia mà kết hôn, lại còn rất nhiều, đấy là Phật giáo tiến bộ hay suy vi? Rốt cuộc quý vị có nhận định như thế nào? (Lý Trung Tâm hỏi)
 
      Đáp: Đệ tử học Phật vốn có hai loại là xuất gia và tại gia, mỗi loại có quy củ riêng, giới luật hết sức rõ rệt, chớ nên hỗn loạn! Đã luyến mến vợ con, tài sản thì chẳng ngại gì tu trì tại gia. Trong giới cư sĩ vốn có bậc long tượng, từ cổ đã có rất nhiều vị thành tựu, trọn chẳng phải là học Phật ắt cần phải xuất gia. Phật giáo đồ Đại Hàn kết hôn cũng chỉ là tại gia Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà thôi. Họ sống trong chùa, tiếm xưng danh hiệu tăng ni, trọn chẳng phải là quy chế nhà Phật, đấy chính là thói tệ biến chất của Phật giáo Nhật Bản. Luật Tạng nay vẫn còn, đừng phí công nhao nhác [bàn luận] những kẻ học Phật tệ hại ấy!
 
      * Hỏi: Tôi biết bậc thánh hiền có thể kết hôn, nhưng lại có lời dạy rành rành “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (có ba điều bất hiếu, không có người nối dõi là tội bất hiếu lớn nhất), chẳng biết Phật có thể [kết hôn] hay không? Nếu có thể thì tăng ni không có gì là chẳng thể [kết hôn]! Tương truyền, thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng kết hôn, chẳng biết có đúng hay không? Cho nên tôi có mối nghi này! (Lý Trung Tâm hỏi)
 
      Đáp: Thánh nhân vốn kết hôn vô ngại, Nghiêu, Thuấn, Liễu Hạ Huệ là người như vậy. Học Phật cũng chẳng trở ngại kết hôn, Duy Ma Cật, Tu Đạt Đa là người như vậy. Chỉ có kẻ xuất gia làm tăng, ni là chẳng được phép kết hôn. Vì cớ sao? Do kết hôn sẽ chẳng thể gọi là “xuất gia”. Tuy Thích Ca Mâu Ni Phật từng kết hôn, nhưng đó là chuyện trước khi Ngài xuất gia. Phải hiểu rõ ràng chỗ này!
 
      * Hỏi: Vì cứu năm trăm vị Bồ Tát mà đức Phật giết một kẻ ác, chính mình cam tâm đọa lạc địa ngục, chẳng biết có giống như kẻ bình thường chịu xử phạt trong địa ngục hay chăng? Hay là do sức thần thông mà ứng hóa, trọn chẳng chịu khổ? (Tiêu Huệ Tâm hỏi)
 
      Đáp: Vạn pháp duy tâm, trong nhiều kiếp trước, đức Phật đã giết kẻ ác tặc để cứu nhiều người, đấy là phát tâm từ mẫn, chẳng giống kẻ phát tâm tham sân giết người, xét theo lý, hình tướng địa ngục hiện ra sẽ khác biệt, chẳng cần phải dính dáng đến thần thông!
      * Hỏi: Giáo đồ đạo Cơ Đốc nói họ lạy thần, còn Phật giáo lạy người, do vậy, họ có trình độ cao hơn. Đối với điều này có cách trả lời đơn giản nào hay không? (Liêu Ngọc Kiều hỏi)
 
      Đáp: Gia Tô (Jesus) cũng chẳng phải là người hay sao? Nếu nói họ chẳng thờ Jesus thì là thờ trời. Phật là pháp tánh vốn có từ vô thỉ, bao gồm cả vô lượng vô biên trời đất, chẳng cao lớn hơn ư? Nhưng người ngoài sẽ chẳng thể hiểu lời này. Nếu gặp hạng người như vậy, không gì bằng đáp: “Mỗi người có niềm tin riêng” để khỏi đấu võ mồm sẽ hay hơn!
 
      * Hỏi: Đệ tử mỗi ngày tụng công khóa sáng tối, niệm Phật tại nhà, chẳng biết tổ tiên và người đã khuất trong nhà của chính mình có nghe âm thanh tốt đẹp ấy hay chăng? (Hương Nguyên hỏi)
 
      Đáp: Chuyện này không nhất định. Nếu có thể chuyên hồi hướng cho họ, hoặc khi niệm bài văn hồi hướng, [niệm đến câu] “thượng báo tứ trọng ân” bèn thầm quán tưởng thì họ sẽ có thể cảm được lợi ích!
 
      * Hỏi: Vì sao trên trán của Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, và Quán Âm Bồ Tát đều có một nốt ruồi? (Hương Nguyên hỏi)
 
      Đáp: Chẳng phải là nốt ruồi, mà là một trong ba mươi hai tướng lành. Đấy là giữa hai mày sanh một sợi lông trắng cực dài (bạch hào), bên trong trống rỗng, tỏa sáng, cuộn tròn lại, giống như một viên minh châu. Khi vẽ tượng Phật, do không thể diễn tả rõ rệt được, nên vẽ một chấm, hoặc vẽ một vòng tròn, nhằm diễn tả ý ấy. Khi tạc tượng, bèn dùng đá quý khảm vào.
 
      * Hỏi: Tập khí của chúng ta rất khó đoạn, như những người giàu, có địa vị, hằng ngày mặc quần áo tốt đẹp, đã trở thành quen thuộc, nếu mặc quần áo rách rưới sẽ hổ thẹn. “Đoạn” là mặc y phục tốt đẹp cũng chẳng vui thích, mặc y phục rách nát cũng chẳng hổ thẹn đấy chăng? (Hứa Ngọc Hà hỏi)
 
      Đáp: Cũng có thể tỷ dụ như vậy! Tôi đã từng kể với ông chuyện Trình Tử thấy săn bắn tâm vui thích, tôn giả Tất Lăng Già Bà Tha[11] quở trách thần sông, đó đều là biểu hiện tập khí có thể thấy rõ vậy!
      * Hỏi: Ngài Châu Lợi Bàn Đà Già căn khí ngu độn, nhưng thành tựu nhanh chóng, đó có phải là trong Ngũ Độn Sử đã đoạn được bốn Sử nên mới thành tựu nhanh chóng hay không? (Hứa Ngọc Hà hỏi).
 
      Đáp: Nói như ông cũng được! Nhưng cũng nên biết là còn có nghĩa “đoạn một thứ, sẽ đoạn hết thảy”.
 
      * Hỏi: Đối với sự truyền thừa và giáo nghĩa của mười tông Phật giáo Trung Quốc và năm phái Thiền Tông, người xưa đã nói rất tường tận, nhưng phương pháp tu trì chánh yếu cụ thể của các tông, trừ pháp môn Tịnh Độ đã được trình bày đầy đủ ra, những tông phái khác đều là khác đường nhưng cùng về một nơi, nên mỗi tông phái sẽ có phương pháp tu trì khác biệt. Xin hãy chuyên luận định về chuyện này! (Pháp Xưng hỏi)
 
      Đáp: Vâng lệnh luận định, trình bày phương pháp tu trì của mười tông; nếu nói đại lược sẽ chẳng rõ ràng, nói chi tiết sẽ quá rườm rà, kẻ hèn này vụng về, quả thật thiếu tài văn chương ấy! Ở đây vẫn là nói đại khái, nếu muốn nghiên cứu đến tột cùng thì phải đọc các kinh chuyên biệt của mỗi tông. Luật chính là pháp quy của Phật môn, các tông đều cùng vâng giữ, giống như hiến điển (sách vở ghi chép hiến pháp, luật lệ) của quốc gia. Thiền hiện thời đa số chú trọng tham thoại đầu để cầu minh tâm kiến tánh. Tịnh chủ yếu là “buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật”, dẫu chưa đoạn Hoặc, vẫn có thể cầu đới nghiệp vãng sanh. Mật là tay kết ấn, miệng trì chú, ý quán tưởng để cầu cảm ứng thành tựu. Ba tông này (Thiền, Tịnh, Mật) thiên trọng tu trì, cho nên gọi là Hành môn. Sáu tông kia chú trọng diễn giáo, nên gọi là Giải môn; nhưng sáu tông ấy chẳng phải là không hành trì, cách hành trì của họ cũng không ngoài những pháp của bốn tông trên đây.
     
      * Hỏi: Tôi thấy tạp chí Bồ Đề Thụ ghi năm Dân Quốc 44 (1955) tương ứng với năm 2518 trong Phật lịch, nhưng Ủy Viên Hội chủ trì công cuộc ấn hành Niên Phổ của lão hòa thượng Hư Vân lại ghi là năm 2980. Xin hãy giải thích nguyên nhân! (Tạ Phổ Dương hỏi).
 
      Đáp: Vấn đề này đã được giải đáp nhiều lần trong tạp chí Bồ Đề Thụ. [Cách tính Phật lịch] hơn hai ngàn chín trăm năm là cách tính theo sự khảo cứu xưa kia, còn cách tính Phật lịch hơn hai ngàn năm trăm năm là cách tính toán dựa theo ghi chép trong bộ Chúng Thánh Điểm Ký, thuộc về sự khảo cứu trong hiện thời. Gần đây, đa phần [ghi Phật lịch] tuân theo cách khảo cứu trong hiện thời. Chẳng qua, tờ Bồ Đề Thụ cũng thuận theo [khuynh hướng ấy] mà thôi, chẳng phải là thật sự có ý kiến riêng biệt. Xét đến cùng, lấy gì để làm chuẩn, nếu chẳng hiểu rõ lịch pháp rất sâu, sẽ không thể nào quyết đoán được!
 
      * Hỏi: Trong hội Pháp Hoa, tôn giả A Nan ba lần khẩn khoản thỉnh cầu đức Thế Tôn tuyên dạy diệu pháp, nhưng năm ngàn người thuộc bốn chúng lễ Phật, lui về, đức Phật nói bọn họ tội căn sâu nặng và Tăng Thượng Mạn, có thể nói là họ ngạo nghễ, ngã mạn hay chăng? (Tạ Phổ Dương hỏi)
 
      Đáp: Đức Phật đã nói bọn họ là Tăng Thượng Mạn, chúng ta hãy nên vâng theo lời ấy mà nói, chẳng có gì là không được!
 
      * Hỏi: Trong hội Pháp Hoa, đức Thế Tôn dùng ba loại xe dê, nai, ngựa của ông trưởng giả để thí dụ pháp tam thừa, pháp tam thừa ấy giữa nước ta và nước khác có sai biệt hay chăng? (Tạ Phổ Dương hỏi)
 
      Đáp: Lời lẽ trong kinh Phật chẳng bị phân cách bởi thời gian và không gian. Nếu có gì đặc biệt khác với ý nghĩa trong kinh thì đó chẳng phải là Phật pháp!
 
      * Hỏi: Trong kinh Địa Tạng, đức Phật bảo quỷ vương: “Ta cũng bảo Phạm Thiên, Đế Thích hộ vệ ông”. Phạm Thiên Đế Thích rốt cuộc là nói về vị Phật hay vị thần nào? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
 
      Đáp: Phạm Thiên là chư thiên thuộc Sắc Giới; Đế Thích là chúa tầng trời thứ hai trong Dục Giới.
 
      * Hỏi: Chư thiên thấy nước là ngọc lưu ly, cá, rồng thấy nước như mây, khói, ngạ quỷ thấy là máu mủ. Đấy là dùng lý lẽ để suy đoán? Hay là do thật sự chứng đắc? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
 
      Đáp: Chứng biết những điều ấy, thấy đúng là như vậy. Nếu hạn cuộc trong kiến giải của chính mình, sẽ nghi [những điều ấy] là suy đoán từ lý! Phàm vạn hữu trong vũ trụ, nếu chính mình chẳng biết, sẽ đều ngờ là suy đoán từ lý!
 
      * Hỏi: Theo như Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh đã nói, con người sanh tử tội lỗi nặng nề, nếu đọa vào ngục Vô Gián thì ngàn vạn ức kiếp chẳng mong có lúc thoát ra, nhưng nay xét theo lời cư sĩ giảng trên hai số báo Bồ Đề Thụ hai mươi lăm và hai mươi sáu in chung, trong phần vấn đáp, chỉ nói “tối đa bốn mươi chín ngày” sẽ chuyển sanh, rốt cuộc như thế nào mới là sự thật? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
 
      Đáp: Thân tâm hiện khởi thì gọi là Hữu. “Hữu” có nghĩa là có thân tâm này. Phân loại tổng quát thì có ba thứ:
      1. Bổn Hữu: Chính là thân tâm trong khoảng thời gian sau khi sanh ra, trước khi chết đi.
      2. Hậu Hữu: Sau khi hết đời này, chết đi, đầu thai trong lục đạo, [do nghiệp lực] sẽ phải có thân tâm [như thế nào].
      3. Nhưng khi Bổn Hữu đã chết, Hậu Hữu chưa sanh, trong khoảng thời gian ấy sẽ gọi là thân Trung Hữu (Trung Ấm thân).
      Ắt cần phải hiểu những điều này trước đã! Trong lần trước, kẻ hèn này đã đáp lời người khác hỏi “chậm nhất là bốn mươi chín ngày sẽ chuyển sanh” chính là chỉ nói về một loại Trung Hữu mà thôi! Xin chớ hiểu lầm!
 
      * Hỏi: Đức Thế Tôn đến thế giới Sa Bà này đã bảy hay tám ngàn lần, cớ sao chỉ có một lần lưu lại kinh điển? Những lần khác có lưu lại kinh điển hay không? Cớ sao chẳng thấy? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
 
      Đáp: Thế giới có thành, trụ, hoại, không, Phật pháp có chánh, tượng, mạt, diệt. Do pháp diệt mất, nên Phật mới phải quay lại. Đừng nói là kinh của vị Phật trước, ngay cả đồ vật lâu ngày cũng chẳng dễ gì tìm được. Thử hỏi Hiên Viên Hoàng Đế của Trung Quốc mới hơn bốn ngàn năm, mà chiếc xe chỉ nam do vua chế ra để phá Xi Vưu[12] hiện còn ở nơi nào? Hiểu rõ điều này, sẽ có thể suy ra những điều khác!
      * Hỏi: Bồ Tát thường dùng tứ sự: Thức ăn, y phục, thuốc men, đồ trải nằm để cung kính cúng dường hết thảy chư Phật. Vì sao lại có chuyện “thuốc men”? (Châu Dương Huệ Khanh hỏi)
 
      Đáp: Tứ sự là những thứ cần thiết thường ngày, Ứng Thân Phật còn phải dùng, cho nên cúng dường. Pháp Thân và Báo Thân cố nhiên chẳng cần đến những thứ ấy, [nhưng vẫn cúng dường] nhằm gieo trồng phước điền cho ta. “Thuốc men” không nhất thiết phải là những thứ để uống khi bệnh tật, mà còn là những vật phẩm vệ sinh như vải lọc nước, hương bôi, dầu bôi chân v.v.. đều có thể coi là “thuốc men”.
 
      * Hỏi: Quán Thế Âm Đại Thế Chí Bồ Tát Thọ Ký Kinh chép sau khi A Di Đà Phật diệt độ, Quán Thế Âm Bồ Tát thành Chánh Giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, cõi nước đổi tên thành Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. A Di Đà Phật thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, cớ sao còn có cảnh giới “diệt độ”? (Châu Dương Huệ Khanh hỏi)
 
     Đáp: Sự diệt độ ấy chính là nói về Báo Thân thôi hóa hiện, chứ chẳng phải là phần đoạn sanh tử; [điều này] giống như trong thế gian, đại phương trượng của tùng lâm xin thôi giữ chức, ẩn cư.
 
      * Hỏi: Có một vị pháp sư khai thị trong pháp hội Địa Tạng như sau: “Thổi tắt đèn thắp trước tượng Phật, đời sau bị quả báo mù lòa. Nếu trên kinh sách dính bụi, dùng miệng thổi, đời sau sẽ bị quả báo mồm vẹo” v.v... Tại nhà học nhân có thờ một tượng Quán Âm Bồ Tát, chính giữa để một ngọn đèn dầu thắp mãi chẳng tắt, nhưng nếu học nhân ban ngày có chuyện phải ra ngoài làm việc, nên lúc sắp rời nhà, sẽ gắp bỏ bấc đèn cũ, thay bấc đèn mới, đổ thêm dầu, nên phải tắt đèn rồi mới thắp lại. Như thế thì có đúng pháp hay chăng? Hơn nữa, học nhân phát nguyện đới nghiệp cầu sanh Tịnh Độ, đã tính toán chẳng làm người trong đời sau nữa, vậy thì trong tình hình ấy, có cần phải lo ngại quả báo “mù mắt, lệch mồm” nữa hay không? (Vương Minh hỏi)
 
     Đáp: Phật pháp viên dung, có giá, có khai[13]. Dùng miệng thổi đèn, vừa giết hại các loài trùng nhỏ, vừa chẳng cung kính, nên chẳng được phép làm. Nếu trong nhà không có ai, hãy cẩn thận đèn lửa, dụi tắt bấc đèn, lúc trở về sẽ thắp lại, sẽ khỏi bị phiền phức, hãy thuận theo lẽ quyền biến. Hiểu rõ lý này thì đối với lời hỏi trong đoạn sau, cũng chẳng cần phải nói nữa!   
 
      * Hỏi: Pháp sư nói: “Trong Ngũ Bách Vấn Sự Kinh có nói: - Phàm là tượng Phật, kinh chú nhà Phật v.v... đều là Pháp Thân của Phật, chớ nên thiêu hủy. Nếu không, tội sẽ giống như làm thân Phật chảy máu, phải đọa địa ngục” v.v... Học nhân là kẻ sơ cơ học Phật chẳng hiểu Sự Lý, do nhận chức trong tiệm buôn có máy in ronéo, nên đã từng dùng giấy stencil để chép lại mấy thứ kinh chú rồi dùng máy ronéo in thành nhiều bản tặng cho người khác lễ tụng. Trong tiệm, giấy sáp (stencil) để chế bản in đã chất lại một hộp to. Tôi vốn tính khi nào rảnh rỗi sẽ thiêu đi, nhưng nay nghe nói phàm là kinh Phật chớ nên hủy, như vậy thì chẳng biết phải làm như thế nào đối với cả hộp to kinh chú chẳng thể ghép thành sách ấy? Xin hãy chỉ dạy phương pháp xử trí ổn thỏa, và có nên tiếp tục viết, in hay không? Lại như ống giấy đựng hương (bao nhang) có in hình Phật trên đó, lại nên xử trí ra sao? (Vương Minh hỏi)
 
Đáp: Kinh Phật vì lợi ích chúng sanh mà trụ trong thế gian, cho nên phải tôn kính và lưu thông, hủy diệt sẽ chuốc lấy tội nặng. Còn như những trang kinh in ronéo lờ mờ, tàn khuyết, chẳng hoàn chỉnh, cũng như giấy sáp làm bản gốc [để in], bao nhang, ống nhang bằng giấy v.v... đã chẳng thuận tiện cho người khác đọc tụng, lại chẳng thể bày lên cao cúng dường, nếu bỏ mặc cho chúng mục nát, trùng đục, chuột gặm, lại đâm ra mắc lỗi khinh nhờn! Chẳng ngại gì chọn lựa cuộc đất sạch, lễ bái thiêu đi, đem tro đổ xuống chỗ có dòng nước sạch. Ở đây tôi nói khác với lời pháp sư, hãy nên chú tâm thấu hiểu. Nếu ý vẫn chưa nỡ, mà có đủ sức, cũng có thể dựng cái tháp nhỏ cao mấy thước để chuyên đựng những kinh, tượng hư nát thì Sự và Lý đều vô ngại!
      * Hỏi: Trong Tây Du Ký có nhắc tới Tôn Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tịnh. Chiếu theo Phật học để nói, toàn bộ đều là tiểu thuyết bịa đặt bừa bãi, vì sao có kẻ nói Tôn Ngộ Không là Đấu Chiến Thắng Phật, Bát Giới là Tịnh Đàn Sứ Giả, Sa Tịnh là Bảo Kim Thân La Hán; những điều này cũng có thể không nhất định là do tiểu thuyết bịa đặt ra! Nói như vậy là nói quyền biến hay nói chân thật? Vì sao đức Phật phải chia ra quyền và thật? Cớ sao chẳng đồng nhất nói tới chỗ cùng cực mới thôi thì chúng sanh mới chẳng bị phiền phức? Phân biệt quyền và thật như thế nào? (Vương Tích Kỹ hỏi)
 
      Đáp: “Tôn Ngộ Không là Đấu Chiến Thắng Phật, Bát Giới là Tịnh Đàn Sứ Giả” v.v... đều là lời lẽ trong tiểu thuyết Tây Du Ký, đâu có gì đáng để nói là quyền hay thật! Còn như nói đức Phật thuyết pháp, vì sao phải chia thành quyền và thật, đấy vốn là vì chúng sanh căn khí bất đồng, nên phải có đủ mọi phương thức thuyết pháp. Như nêu lên con số mười, nếu có người chẳng thể hiểu, bèn nói là hai lần năm, hoặc bốn cộng với sáu, khiến cho người ta dễ hiểu. Số mười là thật, hai lần năm hoặc bốn cộng sáu là quyền; nhưng cần phải biết rõ: Hai lần năm hay bốn cộng sáu vẫn là mười. Vì thế, biết rằng: Nói quyền biến thì vẫn là nói thật!
 
      * Hỏi: Nếu thế giới chúng ta đang ở bị phá hoại khi kiếp tận, nó sẽ biến thành vi trần, hay là thế giới vẫn tồn tại, chỉ diệt chúng sanh. (Vương Tích Kỹ hỏi)
 
      Đáp: Thành, trụ, hoại, không là nói về khí thế gian.
 
      * Hỏi: Thầy dạy: Lương Hoàng Bảo Sám nói muôn hình tượng do nghiệp tạo, tâm hiện. Ví như nước, con người thấy là nước, chư thiên thấy là ngọc lưu ly, quỷ thấy là một đống lửa, cá, rồng thấy như mây, khói, nhưng quỷ thấy là lửa chẳng thể uống, nên thường khát nước. Chư thiên thấy nước là lưu ly nên cũng chẳng thể uống. Vậy thì chư thiên sống chẳng dùng đến nước ư? (Dư Bình hỏi)
 
      Đáp: Đây là nói đến nước trong hạ giới, chứ thiên giới thanh tịnh, quang minh, họ có sự hưởng thụ riêng biệt; nhưng họ thấy [nước dưới] hạ giới xấu, bẩn, ô uế, xông vào mũi khiến mắc ói. Dẫu chẳng thấy như ngọc lưu ly, há vật ô uế ấy còn đáng để uống ư?
 
      * Hỏi: Diêm La Vương và mười tám chúa ngục cùng ngưu đầu A Bàng[14] trong địa ngục xử phạt tội nhân trong thời gian có hạn độ hay là thời gian vĩnh cửu chẳng có hạn độ? (Huệ Hương hỏi)
 
      Đáp: Diêm La Vương chính là chức danh của vị chúa địa ngục. Ngưu đầu A Bàng cũng là chức danh, tự nhiên là họ Trương đi, họ Vương tới, mới thay thế cũ. Nếu lại nói tới thọ mạng thì trong hai mươi tám tầng trời còn có sanh tử, huống là Diêm La ngục tốt? Thọ mạng đã có hạn độ, làm sao có thể nhậm chức vĩnh cửu?
 
      * Hỏi: Trong Lương Hoàng Bảo Sám có nói một câu: Xưa kia, vua Diêm La là quốc vương, cùng quốc vương xứ khác đánh nhau, bại trận, phát nguyện sau khi chết sẽ làm vua Diêm La và mười tám vị chúa ngục v.v... Nhưng đấy là chuyện [đã phát nguyện] trước khi chết, trong địa ngục có Diêm La Vương, chúa ngục v.v... hay chăng? (Huệ Hương hỏi)
 
      Đáp: Nếu hiểu rõ lời đáp trước, sẽ hiểu chuyện này!
 
      * Hỏi: Hai vị thần hộ pháp đứng hai bên ba vị Thế Tôn, trong tạp chí tôi thấy ghi là “Vi Quan nhị thần”. Vi là Vi Hộ, chẳng biết Quan là vị thần nào? (Từ Đạt Tuấn hỏi)
 
      Đáp: Vi chính là Vi Đà Bồ Tát, Quan là người đời Hán, húy là Vũ (), tự Vân Trường, tức là vị được người đời gọi là Quan Thánh Đế Quân. Vi Hộ chính là nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Phong Thần Diễn Nghĩa, chớ nên lầm lạc tin theo.
 
      Hỏi: Đối với Đại Hùng bảo điện của các chùa miếu, nói Tam Thế Tôn, có kẻ nói là A Hàm, A Di Đà, Thích Tôn, lại có nhiều cách nói khác nhau, rất nhiều người nói [Tam Thế Tôn là] Tây Phương Tam Thánh, tức A Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, các chùa có giống nhau hay không? (Từ Đạt Tuấn hỏi)
 
      Đáp: Tượng Phật Tam Tôn trong các chùa Phật vốn có nhiều loại, ở đây tôi thử nêu lên ba vị Phật được xếp ngang nhau thì chính giữa là Thích Ca Phật, Đông là Dược Sư Phật, Tây là A Di Đà Phật. Có khi là một vị Phật, hai vị Bồ Tát, lại chia thành hai loại: Một là Hoa Nghiêm Tam Thánh, tức Thích Ca, Văn Thù, Phổ Hiền; hai là Tây Phương Tam Thánh, tức Di Đà, Quán Âm, Thế Chí. Nhưng được gọi là Đại Hùng Bảo Điện thì phần lớn là hai loại trước.
 
      * Hỏi: Về hai thứ mõ và khánh có nguồn gốc từ nơi nào? Phát minh vào thời đại nào? Do người nào sáng chế? Cách dùng Pháp Bảo có xuất xứ ra sao?
 
      Đáp: Từ thời thượng cổ, Trung Quốc đã chế ra khánh, chỉ có điều chất liệu bằng đá, có hình dáng dẹp và cong, đại khái giống như hình chữ Nhân ()[15]. Thứ dùng trong chùa Phật làm bằng đồng hay sắt, có hình dáng tròn. Hai thứ này đều dùng trong tụng niệm, nhằm giữ cho âm tiết nhịp nhàng. Do mắt cá chẳng nhắm, nên [chế mõ theo hình con cá] với ngụ ý “thường tỉnh giác”. Khánh khiến cho [người nghe] cảnh giác, nên được dùng làm [nhạc khí] hướng dẫn chính [trong khi tụng niệm]. Chỉ có câu hỏi [những thứ này được] sáng chế trong thời đại nào, do ai chế ra, kẻ hèn này học thức hủ lậu, chưa từng khảo sát, tra cứu.
 
      * Hỏi: Quan Thánh Đế Quân vốn thuộc Nho, cớ sao được Phật giáo rất sùng bái, coi Quan Công là thần hộ pháp? Vì sao Quan Công được coi là thần hộ pháp? Nguyên nhân ấy khởi đầu từ đâu? Ghi chép trong sách sử nào?
 
      Đáp: Quan Công là thần hộ pháp trong Phật môn được chép trong sách Phật Tổ Thống Ký. Trí Giả đại sư đời Tùy, trong Định, đã từng truyền giới cho Quan Công.
 
      * Hỏi: Đối với hình tượng Tây Phương Vạn Phật, cần phải mua loại bản vẽ gốc nào để tham khảo?
 
      Đáp: Tôi trọn chẳng nghe nói có loại sách như vậy.
 
      * Hỏi: Tín ngưỡng Phật giáo luôn tự xưng là “trí tín” (tin tưởng bằng trí huệ), nghĩa là: Chẳng lạy thần, chẳng bái quỷ, chẳng lạy vị thiên đế nào, tự mệnh danh là “chánh tri chánh kiến”, nhưng tôi thấy tăng chúng trong các đại tùng lâm hay tự viện lớn ở Đại Lục vào ngày Rằm tháng Tám thường dán bài vị viết sáu chữ Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát ở nơi trống trải ngoài trời, bày hương án, cử hành lạy mặt trăng. Theo như kinh Phật nói, mặt trời, mặt trăng chỉ ở lưng chừng núi Tu Di. Như trên đã nói “tín đồ Phật giáo chẳng lạy quỷ, thần, thiên đế”, huống hồ mặt trời, mặt trăng chưa cao đến tầng trời thứ hai là Đao Lợi Thiên trên chót đảnh núi Tu Di; mà có thể gọi là Bồ Tát được ư? Cớ sao lại được Phật giáo đồ coi trọng, sùng bái dường ấy? Ngay như tục ngữ có câu: “Đàn ông chẳng lạy mặt trăng, đàn bà chẳng lạy ông Táo”, có thể thấy lời ấy của người đời quả thật có ý nghĩa chân chánh, biểu thị hành vi của bậc trượng phu. Huống hồ hàng Phật tử chánh tín lại cử hành lạy mặt trăng, há chẳng bị người đời cười nhạo, báng bổ là kiến giải ngu muội, rõ ràng là hành vi mê tín ư? Cư sĩ nghĩ như thế nào? (Phan Thành Lâm hỏi).
 
      Đáp: Ở đây có hai nghĩa:
      1. Pháp Thân của Phật, Bồ Tát trọn khắp hư không, đã nói là Biến Chiếu Bồ Tát thì chẳng phải là chuyên lễ bái mặt trăng.
      2. Hoặc có thể là một số ít người làm như vậy, chứ không phải là chùa miếu nào cũng làm như thế.
 
      * Hỏi: Lúc đức Thích Ca mới xuất gia, theo kinh Phạm Võng, Ngài xuất gia năm bảy tuổi, [nhưng tôi lại] thường nghe Tăng chúng nói Ngài mười chín tuổi mới xuất gia, lại thấy tác phẩm Phật Học Thường Thức của quý tập san nói Phật xuất gia lúc hai mươi chín tuổi, tu khổ hạnh sáu năm trong Tuyết Sơn, thành đạo vừa đúng ba mươi lăm tuổi. Thuyết ấy so ra chuẩn xác hơn, nhưng các thuyết trước cũng có kinh điển làm căn cứ. Kinh Phật chẳng giống các tiểu thuyết thế tục mà kẻ hư vọng có thể ngụy tạo. Chư Phật, Bồ Tát chẳng nói dối. Nếu dựa theo những gì được nói trong kinh điển, đương nhiên đáng tin, cớ sao cách nói trong các kinh điển cũng có chỗ trước sau chẳng phù hợp? Tôi trộm mang nỗi nghi ấy, xin cư sĩ hãy luận định, chỉ dạy cho công bằng.
 
      Đáp: Điều này thuộc về vấn đề khảo cứu, chẳng liên quan đến sự học hỏi về Lý, chẳng hề có cái gọi là ngụy tạo và vọng ngữ, chỉ là các nhà [nghiên cứu] khảo cứu, so sánh khác nhau. Thật ra là do kinh tạng kết tập chẳng phải là cùng một nơi, cùng một chỗ, cùng một người, nhất là thời gian [kết tập] cho đến bốn trăm năm sau khi đức Phật diệt độ, vẫn còn kết tập, thời đại cách xa lâu đời, mờ mịt, mỗi người căn cứ trên điều mình thấy, chọn lấy những chứng cứ. Do vậy, mới đi vào ngõ rẽ. Đây cũng là sự tranh luận khó tránh được. Ngay như ngày thánh đản Khổng Tử tại Trung Quốc, xét ra “nên lấy ngày nào làm chuẩn” cho đến nay vẫn chưa kết luận dứt khoát. Đấy là một thí dụ vậy. Thời điểm [Phật xuất gia] được chọn lựa để ghi trong bản Khóa Tụng của Đài Trung Liên Xã do dựa theo các kinh A Hàm, kinh Niết Bàn, Bổn Hạnh Tập Kinh v.v...đấy là chủ trương của đa số vậy!
 
      * Hỏi: Lúc đức Thế Tôn thuyết pháp đã nói: Hết thảy mọi thứ trong mười phương thế giới Ngài đều có thể biết, có thể thấy. Thuở ấy, tân đại lục chưa phát hiện, cớ sao đức Phật chẳng nói thế giới này còn có đại lục mới, khiến cho người đời sau cũng biết đức Phật thuyết pháp chẳng phải là lời hư dối?
 
      Đáp: Tu Di, tứ đại châu, bát trung châu[16], mấy vạn tiểu châu vây quanh chín núi, tám biển[17]. Trên lên tới trời Sơ Thiền, dưới cho tới phong luân là một đơn vị thế giới. Tân đại lục trên địa cầu bất quá là một bộ phận trong Nam đại châu (Nam Diêm Phù Đề) mà thôi! Đức Phật nói mười phương thế giới, lại còn nói về “đại thiên” (tam thiên đại thiên thế giới), chứ chẳng phải là một đơn vị [thế giới]. Hễ nói tới cái lớn, chẳng cần phải nói tới điều nhỏ nhặt. Đây là giống như chỉ nói nhân số của Trung Quốc là bốn vạn vạn năm ngàn người là đủ rồi, chẳng cần phải nói một người nào đó có một cái đùi!
 
      * Hỏi: Người xuất gia đạt tới địa vị nào mới có thể xưng là hòa thượng? Hòa thượng và pháp sư có gì khác nhau?
 
      Đáp: Hòa thượng có nghĩa là “thầy tôi”, còn “pháp sư” thì những người thông hiểu Phật pháp và tu hành theo Phật pháp đều có thể gọi [là “pháp sư”].
 
      * Hỏi: Thích Tôn từng thuyết pháp trên trời và trong cung rồng, đấy là nhục thân hay thần thức [tới những nơi đó].
 
      Đáp: Có lẽ là nhục thân. Nếu không, cớ sao vua Ưu Điền nghĩ tưởng, luyến mộ không nguôi, thỉnh tôn giả Mục Liên lên thiên cung, điêu khắc tướng tốt lành bằng gỗ chiên đàn [để chiêm lễ cho đỡ nhớ].
 
      * Hỏi: Vì sao chuỗi tràng hạt nhất định phải xâu thành một trăm lẻ tám hạt?
 
      Đáp: Mang ý nghĩa: Đoạn một trăm lẻ tám món phiền não.
 
      * Hỏi: Hiện thời, thế giới Sa Bà đang thuộc tiểu kiếp thứ chín của Trụ Kiếp, nhưng ban đêm tôi thấy trong hư không có tinh cầu bị phá hoại, tinh cầu bị phá hoại thuộc vào hay nằm ngoài quốc độ?
 
      Đáp: Con người ở trong thế giới Sa Bà thấy lưu tinh (sao xẹt), [thì những ngôi sao ấy thuộc] phạm vi của Sa Bà, tỷ như Thiên Vương Tinh (Uranus) và Hải Vương Tinh (Neptune) trong Thái Dương Hệ này chẳng nhờ vào viễn vọng kính còn chưa thể thấy được, huống hồ là ở ngoài đại thiên ư!
 
      * Hỏi: Người đắc Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Thần Túc Thông bèn không gì chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng đi. Thử hỏi những sức thần thông ấy hạn cuộc trong một quốc độ hay mười phương thế giới đều có thể đến? Nếu có thể thì do lẽ nào loài quỷ tuy có ngũ thông nhưng chẳng thể đến Cực Lạc?
 
      Đáp: Sức thần thông có lớn hay nhỏ, trọn chẳng giống hệt nhau. [Sức thần thông của] thánh có thể bao gồm phàm, nhưng [sức thần thông của] phàm chẳng thể bao gồm thánh. Quỷ thần có Ngũ Thông, nhưng chưa Lậu Tận, nên chẳng thể vào Cực Lạc; còn người sanh về Cực Lạc, đã hết Phần Đoạn sanh tử, cho nên có thể rạng sáng nhặt hoa, bay đi cúng dường mười vạn ức cõi Phật!
 
      * Hỏi: Tu Tịnh Độ niệm Phật sử dụng tràng hạt (xâu chuỗi) thì mỗi tràng hạt (xâu chuỗi) dài nhất là bao nhiêu hạt, nhỏ nhất là bao nhiêu hạt, và có dụng ý như thế nào?
 
      Đáp: Tràng hạt được sử dụng trong mỗi tông cố nhiên có cách giải thích khác nhau, nhưng chẳng phải là mười phần nghiêm ngặt. Thường dùng nhất phần nhiều là một trăm lẻ tám hạt và mười tám hạt. Đôi khi có người hợp hai chuỗi một trăm lẻ tám hạt thành một chuỗi nhằm giảm bớt số lần phải lần chuỗi. Đối với chuyện này, Tịnh Độ Tông trọn chẳng có chế định đặc biệt nào, phần nhiều cũng sử dụng chuỗi một trăm lẻ tám hạt, còn về ý nghĩa của số hạt thì có thể tham khảo câu đáp cho lời hỏi của cư sĩ Lưu Định Xí trong phần trước sẽ hiểu rõ.
 
      * Hỏi: Tỳ-kheo-ni chưa thọ giới Tỳ Kheo có được phép thâu nhận giáo đồ hay chăng? Có được phép thờ Thái Tử Gia, Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương[18] này nọ, lạy Nam Đẩu, Bắc Đẩu này nọ để cầu tiêu tai diên thọ giùm người khác hay chăng? (Đa số các chùa am trong tỉnh này [đều làm như thế]). 
 
      Đáp: Chưa thọ giới thì làm sao có thể xưng là tỳ-kheo-ni? Điều này giống như chưa vào trường, liền xưng là học trò đã tốt nghiệp từ trường nào đó! Khôi hài như nhau! Những kẻ ấy do chẳng thông hiểu giáo lý mà nên nỗi! Do chẳng hiểu lý nên thờ xen tạp đủ thứ thần thánh, cũng chẳng có gì là lạ!
 
      * Hỏi: Phong tục của tỉnh nhà là hễ gặp ngày mồng Bảy tháng Bảy, đa số nhà nào, nhà nấy đều lạy một vị Thất Nương Ma gì đó, chẳng biết Thất Nương Ma thuộc tôn giáo nào! Đệ tử khuyên những người sống cùng nhà đừng sát sanh cúng Thất Nương Ma, đâm ra bị người ta phê bình xằng bậy: “Nhạo báng người thắp hương, ngăn trở quyền tự do thắp hương của người ta”. Kết quả là nói rát họng vô ích! Chưa biết phải nên dùng cách nào thì mới thích hợp bụng dạ của những kẻ tham vị ngon, xin hãy chỉ dạy!
 
      Đáp: Phong tục do lâu ngày đã thành thói quen. Đối với chuyện này, chính phủ đã khuyên cấm cũng chẳng phải chỉ một lần, nhưng vẫn chưa thay đổi được! Muốn cậy vào một lời để chuyển dời, sẽ chẳng thể nào thực hiện được! Nếu quan tâm chuyện này, ắt lúc thường ngày phải tuyên truyền cho nhiều những nhân quả ác do sát sanh tế thần như kinh Phật đã dạy, khiến cho họ hiểu lẽ tà chánh trong chuyện này thì mới có hy vọng sửa trừ được!
 
      * Hỏi: Có một hạng người miệng nói đã quy y Phật giáo, nhưng vẫn còn làm bà đồng, bà cốt, bảo là “từ bi tế thế”, những kẻ ấy bị tín đồ các tôn giáo Tây Dương biết đến, há chẳng bị những kẻ ấy mù quáng dè bỉu Phật giáo mê tín? Có phương thuốc tốt lành nào để cứu giúp, chữa trị những kẻ giống như vậy hay không? Xin hãy chỉ dạy.
 
     Đáp: Đã làm bà đồng, bà cốt thì đã đánh mất tư cách Tam Quy rồi, chẳng còn là đệ tử Phật nữa. Hãy dùng lời ấy để bảo [những kẻ dè bỉu]. Nếu họ chẳng tin tưởng, có thể mời người ấy đến hỏi vị thầy quy y của kẻ [đồng cốt] kia. Nếu kẻ ấy vẫn làm nghề đồng cốt để kiếm sống, kiên quyết chẳng thay đổi, tức là bệnh chẳng trị được, chẳng có hy vọng gì giữ cho huệ mạng sống sót cả!
 
     
 
     
 
      * Hỏi: Trang nghiêm tượng Phật, phần lớn là giữa ấn đường có một hạt giống như hạt châu hay nốt ruồi, chẳng rõ là danh nghĩa gì? Xin đại đức khai thị!
 
      Đáp: Phật có ba mươi hai thụy tướng (tướng tốt lành), giữa hai mày có một sợi lông trắng (bạch hào), cuộn tròn như hình cầu. Ắt là cư sĩ đã niệm tụng bài kệ tán Phật, trong ấy có câu: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di”, chính là nói về tướng này. Phàm tạo tượng Phật, nơi ấn đường khảm viên châu nhằm biểu thị thụy tướng bạch hào ấy!
 
      * Hỏi: Giặc Cộng đã hủy diệt các đại tùng lâm, các ngôi chùa nổi tiếng tại Đại Lục, bọn giặc còn sai lũ bộ đội cả trăm hoặc ngàn tên ra tay phá hoại. Kẻ tạo nghiệp là kẻ ban bố mệnh lệnh, nhưng kẻ thuộc hạ bị ép tạo nghiệp; một kẻ [ban bố mệnh lệnh ấy] bị đọa địa ngục, còn lôi thêm những kẻ vô tri bị bắt buộc [tạo nghiệp] đọa địa ngục. Xét theo nhân quả, thế gian vĩnh viễn chẳng thể hòa thuận ư?
 
      Đáp: Khi Hoặc nghiệp đã hết, sẽ chẳng phải là chúng sanh. Chẳng phải là chúng sanh bèn hòa thuận. Do vậy, nhìn vào cõi sen ở phương Tây, toàn là các vị thượng thiện nhân, nên có tên là Cực Lạc, mới biết là chuyện chẳng tầm thường!
 
      * Hỏi: Trong các đồng sự, có kẻ báng bổ, chẳng gọi tên, mà cố ý gọi mạt học là “A Di Đà Phật” ! Đối phương chẳng tin Phật mà gọi mạt học là Phật, khiến cho cái nhân Phật được gieo cũng là điều tốt lành, hiềm rằng phàm phu thân nghiệp chướng nặng nề, làm sao xứng để đối phương gọi là A Di Đà Phật? Dường như kẻ hậu học này phạm lỗi thì phải?
 
      Đáp: Do kẻ kia dấy động, chẳng do ta xằng bậy tự khen, đó là lý do chẳng phạm lỗi thứ nhất! Kẻ ấy chẳng tôn kính danh hiệu ấy, đấy chính là cử chỉ khinh bạc, cợt nhả [đem danh hiệu tôn quý] gán lên thân ta, đó là bỡn cợt, chẳng phải là do hư vinh [mà ta tự xưng là Phật]. Đấy chính là lý do chẳng phạm lỗi thứ hai. Hơn nữa, ta tu Tịnh Độ, trọng yếu là dùng tâm làm Phật, tự tánh vốn là Di Đà, kẻ ấy gọi như thế, hãy coi như [chính mình được hắn ta] cảnh giác, cũng chẳng phải là vô ích đối với ta.
 
      * Hỏi: Vợ tôi theo đa thần giáo, sau khi lấy nhau, lẽ ra nên “phu xướng, phụ tùy” thì mới là đúng, hiềm rằng gia đình cô ta dạy dỗ quen thói, thần nào cũng cúng bái, nhiều lần khuyên thay đổi, mười phần đã bỏ được tám chín, nhưng vẫn còn một, hai phần chưa trừ, có nên để mặc cô ta, hay là ngăn chặn, xin hãy lập cách độ cô ta!
 
      Đáp: Nếu quý phu nhân là tín đồ Phật giáo từng được quy y, nhưng thờ phụng nhiều vị thần, tự trái nghịch giới điều, hãy nên cạn hết sức dùng giáo nghĩa để uốn nắn, khuyên răn, chẳng để cho cô ta thoái đọa. Nếu chẳng phải là tín đồ nhà Phật chính thức, nhằm tránh né xung đột, chỉ nên tìm cách hòa hoãn, lựa dịp khuyên răn. Ông đã nói mười phần trừ được tám, chín, điều này rất khác so với kẻ chẳng thèm nghe lời khuyên lơn; còn như ông nói thỉnh tôi hãy giảng giải [cho cô ta] thì kẻ hèn chưa hề gặp mặt, làm sao có thể khuyên lơn, hóa độ được!
 
Hỏi: Vợ tin nhiều vị thần, quen thói sát sanh nặng nề, tuy đã được giáo hóa, chỉ bảo, nhưng đối với những con vật nhỏ vẫn chẳng che chở, chồng bèn đối trước vợ thề: “Nay bà chẳng sửa lỗi giết kiến và những con vật nhỏ, về sau, bà sanh con cái, sanh một đứa, sẽ chết một đứa”. Ý là muốn vãn hồi [ngăn vợ] chẳng giết những con vật bé nhỏ mà thề, may là vợ nghe lời! Dường như đối với chính mình, lời thề độc địa ấy tạo thành khẩu nghiệp ngập trời, có ảnh hưởng đến sự vãng sanh hay không?
 
      Đáp: Tâm cư sĩ cố nhiên là tốt lành, nhưng cách làm của cư sĩ chẳng thể chấp nhận! Do phạm lỗi quá dữ dội, lại còn là ác khẩu. [Điều này] có ảnh hưởng đến sự vãng sanh hay không còn phụ thuộc sau này ông có thể sửa đổi hay không. Bởi lẽ, trước hết, hành vi ấy chính là ý nổi sân, lại ăn nói thô bạo, hai nghiệp cùng uế, tạo thành bao nhiêu chủng tử. Nếu lúc lâm chung, chúng dấy lên hiện hành, sẽ sanh ra chướng ngại. Ông chẳng thấy Nhẫn Nhục tiên nhân và vua Ca Lợi, đức Thế Tôn và Đề Bà Đạt Đa, có bao giờ có nửa điểm nóng giận hay chăng? Bọn ta đã xưng là học Phật, hãy nên nỗ lực noi theo.
 
      * Hỏi: Một người bạn làm nghề nông nói: “Phật giáo các anh nói phàm là hết thảy động vật đều có linh tánh. Nếu băm con đỉa thành từng mảnh nhỏ rồi bỏ trong phân trâu một đêm; sáng hôm sau, bươi phân ra, bao nhiêu miếng thịt đỉa ấy biến thành bấy nhiêu con đỉa”. Chẳng biết có phải là trong phân trâu có vi khuẩn, vùi thịt đỉa vào đó, những loài vi khuẩn sẽ nương theo duyên mà hóa ra đỉa? Hay là có rất nhiều thân Trung Ấm nương vào duyên, thừa nghiệp lực nhập vào các mảnh thịt đỉa mà sanh [ra những con đỉa]? Xin chỉ dạy!
 
      Đáp: Thần thức đạt được giả thân, bất quá như khách trọ và quán trọ mà thôi. Thức là chủ thể nương gá, các vật thể thai, noãn, thấp, hóa là cái được nương gởi. Do thần thức có linh cơ, noãn, thai, thấp, hóa có sanh cơ (khả năng phát triển thành sự sống). Đã có sanh cơ làm năng sanh (chủ thể có khả năng sanh thành), gặp duyên là thức thần hòa hợp, bèn tạo thành thân thể một động vật, đó là “sở sanh” (cái được sanh ra). Đây vẫn là nguyên lý Duyên Sanh, chẳng có gì lạ lùng, đặc biệt cả! Thần thức là thân Trung Ấm, đỉa vốn là động vật thân đốt, mỗi đốt đều có thể [tồn tại] độc lập, đều có sanh cơ.
 
      * Hỏi: Theo học thuyết vệ sinh: “Cứ cách hai giờ, bàn tay mỗi người có thể sanh ra vô số vi trùng”. Phàm các loài trùng đều có sanh mạng; nếu có sanh mạng, trong quá trình sanh diệt, chắc chắn có Trung Ấm thân, vì sao Trung Ấm nhiều như thế? Trung Ấm có đầy ắp không gian hay chăng? Xin chỉ dạy.
 
      Đáp: Động vật hữu hình còn là vô lượng vô biên, huống chi thần thức vô hình mà có hạn lượng ư?
 
      * Hỏi: Tiểu vi khuẩn trên da, mỗi con vật nhỏ nhoi đều có sanh mạng; rửa tay và tắm rửa mỗi ngày, há chẳng phải là vô tình giết hại vô số sanh mạng, hoặc là do những con vật ấy nhỏ xíu nhìn không thấy nên vô tình sát hại, chẳng thể chấp trước bảo những chuyện ấy là sát sanh đó chăng?
 
      Đáp: Há chỉ tắm rửa là sát sanh, mà con người chẳng thể không hô hấp, một hơi thở ra hít vào đã giết vô lượng sanh mạng. Đối với bọn phàm phu chúng ta mà luận, bất quá là đối với chuyện này, chỉ khác biệt ở chỗ có thể tránh hay không thể tránh. Có thể tránh mà không tránh thì gọi là tội, do chẳng thể tránh nên không tránh thì là lỗi mà thôi!
 
      * Hỏi: Trong thân thể con người, có không ít loài trùng nhỏ sống ký sinh bên trong thân thể, nên mỗi người giống như một tiểu thế giới. Giả sử một người chết đi thì có giống như một tiểu thế giới bị diệt hay chăng? Như vậy thì một người đã chết, chẳng phải chỉ là một thân Trung Ấm thăng trầm trong hư không? Xin chỉ dạy!
 
      Đáp: Thế giới đã hoại, đã trống không, thì động vật gởi thân trong thế giới ấy tự nhiên bị liên đới hủy hoại, lại bị luân hồi.
 
      * Hỏi: Kiến chết đuối một hai ngày, có trường hợp được cứu sống. Sau khi sống, thức [của con kiến ấy] là thức trước đó, hay là một Trung Ấm gặp duyên mà sanh?
 
      Đáp: Có thể sống lại tức là không phải thật sự chết! Tuy chết thật, nhưng cơ năng chưa hoại, thì có trường hợp bổn thức (cái thức vốn ở trong thân ấy trước khi chết) trở lại, mà cũng có trường hợp thức khác gá vào đó, chẳng thể chấp trước nhất loạt được!
      
* Hỏi: Trong kinh Phật đã nói Pháp Thân vô tướng, vì sao có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, chẳng lẽ vô tướng chính là chân thân, hữu tướng chính là giả thân ư?
 
      Đáp: Phật có ba thân là Pháp, Báo, Ứng, nghĩa này hết sức phức tạp. Nhằm dễ hiểu, nay tôi chọn cách giải thích đơn giản. Lý Chân Như vô vi chính là Pháp Thân, có thể nói là vô tướng. Trí hữu vi hiển hiện thành sắc thân vi diệu chính là Báo Thân, có thể nói là hữu tướng; khởi tác dụng công đức, do chúng sanh cơ cảm mà hiện thì là Ứng Thân, thuộc về hữu tướng, thường nói là “ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp”. Nếu chỉ chú trọng một phương diện thì nói Pháp, Báo, Ứng là ba thân, chẳng trở ngại gì! Pháp Thân là chân, Ứng Thân là giả, như lửa có ngọn lửa, sức nóng, ánh sáng, chia thành ba sự! Nếu hiểu viên mãn thì ba thân Pháp, Báo, Ứng vốn là một, như nước có thể lỏng, tánh ướt và sóng, nhưng hoàn toàn là một Thể. Chỉ chú trọng một phương diện là cưỡng phân chia, nói quyền biến bèn có Chân và Giả. Hiểu viên mãn, sẽ thấy toàn thể quả thật chẳng có chân, mà cũng không có giả. Ngộ giải cặn kẽ hai tỷ dụ nước và lửa, sẽ tự có thể hiểu rõ.
 
      * Hỏi: Thế giới Sa Bà có phạm vi lớn cỡ nào, bao quát những thế giới nào? Địa cầu này ở vị trí nào trong đại thiên thế giới? Có thể thấy chín rặng núi, tám cái biển và tứ châu của đại thiên thế giới cùng chư thiên, rồng hay không? Ở nơi nào? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Phạm vi của Sa Bà là toàn thể tam thiên đại thiên thế giới. Về kết cấu của đại thiên, nói ra sẽ vô cùng phức tạp; ở đây chỉ nói tổng quát sẽ đơn giản hơn. Bốn đại châu, tám trung châu, mấy vạn tiểu châu là một đơn vị thế giới. Một ngàn [đơn vị thế giới] như thế là một tiểu thiên thế giới. Một ngàn tiểu thiên hợp thành một trung thiên, một ngàn trung thiên hợp thành một đại thiên. Địa cầu chính là một đại châu trong một đơn vị thế giới, có tên là Nam Thiệm Bộ Châu. Đối với những câu hỏi khác, [câu trả lời đơn giản là] nếu bản thân ông] có thể đến nơi ấy, sẽ có thể thấy được. Nếu không, sẽ chẳng thể thấy! Như thật sự có Trường An, nhưng nay nhìn về phương Tây chỉ thấy khói giăng mịt mờ, mênh mang, chẳng thể thấy được!
 
      * Hỏi: Các vị Hoạt Phật như Đạt Lại, Ban Thiền v.v... đã chứng quả vị nào? Họ thật sự có sức thần thông và đại trí huệ ư? Cớ sao họ vẫn nhiều lần mắc nạn? Những kẻ xưng là Hoạt Phật khác, có phải là đều có Túc Mạng Thông hay chăng? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Chỉ thú của cột báo này là phàm có ai rộng lòng hỏi tới, sẽ đáp theo những gì chính mình biết. Hoặc dựa theo kinh điển, hoặc nghe người khác nói, ắt có cái để làm căn cứ. Đối với lời hỏi của Ngài thì hiện thời các vị thầy như Đạt Lại, Ban Thiền, kẻ hèn này chưa từng gặp mặt, chiêm bái, chẳng dám tùy tiện nói này, nói nọ. Còn trí huệ, thần thông v.v... như thế nào, cũng là nghe mọi người nói [như thế nào bèn biết như thế đó] mà thôi!
 
      * Hỏi: Trí Giả đại sư là hóa thân của Phật Thích Ca, hòa thượng Thiện Đạo và thiền sư Vĩnh Minh đều là hóa thân của Di Đà, do đâu mà biết? Lại nữa, có người nói Ấn Quang đại sư là Thế Chí Bồ Tát thị hiện, đúng không? Nếu chỉ là lời khâm phục, ca ngợi, chứ không phải là bổn địa của Ấn công (tổ Ấn Quang), há chẳng phải là mắc tội vọng ngữ ư? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Những điều này do đều có những sự tích, căn cứ trên đó để suy ra, tôi nghĩ là chuyện đương nhiên. Còn đích xác hay chăng thì ắt phải có Thiên Nhãn và Túc Mạng Thông rồi mới có thể quyết đoán. Người xưa do căn cứ trên sự việc để nói, nên không thể bảo họ là vọng ngữ.
 
     * Hỏi: Đức Thích Tôn đản sanh năm nào, mấy tuổi xuất gia, thường có hai cách nói [khác nhau]. Lại nữa, tranh luận kinh Lăng Nghiêm là chân hay ngụy đến nay vẫn chưa thể dứt khoát, nhưng thấy trải các đời chẳng thiếu những bậc cao tăng đại đức có đại trí huệ, đại thần thông, dựa theo trí huệ của các vị ấy há chẳng thể có đáp án chính xác ư? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Năm sanh và năm xuất gia của đức Thế Tôn thuộc lãnh vực chuyên môn của người học lịch pháp, chẳng phải là vấn đề trong nội điển, do xưa, nay, không chỉ trong, ngoài nước lịch pháp khác biệt, mà ngay cả trong một nước, còn có nhiều lần biến hóa! Trung Quốc mỗi đời trong Tam Đại[19] lịch pháp đều khác, cho đến nay, so sánh lịch trong và ngoài nước sẽ thấy rõ rệt nhất, há cần phải nói tới đức Thích Tôn cho xa xôi? Ngay như ngày sanh của Khổng Tử, tại Trung Hoa vẫn còn tranh luận lung tung chưa thể ngã ngũ. Theo tệ kiến, nếu chỉ cầu về đại thể chẳng sai, hãy nên tập hợp đông đảo các vị học giả về lịch số trong ngoài nước, chung sức cùng nhau nghiên cứu, thảo luận, mới mong giải quyết được, chứ chỉ dựa vào ý kiến suy đoán của một hai người thì cũng giống như phỏng đoán! Còn kinh Lăng Nghiêm là chân hay ngụy, chẳng phải là không có lời giải đáp chính xác, mà chỉ là do người đọc chẳng thể quyết đoán đó thôi! Những người chủ trương [kinh Lăng Nghiêm] là thật, như những vị tổ sư các tông đã viết chú giải. Kẻ chẳng tin [kinh ấy] là thật, lẽ nào viết chú giải? Kẻ chủ trương kinh ấy là ngụy tạo, phần nhiều là những nhà học giả, thâu thập chừng đó tài liệu bèn hoài nghi. Đây cũng là vấn đề “người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”. Kể từ xưa, chẳng ít người đã nương vào kinh Lăng Nghiêm để chứng đạo. Đã có thể chứng đạo, làm sao bảo kinh [Lăng Nghiêm] là ngụy tạo cho được? Há có phải chỉ là như thế, những người theo Tiểu Thừa lại chưa từng gièm báng kinh Đại Thừa ư? Há chẳng phải là họ tin [kinh điển] Đại Thừa đều chẳng do đức Phật nói ư? Đây chẳng qua là thuận theo dấu vết, hình tướng để tranh biện. Nếu nói thật thì nói là chân hay ngụy đều là hý luận!
 
      * Hỏi: Nói theo Phật lý, bố thí tài vật chẳng khác gì một thứ quan hệ vay mượn ân huệ! Lại thấy có câu “kẻ thí thăng thiên đường, kẻ nhận vào địa ngục”, vậy thì bố thí vốn muốn lợi người, kết quả lại thành hại người, người nhận bố thí vốn muốn làm phước điền cho người khác, nhưng lại hại chính mình. Có đạo lý nào viên mãn hơn để tháo gỡ mối mâu thuẫn ấy hay không? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Kẻ hèn này đọc kinh chẳng nhiều, cố nhiên kiến văn hủ lậu. Nói “bố thí thăng thiên đường” ít ra còn thấy gần gũi, chứ “nhận của bố thí sẽ vào địa ngục” chẳng những chưa hề thấy đoạn văn ấy ở trong kinh nào, mà cũng chưa hề nghe ai nói! Kính thỉnh Ngài hãy dạy cho biết lời ấy xuất phát từ kinh nào, hoặc nghe ai nói, sau đấy tôi sẽ tra duyệt rõ ràng, dựa theo đó để vâng mạng đáp lời!
 
      * Hỏi: Chọn ăn rau bên cạnh thịt, ắt thịt bên cạnh rau sẽ được người chẳng trì giới ăn, đấy cũng là nhường con đường tạo tội ác cho người khác đi, sao chẳng theo tinh thần “ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục?” để giành lấy tội, nhường phước [cho người khác]? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Ăn rau bên cạnh thịt chính là biện pháp phương tiện bất đắc dĩ của người trì giới khi đến chỗ người khác ăn uống, chính mình chẳng sắp đặt những món ăn ấy, nên đành để cho người ta ăn thịt, còn chính mình ăn rau, chớ nên hiểu lầm! Còn như ông chất vấn “giành tội, nhường phước” thì trong một trường hợp nào đó cũng chẳng phải là không được, nhưng đó là chuyện đôi khi mới có, chẳng phải là chuyện thường xảy ra. Dẫu nhường rau cho người ta, người ta bằng lòng tiếp nhận ư? Cần biết: Phật pháp bình đẳng, vì khắp đại chúng mà nói. Nếu như chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa, cự tuyệt chẳng tiếp nhận thì sao? Theo như cách luận định mà Ngài đã chủ trương, vô lượng kẻ đồ tể do đã giết cả đống chúng sanh, cho nên sẽ mắc tội báo, vô lượng gã giặc cướp, trộm nhiều của báu, sẽ mắc phải tội báo, chẳng lẽ Phật tử vì lòng từ bi, thấy hai loại người ấy về sau sẽ hứng chịu tội báo, liền hùa nhau làm đồ tể hay làm giặc cướp ư? Nếu là như vậy thì người ta sẽ nói Phật giáo như thế nào?
 
* Hỏi: Trong lục đạo, ngoài loài người và súc sanh đạo có thể thấy bằng mắt ra, y báo và chánh báo trong bốn đường kia đều ẩn, chẳng thấy được, là do lẽ nào vậy? Nếu đều cùng sống với nhân loại trong một thế giới này, các khí quan và vật bài tiết của họ đặt ở nơi nào? (Trần Bình Chương hỏi)
 
      Đáp: Lục đạo có loài [phàm nhân] có thể thấy, có loài chẳng thể thấy. Điều này có mối liên hệ với sinh lý và nghiệp báo, nhưng dưới một điều kiện nào đó, cũng có thể thấy chư thiên, quỷ thần, địa ngục. Kinh sử Nho gia cũng có ghi chép, chứ không phải chỉ riêng kinh Phật, mà hiện thời, những phát biểu của các nhà nghiên cứu về tâm linh của Âu Mỹ cũng thường được đăng tải trên báo chí, há có phải đều là hư vọng! Nhưng chẳng thể thấy thì cũng chẳng thể quyết đoán là không! Như ông Giáp có mộng cảnh, nhưng ông Ất chẳng thể thấy; Ất có tưởng tượng, nhưng Giáp chẳng thể biết. Lại nữa, vật để bài tiết nhỏ hơn thân, thân đã chẳng thấy, làm sao hỏi về bài tiết cho được? Hãy thử suy nghĩ: Trong hư không có vô lượng tiểu động vật, trên thân con người có vô lượng tiểu trùng, chưa hề thấy trên phân rơi tung tóe trên không trung, hoặc lỗ chân lông ta chảy nước tiểu ròng ròng!
 
      * Hỏi: Báo chí đăng tải Từ Hàng pháp sư[20] nhục thân Bồ Tát ngồi trong cái ang năm năm mà toàn thân chưa hoại, nói theo Phật lý là do duyên cớ như thế nào? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Cư sĩ đã chiếu theo Phật lý để nói, tôi chỉ đành tuân thủ phạm vi ấy để đáp! Nghe nói thuở sanh tiền, đại sư đã dặn dò quyến thuộc: “Nguyện lưu cái thân hư huyễn này để thị hiện cho chúng sanh thấy, khiến họ sanh lòng tín ngưỡng”. Kẻ chân tâm, có nguyện ắt thành. Kinh chép bậc thánh nhân thời cổ, thân thể bị cắt rời, mà còn có thể phục hồi như cũ, huống hồ [giữ cho] da thịt còn nguyên vẹn chẳng hư hoại ư? Đây là do nguyện lực khiến thành ra như vậy! Đó là lý do thứ nhất. Người tu hành hằng ngày có công hạnh, định lực sâu, tinh khí nội liễm, chẳng hời hợt phô bày ra ngoài, khí huyết lâu ngày trở thành tự nhiên. Do công phu thâu liễm, có thể giữ cho thân chẳng tiêu tan, cho nên khô khan mà chẳng hư nát, đó là lý do thứ hai!
 
      * Hỏi: Giáo chủ Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni Phật vì sao không để lại nhục thân cho hậu thế? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Mỗi vị nguyện lực bất đồng, chớ nên dựa vào điều này để cho rằng có cao thấp. Nhục thân chỉ có một, xá-lợi nhiều viên; nhiều viên sẽ có thể cho thế gian cúng dường trọn khắp, nhưng [người chiêm lễ] chẳng thể thấy kim dung. Một thân thì [người chiêm bái] có thể thấy tướng mạo từ bi, nhưng chẳng thể khiến thế gian cúng dường trọn khắp, đều có nhân duyên, đều trọn đủ thiện xảo.
 
      * Hỏi: Giáo nghĩa Phật giáo nói “Tứ Đại giai không” (Tứ Đại đều là không), nhục thân của pháp sư Từ Hàng thuộc về Địa Đại trong Tứ Đại, vì sao lại riêng tồn tại trái với lẽ thường? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Tứ Đại là đất, nước, lửa, gió, đó là cái tên quy nạp chung cho các sắc tướng. Trong cái rỗng không, do các duyên hòa hợp mà hiện giả tướng, trọn chẳng có thực thể. Ý cư sĩ cho rằng bọn ta lao xao qua lại nên chẳng phải là Không ư? Lại nữa, sau khi chết, Tứ Đại chia lìa mới nói là Không ư? Kiến giải như thế chính là [kiến giải] Ngoan Không của thế tục, chẳng phải là nghĩa Không trong nhà Phật. Dẫu thuận theo kiến giải Ngoan Không để nói thì chẳng qua di thể của pháp sư Từ Hàng cũng thuộc về vấn đề [tồn tại] lâu dài hay tạm thời. Ví như con phù du (con vờ) sáng sanh tối chết, huyền hạc sống ngàn năm, có thể nói huyền hạc là thường, phù du là vô thường ư? Hiểu rõ lý tạm bợ hay lâu dài thì có gì là trái lẽ thường?
 
      * Hỏi: Con người chết đi, thần thức rời khỏi nhục thể, chẳng lâu sau liền hư nát, nay pháp sư Từ Hàng nhục thân bất hoại, râu, tóc, móng tay lại còn mọc dài, có phải là thần thức chưa lìa khỏi thân hay chăng? Nếu không, người đã chết vì sao râu tóc lại mọc? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Chết là danh từ chỉ [sự kiện] thần thức đã rời khỏi [thân xác], chưa rời khỏi sẽ chẳng thể gọi là chết! Trong câu trước, tôi đã chẳng nói người tu hành tinh khí nội liễm hay sao? Người nội liễm có lúc dư khí (tinh khí còn sót lại) chưa tan, dư khí nơi râu, tóc, huyết, hoặc dư khí nơi móng tay, xương. Khí đã nội liễm bèn phát tiết ra ngoài, tự nhiên hình thành tóc, móng tay. Như cái cây đã chặt ngọn, tuy rễ đứt, lá héo, trải qua một thời gian lâu sau vẫn có thể nẩy mầm, chuyện này thuộc về quan hệ sinh lý. Nhìn vào những vật thể khác, sẽ có thể ngộ được lẽ này!
 
      * Hỏi: So sánh giữa nhục thân bất hoại và sau khi thiêu có xá-lợi, công phu nào giỏi hơn? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Câu hỏi này giống như hý luận! Nếu nói có xá-lợi là công phu tốt đẹp, Lục Tổ hiện nhục thân là kém cỏi, sẽ chuốc lấy cái họa phỉ báng Tổ! Nếu nói [lưu lại] nhục thân là công phu tốt đẹp, thì Phật Thích Ca hiện xá-lợi sẽ là kém cỏi, bèn chuốc lấy tội báng Phật! Đây là vấn đề nguyện lực, chứ không phải là vấn đề công phu!
 
      * Hỏi: Nghe nói Lục Tổ cũng là [lưu lại] nhục thân, cho tới nay vẫn còn, chẳng biết có đúng hay không? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Phàm là dân tỉnh Quảng Đông, hoặc người chuyên tham lễ đều biết [chuyện ấy], có gì là chẳng đích xác!
 
      * Hỏi: Toàn thân xá-lợi có phải là nhục thân bất hoại hay không? (Vương Nhất Minh hỏi)
 
      Đáp: Ngày hôm qua, tôi đọc Trung Ương Nhật Báo số ra ngày Hai Mươi Chín tháng Năm, đối với vấn đề này, pháp sư Đạo An cũng đã giải đáp. Xin hãy tự đọc báo ấy sẽ biết!
 
      * Hỏi: Chúng sanh nên làm như thế nào thì mới có thể đạt được phước thọ chân chánh? Phước thọ chân chánh có cùng tận hay chăng? (Trường Tinh hỏi)
 
      Đáp: Vạn pháp vô thường, hễ có hình tướng đều là vọng. Cư sĩ hỏi: “Phước thọ chân chánh có cùng tận hay chăng?” Dùng nguyên tắc “pháp là vô thường, tướng đều là vọng” để luận, có gì là chân chánh, có gì là bất tận. Vô thường mà coi là thường, chẳng chân ngỡ là chân, đấy chính là điên đảo! Chỉ vì vô thường, chẳng chân, con người cảm thấy tiếc nuối, thiếu thốn, nên nhà Phật mới nêu ra đạo “chân thường”. Bất sanh, bất diệt là thọ chân thường; vạn đức trọn đủ, thần thông tự tại là phước chân thường. Ắt phải đạt đến Phật quả thì mới có thể trọn đủ hai điều này, nên [Phật được] gọi là Lưỡng Túc Tôn; nhưng chúng sanh đều có Phật Tánh, cớ sao người có chí chẳng mau theo đuổi?
 
      * Hỏi: Hiện thời tại Đài Loan có công ty điện ảnh Phật giáo hay không? Cần phải có minh tinh Phật giáo hay không?
 
      Đáp: Phật giáo hóa điện ảnh đúng là chuyện tất yếu, chỉ có điều tôi vẫn chưa nghe Đài Loan có công ty như vậy. Gần đây, Hương Cảng có ấp ủ dự định ấy, nhưng chẳng biết thành công hay chăng? Theo tệ ý, bước đầu chẳng cần phải lập một công ty chuyên biệt, chỉ nên nhờ chuyên gia quay mấy bộ phim khế cơ, khế lý, hòng thay đổi phong tục xã hội, công đức cũng không ngằn mé. Cư sĩ đã phát nguyện thích làm minh tinh, mong hãy tạm thời dốc lòng nghiên cứu Phật lý, ngõ hầu có chánh tri chánh kiến trước đã, sau đấy mới sắp đặt, sẽ chẳng đến nỗi giống như kẻ thế tục sắp đặt [kịch bản, quay phim] có lắm điều trái nghịch pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian, chẳng thể khiến cho người khác dấy khởi lòng hứng thú, yêu thích được!
 
      * Hỏi: Trong phẩm Phổ Môn, Vô Tận Ý Bồ Tát dùng chuỗi anh lạc kết bằng các thứ châu báu để cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng nói là Tài Bố Thí mà gọi là Pháp Bố Thí, nên hiểu như thế nào? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
 
      Đáp: Quán Thế Âm là cổ Phật hóa thân, thả chiếc bè Từ, đến cõi này độ chúng sanh. Tuy [Quán Thế Âm Bồ Tát trong hội ấy] có [thân phận] Đẳng Giác Bồ Tát, nhưng lẽ đâu [Vô Tận Ý Bồ Tát] lại hướng về Phật thí pháp? Cổ đức từng có vị cho rằng [ngài Vô Tận Ý] đã hành pháp bố thí vì tam luân thể không, nên mới là hành đúng pháp [vì thế, nói sự bố thí ấy là pháp thí]. Để giải thích vì sao là bố thí đúng pháp, kẻ hèn này cũng tuân theo ý ấy, nhưng lại mở rộng thêm ý nghĩa: Vô Tận Ý Bồ Tát vì chúng sanh cầu pháp, thay mặt chúng sanh cúng thí chuỗi anh lạc, tức là vì pháp mà hành bố thí, đó là một cách giải thích. Thay chúng sanh gieo trồng, vun bồi phước điền, mà hành bố thí, tức là hành bố thí đúng pháp trong Phật pháp, đó là cách giải thích thứ hai.
 
      * Hỏi: Nếu có cư sĩ chánh tín Tam Bảo, nhưng do công việc chi phối, phải thường mặc quần áo lao động dơ bẩn để lễ Phật, có thiếu cung kính hay không? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
 
      Đáp: Tuy chưa nói rõ chuyện gì bẩn thỉu, nhưng suy từ hai chữ “công việc”, chắc là làm việc dọn dẹp những thứ bất tịnh, nếu như thế thì chẳng trở ngại gì! Thuở Phật tại thế, từng có người làm nghề dọn phân được độ thành tỳ-kheo. Chúng sanh đều có Phật tánh, Phật pháp bình đẳng phổ độ. Dẫu là gái bao, lũ trộm, còn chẳng khinh thường! Bất luận công việc bẩn thỉu nào đi nữa, lẽ đâu ảnh hưởng chuyện lễ Phật! Chỉ có điều khi lễ Phật, ngoài gột rửa cái thân, trong thanh tịnh tâm ý, sẽ chẳng mắc tội khinh nhờn, mà còn có công đức!
 
      * Hỏi: Hàng xóm của tôi có cụ X... tuổi đã cao, không đi làm, nhiều năm qua hoàn toàn sống nhờ bài bạc, đêm ngủ thường mộng thấy tứ chi cứng đờ, gào to có quỷ, hàng xóm bốn phía mỗi khi bị ông cụ kinh động thức giấc, bèn gọi tên, đập vách, thần trí ông cụ mới tỉnh táo trở lại, đó là nghiệp cảm ra sao? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
 
      Đáp: Tâm địa quang minh, ắt tinh thần sáng suốt, nằm mộng bình ổn. Kẻ bài bạc, tam độc lẫy lừng, làm sao chẳng có mộng? Nằm mộng thấy quỷ khuấy là do chính mình chiêu cảm, chẳng đáng để luận định nữa!
     
      * Hỏi: Ngày nay Phật giáo đồ hô to “Phật giáo cứu đời, Phật giáo ái quốc, tịnh hóa nhân gian”; nói “cứu đời, ái quốc, tịnh hóa nhân gian”, rốt cuộc là làm những chuyện gì? Không gì chẳng phải là nhiễu quanh niệm Phật, hoặc ngồi trên giường nhắm mắt tham Thiền ư? Hoặc là khua khua, gõ gõ, hướng về người chết siêu độ ư? (Trầm Tử Lương hỏi)
 
      Đáp: Phật giáo chẳng chuộng nói suông, mà chú trọng thực tế. Vì vậy, đối với thân và tâm đều chú trọng. Tu tâm nhằm khôi phục sự sáng suốt, đó là “nội công” (công phu bên trong). Hạnh nguyện mong được trọn khắp, đó là “ngoại công”. Hy sinh vợ con, tài sản, đầu, mắt, tủy, não, nhảy vào hầm lửa, vào địa ngục, đương nhiên là cứu thế, hộ quốc, tịnh hóa. Đó là biểu hiện của ngoại công. Vì mong trừ khử lòng ham muốn riêng tư, phù hợp lý trí, đoạn trừ gốc ác tham, sân, si, mạn, chẳng để cho “giết, trộm, dâm, dối” hiện hành; vì thế, ắt phải tu tập bằng niệm Phật, tham Thiền. Đó là sự tu dưỡng nội công. Trong chẳng đủ thì bên ngoài sẽ không có thực chất, bên ngoài không có thực chất thì dẫu có sự ấy cũng đều là biểu hiện rỗng tuếch, há có thể ích lợi cho đời, cho đất nước ư? Còn như khua khoắng, gõ đập, siêu độ người chết, cũng có chân và giả sai khác. Mắt Phật thấy tứ sanh lục đạo nhất loạt bình đẳng, đã cứu trời, người, há chẳng nên cứu vớt quỷ thần, súc sanh ư? Đấy là lòng từ bi phổ thí, chưa hề đáng nên chê trách! Nếu chẳng cầu tìm cái gốc, cứ chuyên nhờ vào đó để kiếm ăn thì sau đó sẽ biến thành thói tệ, trọn chẳng phải là Phật giáo chỉ làm chuyện đó! Há có nên dựa vào đó để công kích, tiên sinh chưa khỏi huênh hoang quá mức!
 
      * Hỏi: Hiện thời, tôi vẫn chưa tin tưởng bất cứ tôn giáo nào, vốn tính đọc mấy cuốn kinh của Phật giáo, nếu hợp ý cũng có thể tin theo Phật giáo, nhưng thấy [kinh điển nhà Phật] nếu không phải là những chữ hiếm dùng, lạ lùng, thì cũng là những ngôn ngữ khiến cho kẻ khác chẳng hiểu được! Có người chủ trương dùng ngôn ngữ hiện đại để dịch lại kinh Phật lần nữa, tôi nghĩ chuyện này đích xác là chuyện tất yếu! (Trầm Tử Lương hỏi)
 
      Đáp: Kinh Phật ngoài chú ngữ theo cổ lệ chẳng phiên dịch ra, trọn chẳng có chữ gì kỳ quái! Nếu nói không hiểu, há chẳng riêng mình kinh Phật, mà nguyên lý [hoạt động] của ốc anh vũ[21], chất liệu bom nguyên tử, lễ Đế Thường[22], nhạc Lữ Luật[23], tiên sinh có thể vừa nhìn liền thấu triệt hay chăng? Mỗi môn học đều có sự chuyên biệt riêng, ắt phải nghiên cứu mới thấu hiểu. Nói đến chuyện dịch lại, chưa biết chắc có được như dịch lần đầu hay chăng. Ngài La Thập dịch kinh ở gác Tây Minh, ngài Huyền Trang dịch kinh tại chùa Hoằng Phước, tuy là hai vị đại sư, sẵn trí thông minh thiên bẩm trác tuyệt, thật học, đức dầy, nhưng số lượng các bậc tài năng dị thường giúp đỡ phiên dịch thuở ấy, há phải chỉ có mấy ngàn hay mấy trăm người! Bất luận xét về mặt tinh vi nơi nghĩa lý hay văn tự, cũng đều chẳng phải là kẻ học vấn nông cạn mà hòng liếc thấy đường nẻo được! Hiện thời, cố nhiên có bậc thông thạo, già dặn Hán văn, nhưng vẫn là thiểu số. Nếu mê lầm nơi văn, làm sao có thể lãnh hội đạo? Tôi đã từng dùng câu kệ “vãng tích sở tạo chư ác nghiệp” để cật vấn người khác, mười người hết tám chín chẳng am hiểu pháp tắc! Một câu kệ còn như vậy, sẽ biết toàn thể Đại Tạng Kinh [như thế nào]. Tệ ý cho rằng ắt phải có người vượt trỗi hai vị La Thập, Huyền Trang rất xa thì mới san thuật lần nữa thành một bản khác chẳng trở ngại gì!
 
      * Hỏi: Cơ Đốc giáo và Phật giáo thường xuyên bút chiến hay thưa kiện, nhưng Cơ Đốc giáo thường làm rất nhiều chuyện từ thiện, về điểm này, sợ là Phật giáo lạc hậu mất rồi! Tôi nói lời thật, xin tiên sinh chớ nên hiểu lầm! (Trầm Tử Lương hỏi)
 
      Đáp: Bút chiến, thưa kiện, chỉ là Phật giáo phản ứng lại, trọn chẳng phải do chúng ta khởi xướng gây hấn, xin hãy xét kỹ ngọn nguồn! Nói đến sự nghiệp từ thiện, chỉ có thể luận định trong hiện tại, chỉ là hiện tượng khắc phục hoạn nạn trong một khoảng thời gian, tôi chẳng phủ nhận; nhưng trước kia thì không biết như thế nào, mà sau này cũng chẳng biết sẽ như thế nào!
 
      * Hỏi: Phẩm Phổ Môn chép Quan Thế Âm Bồ Tát có thể để “độ Phật thân”, vì sao Bồ Tát có thể độ Phật? (Giang Khoan Ngọc hỏi)
 
      Đáp: Nói “độ Phật thân” chẳng phải là nói độ vị đã thành Phật, mà là ứng với người nào đó đã phát đại đạo tâm, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật, giảng cho người ấy nghe pháp Nhất Thừa, khiến cho người ấy tiến thẳng đến Phật Thừa, đây là nghĩa thứ nhất. Nếu là thánh chúng từ Thập Địa trở lên, còn chưa đoạn vô minh, Quán Thế Âm liền hiện thân Phật, thuyết pháp cho họ, khiến họ ngộ chứng, mau thành Đẳng Giác. Đây lại là một nghĩa nữa!
 
    * Hỏi: Phật là người nương theo Phật pháp tu thành công, nhưng vị Phật đầu tiên là do đâu mà ra? (Ẩn danh hỏi)
 
      Đáp: Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt. Tâm mê là chúng sanh. Tâm giác là Phật. Có người nghe giáo nghĩa Phật pháp bèn khởi lên sự giác ngộ, loại này gọi là Thanh Văn. Có người thấy hoa rụng, lá rơi mà ngộ đạo, loại này được gọi là Độc Giác. Ông hỏi vị nào trước nhất, tức là nói trước khi có Phật pháp, đã có chuyện Độc Giác, tức là ngộ đạo cũng có trường hợp chẳng cậy vào thanh giáo[24]!
 
      * Hỏi: Có người nói thế gian thêm một người, tức là cõi Âm bớt đi một con quỷ, chứng tỏ thần thức như nhà Phật đã nói (người ta thường gọi thần thức là “linh hồn”) phải có số lượng nhất định, rốt cuộc là có bao nhiêu thần thức ? (Ẩn danh hỏi)
 
      Đáp: Thế gian tăng thêm một người, chưa chắc cõi Âm bớt đi một con quỷ! Bởi lẽ, từ năm đường đều có thể đầu thai làm người, chẳng giới hạn trong loài quỷ; vì thế, chẳng dám quả quyết quỷ đạo bớt đi một quỷ. Đây là [lời giải đáp cho câu hỏi] thứ nhất. Kinh Phật trọn chẳng nói thần thức có số lượng nhất định, đây là [lời giải đáp cho câu hỏi] thứ hai. Nếu hỏi có bao nhiêu thần thức, xin hãy xét những thứ có hình tướng, như tinh tú trên trời, bọt sóng trong biển, hai thứ ấy xét ra có bao nhiêu? Thứ không có hình tướng, như ý niệm trong tâm, ánh chớp trên không, hai thứ ấy xét ra có bao nhiêu? Hễ biết [những điều ấy], sẽ biết số lượng của thần thức! Đấy là [lời giải đáp cho câu hỏi] thứ ba.
 
      * Hỏi: Siêu độ tổ tiên, nhưng họ đã đọa quỷ đạo hay địa ngục, có thể mong nhờ Phật lực siêu bạt khiến họ thoát khổ, điều này còn dễ hiểu. Chứ nếu họ đã làm người, trở thành đồ tể, siêu độ cho họ có cảm ứng hay không? (Huệ Lâm hỏi)
 
      Đáp: Các nẻo luân hồi như quán trọ, thân hình dường xiêm y, tâm thức như chủ nhân, Phật pháp ví như quà tặng. Quà tặng biếu cho chủ nhân, chẳng tặng cho quán trọ và xiêm y. Hiểu rõ lý này, sẽ biết tâm thức ở trong bất cứ đường nào, siêu độ đều có thể đạt được lợi ích. Chỉ riêng đối với kẻ làm đồ tể, lại tạo họa ương mới, Phật pháp siêu độ là siêu độ những gì đã tạo, chứ những gì sắp tạo, sẽ chẳng thuộc vào lệ ấy. Sợ rằng nghiệp cũ tuy diệt, vẫn phải hứng chịu họa hại mới!
 
      * Hỏi: Tín đồ nhà Phật trì trai đang ở trong quân ngũ có thể phương tiện hay chăng? (Trang Khánh Hiền hỏi)
 
      Đáp: Một chữ Trai có rất nhiều cách giảng, nếu trước hết chẳng nói rõ, sợ người khác hiểu lầm. Từ trước tới nay, nhà Phật chuyên dạy về trai thời, còn thế tục cho rằng Trai là chuyên nói về ăn chay. Nay xét lời cư sĩ hỏi, đại khái cũng chuyên nói về ăn chay. Nếu như vậy, chỉ có thể dùng chuyện này để đáp. Nhập ngũ là sinh hoạt trong đoàn thể, hoàn toàn chẳng do mình làm chủ, có thể ăn rau bên cạnh thịt, giữ tâm thanh tịnh, đấy chính là phương tiện.
Phật Học Vấn Đáp Loại Biên
Phần 3 hết
 
      


[1] Ngô Thê (梧棲) là một trấn nằm ven biển, thuộc quyền quản hạt của thành phố Đài Trung. Vùng này nổi tiếng là một ngư cảng, có tên cổ là Trúc Phiệt Huyệt, hoặc Ngũ Xoa Cảng. Đến niên hiệu Đạo Quang được đổi tên thành Ngao Tây, đến đời Quang Tự mới đổi thành Ngô Thê như hiện tại, dựa theo ý một bài thơ cổ “phượng vi ngô bất thê, phi linh tuyền bất ẩm, phi trúc thật bất thực” (chim phượng hoàng nếu chẳng phải là cây ngô đồng sẽ không đậu, không phải suối thiêng sẽ chẳng uống, chẳng phải là trúc sẽ chẳng ăn).
[2] Theo Tuyên Nghiệm Ký, Ngư Sơn là một ngọn núi ở Sơn Đông. Đời Ngụy, vào năm Thái Hòa thứ tư (230), Trần Tư Vương Tào Thực (con thứ của Tào Tháo) lên chơi Ngư Sơn, chợt nghe tiếng tụng kinh, tán xướng trầm hùng, thanh nhã, lay động lòng người, vang vọng khắp cả núi. Do tinh thông âm luật, Tào Thực bèn phỏng theo âm thanh ấy để chế ra thể loại tán tụng trong nhà Phật, gọi là Phạm Bái, thường gọi là Ngư Sơn Phạm Bái. Ngư Sơn còn gọi là Ngô Sơn, cách huyện thành Đông A tỉnh Sơn Đông tám dặm. Phạm là gọi tắt của Phạm Lãm Ma (Brahma) có nghĩa là Thanh Tịnh, Bái (Bhāshā) có nghĩa là uyển chuyển, hòa điệu. Bái còn được dịch là Chỉ Đoạn hay Chỉ Tức (đều hàm nghĩa ngưng dứt tạp niệm), Tán Thán. Sau này, còn có nhiều loại Phạm Bái khác như Liên Cú Phạm Bái (do cư sĩ Chi Khiêm sáng chế, dựa trên nội dung của kinh Vô Lượng Thọ và Trung Bổn Khởi Kinh), Nê Hoàn Phạm Bái (do ngài Khang Tăng Hội sáng chế, lời tán dựa theo kinh Nê Hoàn nên mới có tên này), Cao Thanh Phạm Bái (do ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La truyền từ Tây Vực vào Trung Quốc dưới thời Tây Tấn, âm điệu hùng hồn, cao vút), Lục Ngôn Phạm Bái (do Chi Đàm Dược xứ Nhục Chi sáng chế dưới thời Đông Tấn, được ca ngợi là lối Phạm Bái hay khéo, vượt xa các thể loại Phạm Bái trước đó) v.v... Các loại này đều đã thất truyền.
[3] Hoa Nghiêm Tự Mẫu chính là bốn mươi hai chữ cái trong văn tự Siddham (Tất Đàm Phạn văn) của cổ Ấn Độ. Trong kinh Hoa Nghiêm, vị thiện tri thức thứ bốn mươi bốn là Chúng Nghệ Đồng Tử đã dạy Thiện Tài đồng tử ý nghĩa chân thật của bốn mươi hai mẫu tự này, cũng như cho biết: Do Ngài học tập bốn mươi hai chữ cái ấy mà đắc pháp môn Tự Trí trong Bồ Tát Hạnh, nên chư cổ đức mới gọi những chữ ấy là Hoa Nghiêm Tự Mẫu. Phật môn Trung Hoa có riêng một nghi thức xướng tụng Hoa Nghiêm Tự Mẫu, chia thành ba phần Đơn Âm Tự Mẫu, Song Âm Tự Mẫu, và Tam Âm Tự Mẫu, mỗi bộ phận có tiết điệu riêng rất phức tạp. Chẳng hạn chữ đầu tiên là A sẽ tán xướng bằng bài: “Hoa Nghiêm tự mẫu, Chúng Nghệ thân tuyên, Thiện Tài đồng tử đắc chân truyền, bí mật nghĩa u huyền, công đức vô biên, xướng tụng lợi nhân thiên. A, ương, anh, ông, ô, ao, ai, y, in, an, âu, a. Xướng A tự thời, phổ nguyện pháp giới chúng sanh, nhập Bát Nhã Ba La Mật môn”. Thông thường, tại Việt Nam, những âm trong Hoa Nghiêm Tự Mẫu trừ chữ đầu tiên, đều đọc theo âm Quảng Đông (không rõ vì lý do nào).
[4] Ở đây, cụ Lý nói “sáu châu” là ngoài năm châu Âu, Á, Phi, Mỹ, Úc, còn tính thêm châu Nam Cực (Antarctica).
[5] Hạ Nguyên (thường bị đọc trại thành Hạ Nguơn, và thường bị viết sai thành Hạ Ngươn) là một từ ngữ phát xuất từ bói toán. Theo các nhà bói toán Dịch số, sáu mươi năm gọi là một Giáp Tý (do phối hợp mười Thiên Can với mười hai Địa Chi để đặt tên mỗi năm, nên hết sáu mươi năm mới lại có năm cùng Can, cùng Chi. Do Thiên Can và Địa Chi phối hợp nhau khởi đầu bằng năm Giáp Tý, nên một chu kỳ cũng gọi là một Giáp Tý). Họ lại phối hợp Can Chi với Bát Quái Cửu Cung, lập thành một chu kỳ gồm một trăm tám mươi năm. Giáp Tý thứ ba gọi là Hạ Nguyên. Do Hạ Nguyên tương ứng với sự kết thúc của một chu kỳ, các tà giáo Trung Hoa thường gán cho Hạ Nguyên những ý nghĩa như thời kỳ suy vong, thiên hạ đại loạn, thiên đình mở cuộc khảo hạch tuyển chọn những người biết tu được phép sống sót qua thời Hạ Nguyên, còn những kẻ không biết tu sẽ bị trầm luân, chết sạch. Các tà giáo thấy kinh Phật nói đến Di Lặc Phật ra đời thuyết pháp dưới cội Long Hoa, bèn bịa ra thời Hạ Nguyên là hội Long Hoa chuyển thế, Di Lặc Phật ra đời chưởng quản thiên bàn, pháp của Phật Thích Ca đã tận diệt, Di Lặc Phật chuyển pháp luân mới v.v... Điều được nói đến trong lời hỏi ở đây là tà giáo bịa ra chuyện Di Lặc Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật cùng tu trên thiên đình, Phật Thích Ca là em, nóng lòng muốn xuống cứu đời, tuy chưa đắc đạo trọn vẹn. Không khuyên bảo được, Phật Di Lặc bèn bảo hãy cùng nhau ngồi Thiền, cắm hai cây thiền trượng trước mặt, gậy của ai nở hoa sen trước sẽ xuống thế trước. Phật Thích Ca lén hé mắt, thấy gậy của mình chẳng thay đổi gì, gậy của Phật Di Lặc đã nở hoa sen bèn lén tráo chỗ hai cây thiền trượng. Phật Di Lặc mới nói: Do em nóng ruột nên lúc xuống trần, thế sự nhiễu nhương, chỉ có thể chưởng quản trần gian ba ngàn năm, sau đó ta sẽ thay em chưởng quản hai vạn năm v.v... Điều lạ lùng là tà thuyết này được khá nhiều sơn môn miền Bắc Việt Nam tin theo. Trước năm 1975, chúng tôi có thấy bản ngụy kinh ấy được phương trượng một ngôi chùa lớn ở Hốc Môn in ra rất nhiều, biếu tặng khắp nơi, và  nghe nói còn dùng bản ngụy kinh ấy để tụng niệm thường xuyên trong chùa!
[6] Trương Lăng (34-156), tự là Phụ Hán, sáng lập Ngũ Đấu Mễ Đạo (tiền thân của Đạo Giáo), quê ở Phong Huyện, tỉnh Giang Tô, tự xưng là hậu duệ của Trương Lương. Họ Trương sanh vào thời Hán Vũ Đế, tương truyền từ thuở bé đã tinh thông Đạo Đức Kinh, từng được vào học trong nhà Thái Học, từng làm quận lệnh Ba Quận dưới thời Hán Minh Đế. Về sau, vào ẩn cư trong núi Bắc Mang nhằm cầu đạo trường sinh, từng được triều đình vời ra làm quan Bác Sĩ, nhưng cáo bệnh từ chối. Dưới thời Hán Thuận Đế, Trương Lăng tự xưng được Thái Thượng Lão Quân truyền thọ tam thiên chánh pháp, thiên đình sắc phong Trương Lăng làm Thiên Sư, sáng lập Ngũ Đấu Mễ Đạo (muốn nhập đạo phải đóng năm đấu gạo) tại núi Hạc Minh, tự xưng hiệu là Tam Thiên Pháp Sư Chánh Nhất Chân Nhân, viết hai mươi bốn bộ kinh Đạo Giáo. Đạo của Trương Lăng về sau được gọi là Thiên Sư Đạo, sở trường về phù chú (vẽ bùa, tụng chú, bắt quyết), nên còn gọi là Phù Lục Phái. Cho đến nay, con cháu Trương Lăng vẫn kế tục làm tổ sư đạo Thiên Sư. Năm 1949, thiên sư đời thứ sáu mươi ba là Trương Ân Phổ chạy sang Đài Loan, sau khi Trương Ân Phổ mất, cháu là Trương Nguyên Tiên kế ngôi làm thiên sư đời thứ sáu mươi bốn.
[7] Hoàng Cân là một đám giặc thường được các sử gia Hoa Lục tô vẽ là “nông dân khởi nghĩa” nổi loạn vào năm 184 dưới thời Hán Linh Đế do Trương Giác cầm đầu. Lợi dụng sự thối nát của triều đình do bè lũ Thập Thường Thị (mười hoạn quan) lũng đoạn triều chánh, Trương Giác đã lợi dụng danh nghĩa Đạo Giáo để chiêu mộ tín đồ, tạo lực lượng dấy loạn, rêu rao trời sai hắn xuống cứu dân. Trương Giác tuyên bố đã được Hoàng Lão trao thiên thư Thái Bình Yếu Thuật (còn gọi là Thái Bình Kinh, thật ra Thái Bình Kinh do Vu Cát sáng tác mấy chục năm trước đó và đã dâng lên Hán Thuận Đế), tự xưng là Đại Hiền Lương Sư, tổ chức các tín đồ thành các Phương, mỗi Phương là một vạn người, dùng phương thức bùa chú chữa bệnh để dụ dỗ tín đồ. Quân phản loạn đầu bịt khăn vàng, nên gọi là Hoàng Cân. Cuộc nổi loạn kéo dài đến năm 185 mới bị dẹp yên, nhưng dư đảng tại núi Thái Hàng lại nổi dậy, mãi cho đến năm 192, Tào Tháo mới hoàn toàn dẹp tan dư đảng Hoàng Cân.
[8] Hàn Sơn Đồng (?-1351) là lãnh tụ Bạch Liên Giáo cuối đời Nguyên, quê ở Loan Thành, Triệu Châu, vừa làm nghề nông, vừa truyền bá Bạch Liên Giáo, tuyên truyền Di Lặc Phật Giáng Sanh, tự xưng Minh Vương Xuất Thế, chủ trương lật đổ nhà Nguyên. Năm Chí Chánh 11 (1351) đời Nguyên Thuận Đế, triều đình huy động mười lăm vạn dân công đắp đê Hoàng Hà, tiếng oán than vang đội. Hàn Sơn Đồng và bè đảng là Lưu Phước Thông cho là thời cơ đã tới, bèn cho đồn đại câu sấm “thạch nhân nhất chỉ nhãn, khiêu động Hoàng Hà thiên hạ phản” (người đá chỉ một mắt, dấy động sông Hoàng, thiên hạ làm phản), ngầm cho người chôn tượng đá một mắt, trên lưng có khắc câu sấm ấy. Khi tượng đá được phát hiện, lòng người rúng động, Hàn và Lưu bèn khởi binh tại Dĩnh Thượng thuộc Dĩnh Châu. Các thuộc hạ như Thịnh Văn Úc, La Văn Tố v.v... suy tôn họ Hàn là cháu tám đời của Tống Huy Tông, giết ngựa trắng, trâu đen lấy máu ăn thề, nghĩa quân đầu buộc khăn đỏ (nên còn gọi là loạn Hồng Cân) để làm hiệu. Khởi nghĩa vừa nổ ra, Hàn Sơn Đồng đã bị huyện lệnh bắt được, giết chết, nghĩa quân bèn tôn con ông ta là Hàn Lâm Nhi lên làm lãnh tụ, tự xưng là Tiểu Minh Vương, trở thành giáo chủ Bạch Liên Giáo. Châu Nguyên Chương cũng dựa vào thế lực của Hàn Lâm Nhi để giành thắng lợi trong cuộc kháng Nguyên.
[9] Tống Nhân Tông (1010-1063) tên thật là Triệu Trinh, là hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống, là con thứ sáu của Tống Chân Tông, do Lý Thần Phi sanh hạ vào năm Đại Trung Tường Phù thứ ba (1010), đến năm Đại Trung Tường Phù thứ tám (1015) được phong làm Thọ Xuân Quận Vương, được Tống Chân Tông lập làm Hoàng Thái Tử ba năm sau đó, và truyền đổi tên từ Thọ Ích thành Trinh. Ông lên ngôi hoàng đế năm mười ba tuổi, do Lưu Thái Hậu làm Nhiếp Chánh mãi cho đến khi nhà vua được hai mươi bốn tuổi thì Thái Hậu mất. Tuy được coi là “minh quân”, trọng dụng những bầy tôi giỏi như Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ, Bao Chửng, Lã Di Giản, Văn Ngạn Bác, Dương Văn Quảng, Lỗ Tông Đạo... Tuy sử sách Trung Hoa thường tô vẽ nhà Tống cường thịnh dưới thời Tống Nhân Tông, nhưng nhà Tống hằng năm phải cống nạp cho Tây Hạ (tuy được sử gia Trung Hoa nói tránh đi là “ban thưởng”), những khoản “ban thưởng” này khiến cho triều đình phải liên tục tăng thuế. Do cố gắng giữ hòa bình với Tây Hạ, Liêu, và các rợ Địch khác bằng cách mua chuộc, cống nạp, quốc gia dưới thời nhà Tống bị suy yếu nhanh chóng. Tuy sử sách tô vẽ nhà Tống có nhiều vị đại tướng lỗi lạc, dụng binh như thần, như Địch Thanh, Dư Tĩnh, nhưng trên thực tế, Nùng Trí Cao chỉ là một tù trưởng nhỏ, chiếm giữ vài châu của Việt Nam, lập ra Đại Lý Quốc, nhưng đã liên tục quấy phá biên cảnh nhà Tống, nhưng bọn Địch Thanh không làm gì được, phải gởi thư yêu cầu nhà Lý Việt Nam góp sức bình định.
[10] Đây là hai câu trích từ bài Đào Yêu trong thiên Châu Nam của Kinh Thi, có nội dung chúc tụng người con gái được gả về nhà chồng. Nguyên văn như sau: “Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia. Đào chi yêu yêu, hữu phần kỳ thực, chi tử vu quy, nghi kỳ gia thất. Đào chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn, chi tử vu quy, nghi kỳ gia nhân” (Theo các nhà chú giải, bài này có nghĩa là: “Cây đào mơn mởn, hoa nở chi chít, ngươi về nhà chồng, nên cửa, nên nhà. Cây đào mơn mởn, trái đơm đầy cành, ngươi về nhà chồng, đông con, lắm cháu. Cây đào mơn mởn, lá nẩy sum xuê, ngươi về nhà chồng, gia tộc hưng thịnh”). Sách Tả Truyện chú giải: “Yêu yêu là dáng vẻ trẻ trung, tươi tốt. Chước chước là hoa nở đầy khắp. Chi tử là người này, chỉ cô dâu mới. Vu quy là xuất giá. Gia thất chỉ gia đình. Nữ có chồng, nam có vợ. Chữ gia thất chỉ vợ chồng. Thất có nghĩa là vợ chồng chung sống, Gia là ở trong cùng một nhà”.
[11] Tôn giả Tất Lăng Già Bà Tha (Pilinda-vatsa), dịch nghĩa là Dư Tập. Do Ngài đã năm trăm đời làm Bà La Môn nên còn tập khí kiêu mạn rất lớn. Ngài thấy có người đi khất thực phải vượt sông Hằng khổ sở, bèn quát nữ thần sông Hằng: “Tiểu tỳ ! Ngưng chảy đi!” Nước sông liền tách làm hai cho người ấy đi qua. Nữ thần tức tối đến mách với Phật. Phật bảo ngài Tất Lăng Già Bà Tha hãy sám hối với nữ thần, Ngài nói: “Tiểu tỳ! Ta sám hối tạ lỗi với ngươi”. Mọi người hiện diện đều cười: “Đã sám hối tạ lỗi mà còn chửi người ta!” Nhân đó, Phật mới cho biết do ngài Tất Lăng năm trăm đời làm Bà La Môn nên tập khí kiêu mạn rất nhiều, thường gọi phụ nữ là “tiểu tỳ” (con hầu nhỏ nhoi) là do thói quen, chứ tâm Ngài không có ý nhục mạ. Trong phần hai mươi lăm pháp Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Ngài đã thuật phép quán thân (Thân Căn Viên Thông). Do vừa đi khất thực vừa tư duy những lời giảng của đức Phật về sự thống khổ trong thế gian, bất ngờ đạp phải gai độc, bị thương, đau đớn. Ngài quán sát tánh nhận biết sự đau đớn ấy chính là giác tâm thanh tịnh, cái biết bị đau chẳng phải là cái bị đau. Như vậy lẽ nào một thân lại có hai tánh biết? Do quán như vậy, thân tâm không tịch, tiêu hết lậu tập, thành A La Hán.
[12] Xi Vưu (蚩尤) là thủ lãnh của vương quốc Cửu Lê (thuộc bộ tộc Tam Miêu). Nguyên nhân của cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu được sử sách ghi không thống nhất. Có thuyết nói Xi Vưu làm loạn sau khi Hoàng Đế chiến thắng Viêm Đế (Thần Nông), có thuyết nói Xi Vưu đánh bại, chiếm đất của Viêm Đế, nên Viêm Đế phải cầu cứu Hoàng Đế liên minh chống lại Xi Vưu. Thực ra, đây là cuộc tranh giành lãnh thổ giữa người Hán và dân Tam Miêu đã sống tại Trung Nguyên trước đó. Tương truyền, Xi Vưu biết cách hóa ra mây mù khiến cho quân Hoàng Đế thất điên bát đảo, cuối cùng Hoàng Đế chế ra xe chỉ nam để định hướng, đánh bại Xi Vưu tại cánh đồng Trác Lộc. Bộ tộc Cửu Lê sau đó bị phân tán, đất đai bị người Hoa chiếm giữ, phải tản lạc lên núi cao thuộc vùng Quý Châu, Tương Tây, Ngạc Tây (tức là Miêu Tộc (người H’mong sau này), người Khương, một số lưu lạc sang vùng bán đảo Triều Tiên, trở thành một bộ phận chính trong hai vương quốc cổ Phù Dư (Buyeo) và Cao Cú Ly (Koguryo) tại Triều Tiên. Do lẽ đó, người Đại Hàn vẫn coi Xi Vưu như quốc tổ của họ. Một bộ phận người Cửu Lê bị Hán hóa trở thành người Hán, các sử gia thường coi những người có họ Trâu, Đồ, Lê, Xi v.v... là hậu duệ của bộ tộc Xi Vưu. Khởi đầu từ Tần Thủy Hoàng tôn xưng Xi Vưu là Chiến Thần, các đế vương Trung Hoa sau đấy cũng sùng bái Xi Vưu như vị thần bảo hộ chiến tranh, trước khi xuất quân cũng thường cúng tế Xi Vưu để cầu gia hộ.
[13] Giá: Ngăn cấm, khai: Cho phép. Chẳng hạn Ngũ Giới cấm uống rượu nhằm khỏi bị loạn tánh, phá hoại các giới khác, đó là Giá. Nhưng nếu người ấy bị bệnh phải dùng rượu làm chất dẫn thuốc, hay phải ăn những thứ tẩm ướp, chưng nấu bằng rượu v.v... thì có thể ăn, nhưng khi hết bệnh không được dùng nữa. Đó là Khai.
[14] A Bàng là loài quỷ trong địa ngục, thuộc hạ của Diêm Vương. Sách Pháp Uyển Châu Lâm, quyển tám mươi tư giảng: “Ngục tốt trong địa ngục gọi là A Bàng”. Ngũ Khổ Chương Cú Kinh nói A Bàng đầu trâu, tay người, có sức mạnh lật núi, cầm chĩa ba cứng rắn.
[15] Loại này thường được gọi là Biên Khánh, thường làm bằng đá hay bằng đồng, giống như hình chữ V, thường treo trên giá, san sát nhau, gõ bằng dùi bọc nỉ. Đây là một nhạc khí quan trọng trong dàn nhã nhạc cổ Trung Hoa ngày xưa, mỗi cái khánh như vậy tương ứng với một note nhạc. Thông thường, ít khi tấu Biên Khánh nếu không dùng kèm Biên Chung (tức là một dàn chuông treo, mỗi quả chuông có một âm tiết khác nhau). Một dàn Biên Khánh hay Biên Chung như vậy, tối thiểu phải gồm mười sáu cái trở lên. Đôi khi, như bộ Biên Chung tìm được trong mộ Tăng Hầu Ất có đến sáu mươi lăm quả. Nếu các miếng Khánh không bẻ thành hình chữ V, mà để thẳng thì lại gọi là Phương Hưởng, nhưng công dụng chẳng khác gì Biên Khánh. Ở Trung Hoa hiện thời ít thấy sử dụng Biên Chung và Biên Khánh (ngoại trừ Khổng Miếu hay Cố Cung), nhưng trong các dàn nhã nhạc của Nhật Bản và Đại Hàn, Biên Chung, Biên Khánh và Phương Hưởng vẫn còn được sử dụng thường xuyên.
[16] Trung Châu là hai châu phụ thuộc vào mỗi đại châu. Luận Câu Xá, quyển mười một chép: “Bên cạnh mỗi châu trong tứ đại châu có hai trung châu phụ thuộc. Thiệm Bộ Châu có hai trung châu: Một là Giá Mạt La Châu, hai là Phiệt La Giá Mạt La Châu”.
[17] Chín núi là chín rặng núi bao quanh núi Tu Di tính từ trong ra, giữa mỗi núi là một biển nước mặn có mùi thơm (hương hàm hải thủy), nên mới có tám biển. Tính từ trong ra, chín rặng núi là Tu Di (Sumeru), Do Càn Đà (Yugandhara), Y Sa Đà (Isadhara), Kha La Trí (Khadiraka), Tu Đằng Sa (Sudarsana), A Sa Càn Na (Asvakarna), Tỳ Na Đa (Vinadhara), Ni Dân Đà La (Nimindhara) và Thiết Vy (Cakravada).
[18] Cửu Thiên Huyền Nữ vốn là một vị thần cổ đại của Trung Quốc, về sau được Đạo Giáo tông xưng là nữ tiên, thánh mẫu v.v... Cách giải thích thân phận vị thần này cũng không rõ ràng, có sách nói bà là con gái của Ngọc Đế, có thuyết nói bà chính là Tây Vương Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu). Cửu Thiên Huyền Nữ chủ trì chiến tranh, theo truyền thuyết, bà đã từng nhận ấn kiếm của Hoàng Đế để chinh phạt Xi Vưu. Đạo Giáo cho rằng Bành Tổ và Lão Đam (Lão Tử) đều là học trò của bà, thậm chí họ còn đặt chuyện nói Hoàng Đế luận đạo dưỡng sinh với Tố Nữ và Huyền Nữ.
Thái Tử Gia chính là Na Tra. Na Tra (Nalakuvara) là con trai của Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương, vốn là một vị thần hộ pháp trong Phật giáo, đã bị người Hán bịa chuyện là con trai thứ ba của Thác Tháp Thiên Vương Lý Tĩnh (thường bị đọc trại thành Lý Tịnh). Theo đó, Lý Tĩnh còn có hai người con trai nữa là Kim Tra và Mộc Tra. Các đền thờ, miếu mạo Đạo Giáo thường gọi Na Tra là Tam Thái Tử.
[19] Tam Đại là Hạ, Thương, Châu, lịch pháp mỗi đời mỗi khác. Chẳng hạn nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng Giêng, nhà Thương lấy tháng Sửu làm tháng Giêng, còn nhà Châu lấy tháng Tý (tháng Mười Một Âm lịch hiện thời)  làm tháng Giêng.
[20] Pháp sư Thích Từ Hàng (1893-1954), tục danh Ngải Kế Vinh, tự Ngạn Tài, quê ở Kiến Ninh, tỉnh Phước Kiến. Ngài sinh trong gia đình thư hương, mẹ mất khi Ngài lên mười. Do nhà nghèo, chỉ được đi học bảy năm tại trường tư. Đến năm mười ba tuổi bắt đầu học may để kiếm sống. Do thường đến chùa miếu may tăng phục cho tăng chúng, Ngài mang ý niệm xuất gia. Năm mười bảy tuổi, cha mất, bèn đến ngọn Nga My ở Thái Ninh xin xuống tóc với Tự Trung thượng nhân. Năm 1911, sau khi được Tự Trung thượng nhân gởi Ngài sang thọ Cụ Túc Giới tại chùa Năng Nhân ở Cửu Giang, Sư bắt đầu tham học khắp một giải Giang Tây, Nam Kinh. Ngài từng học Thiên Thai với ngài Đế Nhàn, học Tịnh Tông với trưởng lão Độ Ách. Năm 1927, vào học tại Mân Nam Phật Học Viện ở Hạ Môn, do trình độ văn học quá kém, từng bị Giáo Vụ Xứ là pháp sư Đại Tỉnh quở trách nặng nề. Năm 1929, đến chùa Tỳ Lô tại Nam Kinh để theo học lớp huấn luyện Tăng Già do Thái Hư đại sư tổ chức. Khi ấy, Thái Hư đại sư đang du lịch Tây Âu, nên khóa học ấy do cư sĩ Đường Đại Viên chủ trì. Vì thế, ngài Từ Hàng có nhân duyên học hỏi Duy Thức từ đó. Cùng năm ấy, Ngài dốc sức học hàm thụ bộ Duy Thức Giảng Nghĩa do Đường Đại Viên và pháp sư Pháp Phảng chủ giảng. Năm 1930, Ngài theo Thái Hư đại sư hoằng pháp tại Hương Cảng, quyết tâm thân cận Thái Hư đại sư. Năm 1931, sau khi sang Ngưỡng Quang (Miến Điện) chiêm bái và hoằng pháp, Ngài sáng lập Trung Quốc Phật Giáo Hội tại Ngưỡng Quang. Năm 1935, trở về hoằng pháp tại Hương Cảng và Quảng Đông, phụ giúp Thái Hư đại sư giảng diễn. Năm 1942, Ngài bắt đầu bế quan đọc Đại Tạng Kinh suốt ba năm tại Linh Phong Bồ Đề Học Viện tại Tân Gia Ba, sáng lập tờ nguyệt san Nhân Gian Phật Giáo. Năm 1948, nhận lời mời của lão hòa thượng Diệu Quả chùa Viên Quang ở Trung Lịch (Đài Loan) sang Đài Loan chủ trì Đài Loan Phật Học Viện, thâu nhận những tăng nhân trốn khỏi Hoa Lục chạy sang Đài Loan. Về sau, do tăng sĩ tỵ nạn tới chùa Viên Quang quá đông, lại bất đồng ý kiến với ngài Diệu Quả, sau khi giao học viện lại cho pháp sư Viên Minh lo liệu, Ngài dẫn mấy chục vị học Tăng tới chùa Linh Tuyền tại núi Nguyệt My ở Cơ Long tham gia Linh Tuyền Phật Học Viện. Sau đấy, Ngài sáng lập Sư Sơn Phật Học Viện tại núi Sư Đầu, nhưng không lâu sau, học viện ngưng hoạt động. Năm 1949, Ngài bị vu cáo là gián điệp Hoa Lục nằm vùng nên bị chính quyền Đài Loan tống giam, pháp sư Đại Tỉnh mặc kệ không cứu, may được các cư sĩ Đổng Chánh Chi, Tôn Trương Thanh Dương, Lý Tử Khoan và pháp sư Bân Tông cùng lo liệu mới được thả. Tín đồ Nam Dương gởi thư thỉnh Ngài quay về Nam Dương, nhưng pháp sư quyết tâm lo cho các học tăng Đài Loan nên không chấp thuận. Năm 1950, Ngài nhận lời thỉnh của tỳ-kheo-ni Huyền Quang đến Tĩnh Tu Thiền Tự giảng pháp, trù tính lập Phật học viện Di Lặc Nội Viện, thành lập Di Lặc Nội Viện Hộ Pháp Hội. Năm 1952, cư sĩ Lý Tử Khoan và pháp sư Đại Tỉnh sáng lập Đài Loan Phật Giáo Giảng Tập Hội tại chùa Linh Ẩn ở Tân Trúc, nhưng pháp sư Đại Tỉnh bị sung huyết não qua đời, ông Lý phải sang Hương Cảng mời pháp sư Diễn Bồi sang Đài Loan chủ trì. Khi ấy, ngài Ấn Thuận và các đệ tử theo sang Đài Loan, tham gia hội nghị Phật giáo thế giới tại Nhật Bản, rồi trụ tại chùa Thiện Đạo, Đài Bắc. Do tranh chấp hệ phái và tư tưởng, tại Đài Loan dấy lên cuộc vận động tẩy chay ngài Ấn Thuận. Lúc ấy, pháp sư Từ Hàng đang bế quan tại Di Lặc Nội Viện, các nhân sĩ không ngừng gõ cửa quan phòng yêu cầu Ngài xuất đầu lộ diện phê phán tác phẩm Tịnh Độ Tân Luận của ngài Ấn Thuận, may nhờ có ngài Diễn Bồi vận dụng những trước tác về Trung Quán của pháp sư Ấn Thuận để chứng minh ngài Ấn Thuận không xuyên tạc Đại Thừa, chuyện này mới được dẹp yên. Nhờ đó, pháp sư Từ Hàng khỏi phải dính vào cuộc tranh luận này. Sau khi mất, do nhục thân năm năm vẫn không hư hại, ngài Từ Hàng được tôn xưng là Nhục Thân Bồ Tát đầu tiên ở Đài Loan.
[21] Ốc anh vũ (Nautilus) là tên gọi chung của nhiều loại ốc thuộc họ Nautilidae. Loại ốc này có đặc điểm là có nhiều xúc tu quanh đầu, vỏ ốc giống như một cái ống cuộn tròn, mỏng, nhưng chịu đựng được sức ép rất tốt. Bên trong vỏ chia thành nhiều ngăn, có một sợi tơ xuyên qua lỗ thủng giữa vách ngăn mỗi khoang nối đến khoang cuối cùng ở trung tâm vỏ ốc. Một con ốc trưởng thành có đến ba mươi khoang, mỗi khi ốc lớn thêm lên, sẽ phát triển thêm một khoang mới, và chất vôi sẽ hàn kín ngăn cũ, chừa một lỗ nhỏ để sợi tơ [như đã nói trong phần trên] xuyên qua. Người ta vẫn chưa hiểu vì sao ốc lại phát triển như vậy.
[22] Theo Châu Lễ, lễ tế vào mùa Hạ gọi là Đế (), tế vào mùa Thu gọi là Thường (). Cổ nhân thường ghép hai chữ này để chỉ lễ tế tổ hằng năm của thiên tử và chư hầu. Theo cổ lễ, có rất nhiều quy định nghiêm ngặt, chư hầu không thể tiếm dụng nghi thức tế tổ tiên của thiên tử.
[23] Lữ Luật hay Luật Lữ là một quy định về âm luật trong cổ nhạc truyền thống của Trung Hoa. Theo đó, nhạc được chia thành mười hai âm cơ bản (dựa trên cao độ và trường độ), sáu âm thuộc về Dương gọi là Luật, sáu âm thuộc về Âm gọi là Lữ. Mười hai âm ấy có tên gọi là Hoàng Chung, Đại Lữ, Thái Thốc, Giáp Chung, Cô Tẩy, Trọng Lữ, Nhuy Tân, Lâm Chung, Di Tắc, Nam Lữ, Vô Xạ, Ứng Chung. Nói dễ hiểu hơn thì Hoàng Chung tương ứng với note Do, Lâm Chung tương ứng với note Sol v.v... Theo Lã Thị Xuân Thu, Hoàng Đế đã ra lệnh cho Linh Luân chế ra “thập nhị luật lữ”. Linh Luân đi đến xứ Đại Hà ở phía Tây núi Côn Luân, chọn loại trúc có các đốt dài bằng nhau, chặt làm mười hai đoạn, mỗi đoạn dài ba tấc chín phân, rồi mô phỏng theo sáu lần đối đáp giữa chim phượng hoàng trống và mái để chế ra mười hai cây sáo trúc. Âm thanh mô phỏng tiếng chim trống gọi là Lục Dương Luật, âm mô phỏng tiếng chim phượng mái gọi là Lục Âm Lữ.
[24] Thanh giáo: Đức Phật dùng âm thanh để thuyết pháp, nên giáo pháp của Phật gọi là “thanh giáo”. Chẳng cậy vào thanh giáo tức là chẳng do nghe Phật thuyết pháp mà tự khai ngộ. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.30/7/2014.

No comments:

Post a Comment