THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH.
Bấy giờ, trưởng lão Tu-bồ-đề, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên mặt, đầu gối bên mặt quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:Hiếm có thay Ðức Thế-tôn! Ðức Như-lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát.Bạch Ðức Thế-tôn! Người thiện nam, người thiện nữ, phát tâm a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nên làm sao trụ, làm sao hàng phục được tâm?Ðức Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Tu-bồ- đề! Ðúng như lời con nói, Như-lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Nay con hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì con mà nói. Người thiện nam, người thiện nữ, phát tâm a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nên an trụ như thế này, nên hàng phục tâm mình như thế này.""Dạ! Bạch Thế-tôn! Con nguyện vui lòng lắng nghe."
Lược giải:
Bấy giờ, trưởng lão Tu-bồ-đề, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên mặt, đầu gối bên mặt quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
Sau khi Ðức Phật thâu y bát, rửa chân, ngồi lên tòa, thì có một vị trưởng lão đứng lên thưa hỏi.
"Trưởng lão": Danh xưng trưởng lão có thể, một là chỉ các trưởng lão cao niên và nhiều tuổi hạ, hai là trưởng lão về pháp tánh, ba là trưởng lão về phước đức. Danh xưng trưởng lão là do mọi người cung kính mà xưng hô với mình, chớ không phải do mình muốn làm trưởng lão, hay tự phong cho mình mà được. Cũng không thể do mình tranh đoạt mà có.
Nếu tuổi lớn, cộng thêm với nhiều tuổi hạ, tức là thọ giới đã lâu, thì gọi là trưởng lão. Nếu chỉ lớn tuổi mà tuổi hạ ít thì không được kể trong số này. Ðại để như trường hợp của Tôn-giả Ma-ha Ca-diếp, ông là người lớn tuổi nhất, thời gian thọ giới cũng lâu nhất, nên gọi là trưởng lão. Trưởng lão về tuổi hạ và nhiều năm hạ cũng chia thành thứ bậc. Như thọ giới muời năm thì kêu là hạ tọa, hai mươi năm gọi là trung tọa, ba mươi năm gọi là thượng tọa.
Trưởng lão về pháp tánh thì không cần có niên cao hay tuổi hạ nhiều. Vị này có thể ít tuổi nhưng trí huệ thâm sâu, có khả năng giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, hiểu rõ Phật-pháp, thông đạt diệu nghĩa cũng như có biện tài vô ngại.
Trưởng lão về phước đức thì có phước báo và cũng là người đủ đức hạnh.
Pháp tánh trưởng lão thì không kể về tuổi tác. Như Ngài Xá-lợi-phất mới có tám tuổi mà đã thành trưởng lão. Vì lý do gì vậy? Số là khi lên tám tuổi, Tôn-giả đã lên tòa thuyết pháp, khuất phục hàng loạt các luận sư, khiến họ líu lưỡi, ấp úng không còn tranh cãi được điều gì, đành phải gieo cả năm vóc xuống đất, cam tâm dập đầu trước cậu bé lên tám, mà tuyên bố thua cuộc. Có như thế, Ngài Xá-lợi-phất mới được tôn là một pháp tánh trưởng lão ngay khi mới lên tám. Sanh ra mới được bảy ngày, Ngài Xá-lợi-phất đã thông đạt hết các kinh tạng. Chúng ta hãy tưởng tượng chỉ có bảy ngày mà học cùng khắp cả Phật-pháp, thì thử hỏi ngài đã đủ tư cách làm một vị trưởng lão chưa? Thật là siêu việt có thừa, bởi vậy trong các?ệ tử Thanh-văn của Phật, Ngài là bậc biện tài vô ngại, trí huệ hàng đầu.
Biện tài có bốn loại, gọi là Tứ-vô-ngại biện:
Thứ nhất là vô ngại biện về lời, tức ngôn từ. Bất cứ ai có vấn đề gì, ngài đều biện giải được một cách trôi chảy. Lời lẽ mà ngài xử dụng nghe rất hay, vừa tinh luyện lại vừa chỉnh, dùng rất đúng chỗ. Ðối phương muốn đưa lý lẽ tới đâu, cũng không sao thắng nổi.
Thứ hai là vô ngại biện về nghĩa. Không riêng ngôn từ mỹ lệ, nghĩa lý ngài đưa ra hết sức thông suốt.
Thứ ba là vô ngại biện về pháp. Lời ngài nói ra, chỗ nào cũng là đạo, nơi nào cũng qui về cùng một nguồn gốc, tất cả đều là Phật-pháp, không còn có gì là bế tắc trở ngại.
Thứ tư là vô ngại biện với niềm vui thuyết pháp. Là một loại lạc thuyết tam muội, vui thích thuyết pháp cho mọi người, trừ phi người ta không muốn nghe, nếu muốn nghe, thì lời pháp sẽ như nước nguồn tuôn chảy, không lúc nào ngưng.
Vị trưởng lão được nói đến trong Pháp-hội Kim Cang này là Tôn-giả Tu-bồ-đề. Thứ bậc trưởng lão của Tôn-giả thuộc về tuổi tác và nhiều năm hạ. Ngoài ra ngài còn được coi là một pháp tánh trưởng lão, mà cũng là phước đức trưởng lão nữa, tức kiêm cả ba loại.
Tu-bồ-đề có ba nghĩa là: Thiện Cát, Thiện Hiện và Không Sinh. Khi Tôn-giả ra đời, kho chứa của báu trong nhà hốt nhiên trống không. Người cha sợ lắm, mới bói một quẻ, nhưng quẻ đó lại vừa tốt, vừa lành, nên đặt tên Tôn-giả là "Thiện Cát." Bảy ngày sau, của báu lại hiện ra, nên đặt một tên nữa là "Thiện Hiện". Tại làm sao của báu lại biến thành không vậy? Nguyên do vì Tôn-giả Tu-bồ-đề đã tu pháp môn "quán không" từ nhiều kiếp trước. Ngài đã chứng đắc lý không, và trong hàng đệ tử của Phật, ngài là vị giải không đệ nhất. Có vậy nên khi sinh ra đời, trong nhà có tất cả 108 kho châu báu, tự nhiên biến thành trống không. Ðó là ý nghĩa "Không Sinh" (sinh từ không) của danh hiệu Tôn-giả Tu-bồ-đề.
"Trong đại chúng" Tôn-giả Tu-bồ-đề từ trong đại chúng của pháp hội bát-nhã, gồm có cả trăm ngàn vạn ức trời và người.
"Liền từ chỗ ngồi đứng dậy," Tôn-giả trông thấy Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi ngay ngắn trong tư thế kiết-già, như như bất động mà luôn luôn sáng suốt (như như bất động, liễu liễu thường minh), ông hiểu được ý nghĩa của sự biểu hiện này. Biểu hiện điều gì vậy? Chính là biểu hiện một pháp về trí huệ bát nhã. Ðức Phật thường ngày, trong mọi oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, đều biểu hiện diễn thuyết Thực-tướng Bát-nhã, Quán-chiếu Bát-nhã, và Văn-tự Bát-nhã, đủ các loại diệu pháp bát nhã. Pháp bát nhã mầu nhiệm này, chỉ duy kẻ có trí huệ mới thâm nhập được. Ngài Tu-bồ-đề, vừa đủ trí huệ, vừa đủ phước đức, nên mới nhận ra và hiểu ý Phật muốn thuyết diệu pháp thực tướng bát nhã. Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy.
"Trật vai áo bên mặt," theo phong tục của người ấn Ðộ, thì trật vai áo bên mặt là biểu thị sự tôn kính. ở Trung Quốc người xuất gia cũng để lộ vai tay mặt, đó là theo lối áo Phật chế xưa kia. Tại ấn Ðộ, Thái Lan, Miến Ðiện, và Tích Lan, áo cà-sa của người xuất gia đều có mầu vàng đậm, không có khoen móc, bảo tồn cách thức của thời Phật tại thế.
Tại sao ở Trung Quốc, áo cà-sa lại có khoen móc? Chẳng qua đây là một sự canh cải linh động, quyền biến. Vì khí hậu ở Trung Quốc tương đối lạnh hơn, nên cần mặc thêm áo lót bên trong áo cà-sa. Vì trong áo lót, ngoài cà sa nhiều khi cà sa có tuột xuống đất cũng khó cảm biết. Vì lẽ này, có thầy nhanh trí đã chế ra cái khoen để móc, giữ cho áo không bị tuột thế là vừa giữ được cách thức do Phật chế, vừa tiện lợi thích ứng với hoàn cảnh của mình. Ðó là nguyên ủy của cái khoen móc trên áo cà-sa của người xuất gia Trung Quốc.
Tu-bồ-đề trật vai áo bên phải, Ộđầu gối bên mặt quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch PhậtỢ. Trật vai áo bên mặt, đầu gối bên mặt quì xuống đất có nghĩa là thân nghiệp thanh tịnh, chắp tay cung kính là ý nghiệp thanh tịnh, bạch Phật là khẩu nghiệp thanh tịnh. Các điều này biểu thị ba nghiệp thanh tịnh. Lấy thân, tâm, khẩu, cả ba thanh tịnh mà thỉnh Phật thuyết pháp.
Hiếm có Ðức Thế-tôn! Ðức Như-lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát.
Hiếm nghĩa là thật ít có. Hiếm có gì? Hiếm có Phật.
Phật Thích Ca đương ngồi trên pháp tọa, một lời cũng chẳng thốt ra. Trưởng lão Tu-bồ-đề sao mà lắm chuyện vậy? Gió chẳng động mà sóng lại dậy lên, đương vô sự mà sự lại sanh, có đầu lại đội thêm đầu, có tướng lại thêm tướng, như vậy chẳng phải là đương yên ổn mà tự nhiên kiếm chuyện cho rắc rối hay sao? Phật Thích Ca không nói gì, sao trưởng giả lại nói là "hiếm có". Hoặc giả đức Thích Ca nói ra một nghĩa lý gì, hoặc biểu hiện một cái gì, thì phát biểu câu "đức Thế-tôn hiếm có" có thể là điều tạm được, đàng này Phật không có làm cái gì khác, ngoài việc Ngài bày tọa cụ để ngồi xuống mà lại nói tới "hiếm có!". Các vị nên chú ý nhìn nhận cho thật kỹ tại chỗ này, toàn bộ ý nghĩa Kinh Kim Cang nằm tại chỗ này đây!
Thích Ca Mâu Ni Phật "trải tọa cụ ra, ngồi xuống" là đã thuyết pháp rồi đó, cho nên ông Tu-bồ-đề mới nói: "Ðức Thế-tôn hiếm có! Ðức Như-lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát." Phật thuyết bát-nhã chính là để hộ niệm các Bồ tát, chính là vì phó chúc các Bồ tát. Ngài lìa các tướng ngôn ngữ, các tướng văn tự, các tướng tâm duyên, ly mọi tướng để tuyên thuyết cái thực tướng của bát-nhã. Chỉ người nào chứng được quả thánh mới hiểu nổi thực tướng bát nhã, còn như phàm phu thì không vào được, không hội được pháp mầu bát nhã này. Tôn-giả Tu-bồ-đề mới nghĩ ra biện pháp khiến Ðức Phật dùng phương tiện thiện xảo để diễn thuyết văn tự Bát nhã. Do đó Ngài mới quyền biến thị hiện thay chúng sinh thỉnh pháp. Từ trong đại chúng Ngài đứng lên, trật vai bên mặt, chắp tay cung kính bạch Phật, nói rằng: "Ðức Thế-tôn thật là hiếm có, các pháp mà Ngài nói thật là khéo bảo hộ các vị Bồ-tát, khéo dạy dỗ các vị Bồ-tát, các pháp này thực là mầu nhiệm vô cùng!"
Bạch Thế-tôn! Người thiện nam, người thiện nữ, phát tâm a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nên làm sao trụ, làm sao hàng phục được tâm?
Trưởng lão Tu-bồ-đề vì chúng sanh mà thỉnh pháp, lại xưng hô "Thế-tôn" và bạch rằng: "Bạch Thế-tôn! Ngài đã giảng thực tướng bát-nhã xong, nhưng một số chúng sanh vẫn chưa hiểu rõ, vậy xin Ngài hãy vì các chúng sanh đời mạt pháp sau mà giảng thuyết lại. Như quả có người thiện nam, có người thiện nữ, phát tâm a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. . ."
"A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề" là tiếng Phạn, nghĩa là vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tại sao trong bản kinh Hán-tạng không phiên dịch chữ này? Ðây là một danh từ dùng để chỉ quả vị Phật, nên do sự tôn kính mà không phiên dịch, và để luôn âm tiếng Phạn.
A-nậu-đa-la là vô thượng, tam-miệu là chánh đẳng, tam-bồ-đề là chánh giác.
Kẻ có chánh giác thì khác với phàm phu; Phật đã giác ngộ chân chánh nên không giống kẻ phàm phu, những người không giác ngộ. Là chánh đẳng tức thị khác với kẻ nhị thừa, vì nhị thừa chỉ là chánh giác mà không phải chánh đẳng. Gọi là giác ngộ "chánh đẳng chánh giác" tức là sự giác ngộ này chân chánh ngang với sự giác ngộ của Phật (đẳng là ngang hàng). "Vô thượng" tức là có sự khác biệt với hàng bồ tát, vì Bồ-tát chỉ được chánh đẳng mà chưa đạt tới hàng vô thượng. Bồ tát còn được gọi là "Hữu Thượng Sĩ", Phật mới có hiệu là "Vô Thượng Sĩ" tức là không có thứ bậc nào ở trên Phật, Phật là quả vị tột cùng.
Tôn-giả Tu-bồ-đề thưa với Phật rằng: "Như có người muốn phát tâm a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì họ phải làm sao để an trụ chân tâm? Phải làm sao để hàng phục tâm vọng tưởng, tâm phan duyên, tâm phóng túng, tâm hư vọng, tâm cống cao ngã mạn, tâm tham, tâm sân, tâm si?"
"Hàng phục được tâm" là chế phục tâm xấu. Hàng phục là gì? Như hai bên giao chiến, thì khi hàng phục chính là chiến thắng đối phương.
Làm sao để chế phục tham, sân, si? Phải vun trồng giới, định, huệ. Có giới, định, huệ thì không có tham, sân, si. Vì quan hệ giữa tham sân si và giới định huệ thì hỗ tương liên đới; cái này chỉ có ý nghĩa nếu có cái kia, do đó ta có thể nói: Tham, sân, si tức là giới, định, huệ; giới, định, huệ tức là tham, sân, si. Ví như cùng một số tiền, ta có thể dùng nó mua thuốc phiện cũng có thể dùng nó giúp đỡ kẻ khác qua cơn khốn cùng. Ðó là ý nghĩa thuyết minh quan hệ của tham, sân, si và giới, định, huệ. Biết cách dùng thì có giới, định, huệ; không biết cách dùng thì có tham, sân, si.
Ðối với người ngu si thì giới, định, huệ sẽ biến thành tham, sân, si. Nước với băng cũng vậy, nước chẳng khác băng, băng chẳng khác nước, nước tức là băng, băng tức là nước. Cùng một nghĩa lý này, ta thấy phiền não tức bồ-đề, bồ-đề tức phiền não, phiền não và bồ-đề chẳng phải là hai thứ. Nếu không biết cách dùng thì phiền não là phiền não, ngược lại như biết cách, thì phiền não sẽ trở thành bồ-đề.
Nói ra là pháp, thực hành là đạo, nói cho tốt, nói cho hay, mà chẳng thực hành thì chẳng phải là đạo. Nhất định phải thành thật mà làm, y theo Phật-pháp mà tu hành. Siêng năng tu giới, định, huệ, sẽ diệt tham, sân, si, như vậy chính là hàng phục tâm. Nếu chúng ta hàng phục được vọng tâm, thì chân tâm sẽ thường trú, cho nên có câu "thường trú chân tâm, tính tịnh minh thể".
Ðức Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Tu-bồ-đề! Ðúng như lời ông nói, Như-lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói. Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, nên an trụ như thế này, nên hàng phục tâm mình như thế này. ""Dạ! Thế-tôn! Con nguyện vui lòng lắng nghe."
Ðức Phật Thích Ca thấy ông Tu-bồ-đề vì chúng sanh mà thỉnh pháp, Ngài hoan hỉ nên mới khen rằng: "Ông Tu-bồ-đề, ông thực là tốt".
Kế đó Phật nói: "Ðúng lắm! Như-lai khéo bảo vệ các vị Bồ-tát, khéo dạy dỗ các vị Bồ-tát, nên mới nói pháp bát-nhã. Bây giờ, ông phải hết sức chú ý, ta nay giảng diệu pháp bát nhã cho ông, nhưng ông không được nghe như cách gió thoảng qua tai. Phải đặc biệt chú tâm. Nếu để phớt qua thì thật uổng phí, nhọc công Như-lai."
Người thiện nam, người thiện nữ, phát tâm a-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Câu này nghĩa là nên an trú chân tâm như thế này? hàng phục vọng tâm như thế này.
Trong Kinh Kim Cang, tới đoạn nào khẩn yếu, ta cũng thấy mấy chữ như thế (như thị). Ðức Phật có một cách biểu thị, mà không diễn tả ra bằng văn tự. "Như thế" tức không có giảng gì hết, đó là chỗ "hết đường ngôn ngữ, chỗ diệt mọi tâm ý", cho nên có câu:
"Khẩu dục ngôn nhi từ táng,
Tâm dục duyên nhi lự vong."
Nghĩa là:
Miệng muốn nói mà lời tan biến, Tâm muốn duyên mà ý chẳng còn.
"Như thế!" tức là chỗ không có lời giảng, nghĩa là bảo chúng ta hãy ngồi xuống tham thiền đi! Nếu chúng ta có thể ngồi tham thiền, hay thiền quán, thì do chú tâm chuyên nhất, vọng tâm tự nhiên bị hàng phục, chân tâm ngay đó hiển hiện. Do đó mới nói như thế. Nếu người ta cứ như vậy mà tu, thì thường an trụ chân tâm, thấy bổn lai Phật tánh, tánh tịnh minh thể và hàng phục vọng tâm.
Vì vô tướng bát-nhã thì không có hình tướng gì hết, nên lúc Ngài Tu-bồ-đề đã hiểu minh bạch, muốn chúng sanh đời sau được hiểu thấu nên Ngài đáp rằng: "Dạ!"
Nói tới đoạn này, chúng ta liên tưởng tới một lần nọ, đức Khổng-tử nói với Tăng-tử, có sự hiện diện của một số đệ tử nữa. Ngài nói:
Sâm ơi! Ðạo của ta chỉ dùng cái một xuyên suốt hết thảy.
Tăng-tử thưa: "Dạ!"
Khi đức Khổng đi ra, các môn đồ hỏi Tăng-tử:
"Thầy nói gì?"
Tăng-tử đáp: Ðạo của đức Phu tử thì chỉ có lòng trung thứ thôi.
Khi đức Khổng đi rồi, các môn đồ không hiểu thầy Tăng-tử đáp "dạ" là ý nghĩa gì. Tăng-tử thì hiểu, nhưng các đệ tử khác không hiểu, mới hỏi: "Câu thầy vừa nói đó có nghĩa gì? Làm sao mà chúng tôi chẳng hiểu gì hết?"
Tăng-tử đáp: "Ðạo của Phu-tử chỉ là trung thứ mà thôi."
Trung, nghĩa là hết sức mình (tận kỷ); thứ, nghĩa là trút hết mình (thôi kỷ); trung thứ tức là đối với người thì hết lòng, nhường hết cho người.
Thế Tôn! Con nguyện vui lòng lắng nghe. Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật: "Thế-tôn! Con nguyện vui lòng lắng nghe", lời thuyết pháp của Phật. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.21/7/2014.
No comments:
Post a Comment