QUAN DIỂM VỀ ĂN CHAY
CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN
THỦY
Trước hết phải nói rằng trong giới luật
thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới
cấm sát sanh.
Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn
cách nào cũng được, [1] tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo
pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai
hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành. Họ cho
rằng sự ăn chay không có mặt trong thời kỳ bắt đầu của Phật Giáo và chính Đức
Phật cũng không phải là người ăn chay, [2][3] ăn chay là một nét đặc thù của
Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa, bắt đầu từ triều đại nhà Minh, tức thời Hòa Thượng
Vân Thê Châu Hoằng (1565-1615) và dĩ nhiên truyền mạnh qua Phật giáo Bắc Tông
Việt Nam. Trước đó Phật Giáo Trung Hoa cũng không đặt vấn đề ăn chay mặn là việc
quan trọng cho sự tu hành. [4]
Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng chính Phật
không đặt thành vấn đề ăn chay mặn, sự giải thoát không phải do nơi ăn, mà là do
nơi thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý, ăn chay mà thân khẩu không lành, ý chứa
gươm đao, giới luật không giữ thì đâu gọi là chay. Đức Phật cùng các đệ tử của
Ngài đều ăn theo truyền thống khất thực, "ăên để mà sống để hành đạo", chứ không
phải "sống để mà ăn để thụ hưởng".
Tất cả chư Tăng Nam Tông, tính có hàng
triệu người, ở các quốc gia Phật giáo như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Cao
Miên, Ai Lao và một phần Việt Nam đều tiếp tục duy trì truyền thống này. Họ cho
rằng bản thân họ không tự mình sát sinh, không khích lệ người khác sát sanh,
không tùy hỷ sự sát sanh và do đó không phạm giới sát sinh.
Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dạy hàng
Tỳ Kheo, nếu hành đầy đủ ba pháp "Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác
từ bỏ sát sinh, tùy hỷ sự từ bỏ sát sanh sẽ được sanh lên cảnh trời, không bị
rơi vào địa ngục. [5]
Trong Tăng-Hàm, quyển 37, khi luận bàn về
vấn đề sát sanh, có nói như sau:
"Tôi muốn sống, không muốn chết, muốn
được sung sướng, không muốn phải đau khổ. Nếu có kẻ nào cướp đi sự sống của tôi,
tôi có vui vẻ không? Nếu tôi không vui vẻ, thì kẻ khác cũng không vui vẻ khi tôi
cướp đi của họ sự sống và sự sung sướng ấy. Không những thế, phàm cái gì mình
không ưa thích thì kẻ khác cũng không thích. Nếu thế thì tại sao ta lại làm cho
những kẻ khác những điều mà ta không ưa thích?" (Tiểu Thừa Phật Giáo Tư
Tưởng Luận, Kimura Taiken, Hán dịch: Thích Diễn Bồi, Việt dịch: Thích Quảng
Độ)
Thật ra mục đích căn bản của đạo Phật về
mặt giới luật là tránh làm mọi điều ác, làm tất cả việc lành và giữ tâm được
trong sạch. Sự giác ngộ giải thoát chẳng phải do việc ăn chay hay ăn thịt, mà là
do sự trong sạch của thân khẩu ý. [6] Phàm tất cả những việc gì có hại đối với
thân tâm, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại, cho đến tất cả chúng sinh hữu
tình, đều bị chi phối bởi năm giới luật căn bản, mà giới cấm sát sanh là giới
cấm đầu tiên của Đạo Phật.
Trong kinh điển Nguyên Thủy, Đức Phật sau
khi nghe lời thỉnh cầu của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) xin ban hành giới cấm không
cho hàng Tỳ kheo ăn thịt cá, Đức Phật không chấp thuận và Ngài dạy rằng. "Sự
ăn thịt cá có thể coi như trong sạch trong ba trường hợp (tam tịnh nhục) là
người ăn không thấy, không nghe, không có lòng hoài nghi rằng con vật bị giết
riêng biệt cho mình." [7]
Chúng ta nên nhớ rằng, thời Đức Phật còn
tại thế, hàng tỳ kheo đi khất thực, bữa ăn hàng ngày tùy thuộc vào những gì mà
lòng hảo tâm của thập phương bá tánh đặt vào bình bát, các thầy lặng lẽ nhận với
một tâm không phân biệt, ngoại trừ những thức ăn không được Đức Phật cho phép ăn
như nói ở trên.
Theo luật tắc của tu viện thời Đức Phật,
quý thầy Tỳ kheo không được phép đòi hỏi món này hay món khác, quý thầy nhận với
tâm bình thản và không phân biệt bất luận thứ gì mà người Phật tử hoan hỷ cúng
dường. Thực phẩm chỉ để nuôi mạng sống.
Ngày nay tại các quốc gia mà các thầy tỳ
kheo không thể đi khất thực được, việc ăn uống tùy thuộc hoàn toàn vào các nhóm
cư sĩ Phật tử hoan hỷ hỗ trợ các thầy. Quý Phật tử tự ý đi chợ mua sắm rồi nấu
nướng dâng đến các thầy thọ trai. [8]
Trên đây là tóm lược quan điểm của Phật
Giáo Nguyên Thủy về vấn đề ăn chay. Họ có những lý do tin là việc ăn chay hay
không ăn chay không phải là điều quan trọng trong việc hành trì Phật Pháp. Họ
tin rằng việc dính mắc hay không dính mắc trong tâm tưởng mới là điều quan yếu,
khi tâm quá dính mắc vào các ý niệm thiện ác hay ăn chay mặn là mang vào mình sự
bất an vì e sợ không biết hành động của mình có sai, có tạo nên ác nghiệp không?
Chẳng hạn khi quét nhà lo sợ kiến chết hay khi đi lo sợ dẫm lên làm chết côn
trùng hay làm hại cây cỏ. Họ cũng thường trích dẫn bài kinh Amagandha mà Đức
Phật giảng cho Jivaka nghe rằng "phẩm hạnh xấu xa của người làm tội bằng
nhiều cách khác nhau, còn tệ hại hơn là ăn thịt cá nhiều."
Họ nghĩ rằng những điều làm cho con người
bất tịnh chẳng phải là ở nơi ăn thịt cá, mà là ở nơi lòng oán hận, mê tín, gian
xảo, tật đố kiêu căng, và xu hướng theo đường bất chánh.
Nói tóm lại, Phật giáo Nguyên Thủy tin
tưởng rằng, không có một giới luật khắt khe nào trong Phật giáo nói là tín đồ
của Đức Phật không nên ăn thịt cá và bắt tất cả người Phật tử phải ăn chay. Họ
cũng tin rằng, Đức Phật chỉ khuyên là không nên liên quan vào việc sát sanh có
dụng ý hoặc không nên yêu cầu người khác giết bất cứ chúng sanh nào cho mình ăn.
Thế nhưng còn nhiều nghi vấn đặt ra về phương diện đạo đức như là thịt cá bày bán ở ngoài chợ có phải giết đặc biệt cho chúng ta ăn không? Có phải ăn thịt cá là một thứ "ủy nhiệm sát sinh" không? (killing by proxy). Ngoài ra còn nhiều nghi vấn, sẽ được những người Phật Giáo khác trả lời như là làm sáng tỏ quan điểm ăn chay của họ.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.14/3/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment