Tuesday 17 September 2013

 THƠ THIỀN SƯ PHỔ MINH .
TỤNG TRANH CHĂN TRÂU .

     Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây:

          1. Vị mục: chưa chăn
          2. Sơ điều: mới chăn
          3. Thọ chế: chịu phép
          4. Hồi thủ: quay đầu
          5. Tuần phục: thuần phục
          6. Vô ngại: không vướng
          7. Nhiệm vận: theo phận
          8. Tương vong: cùng quên
          9. Độc chiếu: soi riêng
         10. Song mẫn: cùng vắng
 
     Ngài Chu Hoằng ghi lời tựa: “Phổ Minh chưa biết rõ người ở đâu? Tranh và tụng cũng chưa rõ do tay một người chăng? Nay miễn bàn. Chỉ là tranh ấy hình ảnh hiển bày mà ý thú rất sâu sắc. Bài tụng thì lời gần mà ý chỉ thì rất xa. Người học giữ ở bên mình làm bản đồ để xem xét đức nghiệp của mình. Cúi xuống, xét chỗ mình đã tiến, ngước lên mong chỗ mình chưa đến, mới mong tránh khỏi cái lỗi được ít cho là đủ, mà phải rơi vào tăng thượng mạn. Như thế sẽ giúp ích rất nhiều.” 

     Soạn giả sau khi ghi bản dịch âm mười bài thơ này đã dịch thành mười bài thơ “tứ tuyệt”. Kế đó lại chuyển dịch thành mười bài thơ “lục bát” liên hoàn.
 
*

未 牧

猙 獰 頭 角 恣 咆 哮

奔 走 溪 山 路 轉 遙

片 黑 雲 橫 谷 口

誰 知 步 步 犯 佳 苗

 
1. VỊ MỤC
Tranh nanh đầu giác tứ bào hao,
Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển diêu.
Nhất phiến hắc vân hoành cốc khẩu,
Thùy tri bộ bộ phạm giai miêu.
 
1. CHƯA CHĂN
Đầu sừng hung tợn chạy kêu la
Vượt suối trèo non vạn dặm xa
Một dải mây đen giăng cửa động
Nào hay lúa mạ giẫm bừa qua.


(CHƯA CHĂN: Trâu đầu sừng hung tợn mặc tình chạy kêu rống. Nó chạy ngược chạy xuôi qua khe suối, qua núi non, càng chạy càng xa. Một dải mây đen giăng chận ngang cửa hang động. Ai biết mỗi bước đều phạm vào lúa mạ của người.)

初 調

我 有 芒 繩 驀 鼻 穿

一 迴 奔 競 痛 加 鞭

從 來 劣 性 難 調 制

猶 得 山 童 盡 力 牽

 
2. SƠ ĐIỀU
Ngã hữu mang thằng mạch tị xuyên,
Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên.
Tùng lai liệt tính nan điều chế,
Do đắc sơn đồng tận lực khiên.
 
2. MỚI CHĂN
Ta có thừng gai xỏ mũi trâu
Một phen tháo chạy bị roi đau
Vốn xưa tính xấu dạy không dễ
Nhờ trẻ chăn trâu kéo lại mau.


(MỚI CHĂN: Ta có dây thừng bằng gai xỏ qua lỗ mũi của trâu. Một phen trâu tháo chạy bị đánh một roi thật đau. Vốn từ xưa tới nay tính trâu kém cỏi thấp hèn, khó điều phục. Vẫn nhờ được trẻ chăn trâu hết sức lôi kéo ghì trâu lại.)

受 制

漸 調 漸 伏 息 奔 馳

度 水 穿 雲 步 步 隨

手 把 芒 繩 無 少 緩

牧 童 終 日 自 忘 疲

 
3. THỌ CHẾ
Tiệm điều tiệm phục tức bôn trì
Độ thủy xuyên vân bộ bộ tùy
Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn
Mục đồng chung nhật tự vong bì.
 
3. CHỊU PHÉP
Dạy dần, chịu phép hết lao đầu
Vượt nước, băng mây theo gót nhau
Tay nắm chặt dây không nới lỏng
Trẻ quên ngày mỏi mệt qua mau.


(CHỊU PHÉP: Được điều phục dần dần trâu bớt chạy dong. Vượt qua nước, băng qua mây, mỗi bước trâu đều đi theo gót trẻ chăn trâu. Trẻ tay nắm chặt dây gai không chút lơi lỏng. Trẻ chăn trâu suốt cả một ngày tự quên hết mệt nhọc.)

廻 首

日 乆 功 深 始 轉 頭

顛 狂 心 力 漸 調 柔

山 童 未 肯 全 相 許

猶 把 芒 繩 且 繫 留


4. HỒI THỦ
Nhật cửu công thâm thủy chuyển đầu,
Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu.
Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa,
Do bả mang thằng thả hệ lưu.
 
4. QUAY ĐẦU
Lâu ngày công khó mới quay đầu
Tâm lực cuồng điên thuần dịu mau
Trẻ vẫn chưa hề ưng hẳn vậy
Nên thừng giữ chặt có buông đâu.


(QUAY ĐẦU: Trẻ chăn trâu tốn công chăn giữ lâu ngày trâu mới quay đầu. Tâm điên loạn, sức ngang ngạnh ngông cuồng của trâu đã dần dần được điều phục thuần lại. Trẻ chăn trâu vẫn chưa hoàn toàn bằng lòng như vậy. Vẩn nắm chặt dây thừng gai buộc giữ trâu lại.)

馴 伏

綠 楊 陰 下 古 溪 邊

放 去 收 來 得 自 然

日 暮 碧 雲 芳 草 地

牧 童 歸 去 不 須 牽

 
5. TUẦN PHỤC
Lục dương âm hạ cổ khê biên,
Phóng khứ thu lai đắc tự nhiên.
Nhật mộ bích vân phương thảo địa,
Mục đồng quy khứ bất tu khiên.
 
5. THUẦN PHỤC
Dưới bóng liễu xanh cạnh suối nguồn
Thả ra, bắt lại dễ dàng luôn
Mây xanh, chiều tới, đồng thơm cỏ
Trẻ trở về ngay chẳng bận chăn.
 

(THUẦN PHỤC: Trẻ chăn trâu đứng chơi dưới bóng mát cây dương liễu xanh cạnh bên bờ suối xưa. Trâu được thả ra hay bị bắt lại vẫn tự nhiên dễ dàng. Trời về chiều có mây xanh và đồng cỏ thơm. Trẻ chăn trâu trở về lại ngay không cần chăn dắt lôi kéo gì trâu nữa).

無 礙

露 地 安 眠 意 自 如

不 勞 鞭 策 永 無 拘

山 童 穩 坐 青 松 下

曲 昇 平 樂 有 餘


6. VÔ NGẠI
Lộ địa an miên ý tự như,
Bất lao tiên sách vĩnh vô câu.
Sơn đồng ổn tọa thanh tùng hạ,
Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư.
 
6. KHÔNG VƯỚNG
Ngoài trời yên giấc thảnh thơi lòng
Roi vọt không cần, chẳng nhọc công
Trẻ dưới thông xanh ngồi thoải mái
Quá vui trổi khúc nhạc vang đồng.
 

(KHÔNG VƯỚNG: Trâu bình thản nằm ngủ yên trên đất trống. Không còn bị dây roi câu thúc kiềm chế nữa. Trẻ chăn trâu ngồi yên ổn dưới cội tùng xanh. Trổi lên một khúc nhạc thanh bình rất vui vẻ.)

任 運

柳 岸 春 波 夕 照 中

淡 烟 芳 草 綠 茸 茸

饑 餐 渴 飲 隨 時 過

石 上 山 童 睡 正 濃

 
7. NHIỆM VẬN
Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung,
Đạm yên phương thảo lục nhung nhung.
Cơ xan khát ẩm tùy thời quá,
Thạch thượng sơn đồng thụy chánh nùng.
 
7. THEO PHẬN
Chiều rạng sóng xuân bờ liễu buông
Khói mờ, cỏ nõn biếc thơm hương
Đói ăn, khát uống lòng tùy tiện
Trên đá trẻ chăn ngủ giấc nồng.
 

(THEO PHẬN: Bên bờ liễu sóng xuân phản chiếu ánh sáng. Khói mờ cỏ thơm màu xanh non. Trẻ chăn trâu khi đói thì ăn, khi khát thì uống theo với thời gian trôi qua đi. Trên bàn đá trẻ ngủ một giấc say sưa.)


相 忘

白 牛 常 在 白 雲 中

人 自 無 心 牛 亦 同

月 透 白 雲 雲 影 白

白 雲 明 月 任 西 東


8. TƯƠNG VONG
Bạch ngưu thường tại bạch vân trung,
Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng.
Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch,
Bạch vân minh nguyệt nhiệm Tây Đông.
 
8. CÙNG QUÊN
Trâu trắng thường nơi mây trắng trong
Vô tâm người với trâu tương đồng
Trăng xuyên mây trắng, mây phô trắng
Mây trắng trăng trong Tây tới Đông.
 

(CÙNG QUÊN: Trâu trắng thường ở trong mây trắng. Người tự vô tâm, trâu cũng vô tâm giống như thế. Trăng rọi suốt mây trắng nên bóng mây cũng trắng. Mây trắng trăng sáng mặc tình qua Tây hay qua Đông.)

獨 照

牛 兒 無 處 牧 童 閒

片 孤 雲 碧 嶂 間

拍 手 高 歌 明 月 下

歸 來 猶 有 重 關

 
9. ĐỘC CHIẾU
Ngưu nhi vô xứ mục đồng nhàn,
Nhất phiến cô vân bích chướng gian.
Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ,
Quy lai do hữu nhất trùng quan.
 
9. SOI RIÊNG
Vắng bóng trâu kia khiến trẻ nhàn
Một vầng mây lẻ chắn không gian
Vỗ tay ca hát cùng trăng sáng
Về lại vẫn còn một ải ngăn.


(SOI RIÊNG: Trâu không còn ở chỗ nào nữa, trẻ chăn trâu thảnh thơi nhàn rỗi. Một vầng mây đơn lẻ che khoảng trời xanh. Trẻ chăn trâu vỗ tay ca hát lớn tiếng dưới trăng sáng. Quay trở về lại vẫn còn có một lớp cửa ải nữa ngăn chặn.)


雙 泯

人 牛 不 見 杳 無 蹤

明 月 光 寒 萬 象 空

若 問 其 中 端 的 意

野 花 芳 草 自 叢 叢


10. SONG MẪN
Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung,
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không.
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý,
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng.
 
10. CÙNG VẮNG
Không thấy người, trâu, bóng mịt mùng
Dưới trăng muôn vật bỗng thành không
Ý tình đích thực ai thăm hỏi
Hoa dại, cỏ thơm mọc khắp đồng.
 

(CÙNG VẮNG: Người và trâu không thấy đâu, mờ mịt không dấu vết. Trăng sáng lạnh lẽo, không còn một hình tượng nào. Nếu hỏi ý chính trong đó là gì. Hoa đồng, cỏ thơm tự mọc rậm rạp.).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.18/9/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment