KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
LƯỢC GIẢNG
ŚŪRAMGAMA-SŪTRA
Tuyên Hoá Thượng .
Tuyên Hoá Thượng .
GIẢI THÍCH TỔNG QUÁT
ĐỀ KINH
“Kinh Đại Phật Đảnh Như
Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm” là tên của
bộ kinh này.
ĐẠI nghĩa là to
lớn. Đề cập đến bốn khía cạnh lớn lao của kinh :
1
-Nguyên nhân (nhân )
2- Nghĩa lý (
lý).
3- Tu tập hành trì
(hạnh).
4
- Kết quả (quả ).
Nguyên nhân lớn lao chính
là mật nhân. Nhân này hoàn toàn khác với những nguyên nhân bình thường mà hàng
phàm phu không thể nào hiểu được, hàng ngoại đạo không thể nào hiểu được, và
hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác chưa giác ngộ được. Cho nên nguyên nhân ra
đời của bộ kinh này rất lớn.
Nghĩa lý siêu việt của
kinh to lớn chính là liễu nghĩa. Đây là chỗ rốt ráo của người tu đạo, dẫn đến sự
chứng ngộ.
Hạnh tu tập to lớn vì bao
gồm vô số công hạnh của hàng bồ-tát.
Kết quả to lớn là đại định
Thủ-lăng-nghiêm, Do bốn phương diện này nên đề kinh được mở đầu bằng tiếng Hán
là Đại ; nghĩa là to lớn, siêu việt.
PHẬT: tiếng Phạn là
Buddha. Phiên âm sang tiếng Trung Hoa là Phật-đà-da, gọi tắt là Phật. Nhiều
người cứ nghĩ rằng chữ Phật là tiếng Hán chuyển ngữ, phát xuất từ chữ Buddha,
nhưng thực ra đó chỉ là âm đầu của toàn bộ tiếng phiên âm từ chữ Buddha mà thôi.
Buddha nghĩa là giác ngộ, tỉnh thức.
Có ba hình thức giác ngộ:
tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Đức Phật là người tự mình
giác ngộ. Trạng thái giác ngộ ấy khác xa với trạng thái hiện thời của người phàm
phu, là kẻ chưa được giác ngộ.
Tự mình giác ngộ chưa đủ,
mà còn phải giúp cho kẻ khác được giác ngộ. Việc giác ngộ người khác có nghĩa là
tìm một phương pháp để giúp cho họ được giác ngộ.
Giữa tự giác và giúp cho
người khác được giác ngộ phải trải qua rất nhiều giai đoạn và có nhiều trình độ
khác nhau. Giác ngộ có hai trường hợp: đại ngộ và tiểu ngộ. Tiểu ngộ là giác ngộ
chưa được hoàn toàn. Đại ngộ là giác ngộ hoàn toàn. Đức Phật đã tự tu tập và
giác ngộ hoàn toàn và Ngài còn giúp cho người khác được giác ngộ.
Đức Phật là người đã có
đầy đủ ba phương diện giác ngộ nên Ngài được gọi là người có vạn đức trang
nghiêm.
“Tam giác viên,
vạn đức bị.”
(Khi ba phương diện giác
ngộ đã được viên mãn thì có đầy đủ muôn vạn công đức trang nghiêm, nên được gọi
là Phật).
Có người tự hỏi tại sao ta
lại tin vào Đức Phật. Do vì chính chúng ta xưa nay vốn là phật rồi. Chẳng qua
hiện nay chúng ta bị mê mờ, không thể chứng được quả vị Phật. Do đâu mà nói
chúng sinh xưa nay vốn là phật? Chính là do Đức Phật đã từng nói:
“Tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh… nhưng chỉ do vọng tưởng, chấp trước nên không thể chứng đắc được”1
Vọng tưởng đã đưa con
người chúng ta từ Đông sang Tây, rồi đưa từ Nam sang Bắc; đưa ta từ dưới đất lên
trên trời; vọng tưởng ấy bỗng chốc đưa ta lên thiên đàng, bỗng chốc đưa ta xuống
địa ngục. Nó đưa ta đến những nơi bất khả tư nghì và không thể suy lường được.
Quý vị có biết mình có khởi lên bao nhiêu vọng tưởng trong một ngày không? Nếu
quý vị biết thì mình trở thành bồ-tát. Còn nếu không biết thì mình vẫn là phàm
phu.
Con người trở nên chấp
trước vào sự sở hữu, thường xuyên lập nên sự phân biệt về “tôi” và “cái của
tôi.” Họ không thể dẹp sang một bên sự sở hữu những của cải vật chất hay sự
hưởng thụ thú vui tinh thần. “Đó là máy bay của tôi”, “Đây là chiếc xe của tôi,
bạn biết không nó thuộc về model mới nhất.” Bất luận khi người ta sở hữu một vật
gì, thì đều bị dính mắc vào vật ấy. Đàn ông có sự dính mắc của đàn ông, phụ nữ
có sự chấp trước của phụ nữ. Người lương thiện có sự chấp trước của người lương
thiện. Kẻ xấu ác có sự chìm đắm của kẻ xấu ác.
Bất luận những chấp trước
ấy thuộc loại gì người ta cũng khó lòng xả bỏ được nó. Họ chiếm đoạt rồi níu
giữ, kiên trì bám riết lấy nó. Càng lúc càng trở nên cố chấp hơn. Tiến trình này
vô tận vô biên. Những khoái lạc như thức ăn ngon, nhà cửa tiện nghi, những món
giải trí hấp dẫn và những thứ thường được xem như là lợi nhuận. Những thứ này
không bền vững trường cửu như nó đang hiện hữu. Mặc dù quý vị chưa nhận ra điều
ấy. Nhưng đó chỉ là sự tham đắm dục lạc làm chướng ngại việc chứng đạt Phật tánh
của quý vị mà thôi. Nên Đức Phật đã dạy: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chúng
sinh không thể nhận ra được Phật tánh.
Trong kinh
Thủ-lăng-nghiêm, Đức Phật dạy: “Cuồng tâm đốn yết, yết tức bồ-đề ”
Nghĩa là: “Khi tâm cuồng
chợt dừng hẳn thì ngay lúc ấy là giác ngộ”
Tâm cuồng được giải thích
là tâm ích kỷ giả dối, là tâm ưa thích địa vị trong xã hội, là tâm đầy dẫy những
hy vọng hảo huyền vô ích, là tâm khinh thường người khác nên không nhìn thấy
được những thành quả và sự thông minh của họ. Ngay cả như có người được xem
tương tự như loài bát quái cũng sẽ tự cho mình là đẹp lắm. Nên những loại cố
chấp lớn lao này sẽ không sinh khởi nữa khi tâm cuồng si kia dừng hẳn. Chỗ dừng
đó chính là bồ-đề. Bồ-đề là gì? Là giác ngộ được đạo, là khai ngộ. Từ đây, việc
thành Phật không còn xa nữa. Nếu quý vị có thể làm cho tâm cuồng của mình dừng
bặt, nghĩa là quý vị đã có công phu rất tốt rồi.
Trong ba hình thức giác
ngộ. Sự giác ngộ của hàng A-la-hán và Bích-chi Phật[1] là để phân biệt họ với hàng phàm phu chưa
giác ngộ.
Bích-chi Phật ngộ đạo
thông qua tu tập mười hai nhân duyên. Hàng A-la-hán ngộ đạo nhờ tu tập Tứ diệu
đế. Chư vị Bồ-tát khác hẳn hàng Bích-chi Phật và A-la-hán. Họ kiên quyết giúp
cho mọi chúng sinh được giác ngộ, và cũng được gọi là làm lợi lạc quần
sinh.
Nói tóm lại, A-la-hán,
Bích-chi Phật, Bồ-tát là người đã tu tập giác ngộ. Ở đây, chúng ta có thể nói
một người tu tập lần lượt đạt được các quả vị A-la-hán, rồi Bích-chi Phật, rồi
đến quả vị bồ-tát thông qua phương tiện Lục độ ba-la-mật và vô số công hạnh. Như
một người hiện thân ở cả ba trình độ tu tập khác nhau.
Có người dù tu tập đã đạt
đến quả vị A-la-hán rồi nhưng không muốn tiến xa hơn nữa, tự nghĩ mình đã có
được giác ngộ rồi, như có người tự cho rằng: “Ta đã được khai ngộ. Ta chẳng cần
quan tâm đến ai cả.” Anh ta dừng lại ở sự thành tựu quả vị A-la-hán chứ không
muốn tiến đến quả vị Bích-chi Phật nữa.
Một số người khác tiếp tục
tu tập để được đạt quả vị Bích-chi Phật, nhưng chẳng quan tâm đến tiến trình xa
hơn nữa. Thế nên ta có thể xem đó chỉ là một người hay là cả ba người cũng
được.
Còn Bồ-tát là người đã tự
mình giác ngộ còn giúp cho mọi người khác được giác ngộ. Tu tập lục độ ba-la-mật
và tự trang nghiêm mình bằng vô số công hạnh. Bồ-tát phải tiếp tục lộ trình tu
tập cho đến khi hoàn thành bồ-tát đạo. Đến đây mới được gọi là giác hạnh viên
mãn, là thành Phật. Khi đạt được giác hạnh viên mãn của một đức Phật rồi thì
hành giả hoàn toàn khác hẳn một vị bồ-tát.
Ba hình thức giác ngộ có
thể thảo luận rất dài. Còn nếu muốn thực hành thì có rất nhiều sự sai biệt.
Trong mỗi trình độ lại có nhiều cấp độ khác nhau. Trong sự phân biệt lại có thêm
nhiều phân biệt. Tiến trình của hình thức giác ngộ này rất nhiều giai đoạn. Cho
đến khi ba hình thức giác ngộ này được viên mãn mới gọi là hoàn
thành.
ĐẢNH: là điểm cao nhất.
Điểm cao nhất trên đầu gọi là đảnh, trên đảnh chỉ còn có trời. Nên người ta
thường nói: “Đầu đội trời, chân đạp đất.” Tóm lại, Đại Phật đảnh là nói về điểm
nổi lên cao nhất trên đỉnh đầu của Đức Phật.
Quý vị thắc mắc: “Đức Phật
lớn chừng nào? Có phải như một pho tượng cao sáu feet[2]chăng?” Không, pho tượng Đức Phật chỉ như một
giọt nước trong biển cả, hay chỉ như một hạt vi trần trong thế giới này. Nên
chẳng có gì lớn hơn Đức Phật, lớn nhưng chẳng phải lớn, đó mới chân thực là
lớn.
Quý vị liền hỏi :
–Thế thì Ngài là ai?
-
Ngài là Đức Phật, hiển hiện khắp mọi nơi. Chẳng có nơi nào là Phật mà không có
nơi nào chẳng phải là Phật. Bất luận quý vị nói nơi đâu là Phật, thì nơi đó
chẳng phải là Phật. Bất luận nơi đâu mà quý vị nói không phải là Phật, thì nơi
đó chính là Phật. Quý vị có biết kích thước của Phật như thế nào không? Chẳng có
cách nào tính kể được đức Phật to lớn bao nhiêu. Nên Đức Phật thật sự rất lớn,
quá lớn đến nỗi Ngài vượt qua tất cả.
-Làm thế nào mà vượt qua
mọi thứ được cho là lớn?
-
Là không có cái vĩ đại nào có thể đem ra so sánh với Đức Phật được. Sự lớn lao
của Đức Phật là tuyệt đối.
-
Thế thì Đức Phật là ai?
- Là Đại Phật.
-
Thế Đại Phật này là ai?
Là quý vị, mà Phật cũng là
tôi. Nhưng tôi chẳng lớn được như thế. Đến như tôi biết, quý vị cũng chẳng lớn
được như vậy. Tại sao quý vị lại nói Phật là quý vị mà Phật cũng là tôi?
Quý vị lại hỏi:
-
Tại sao lại so sánh Đức Phật như thế?
-
Nếu Đức Phật chẳng có liên quan gì đến quý vị và tôi, thì ta chẳng cần bàn luận
gì đến Đức Phật cho mất công.
Quý vị lại hỏi:
-Làm sao mà tôi lại lớn
như thế?
Phật tánh rất lớn, vốn có
sẵn trong tất cả mỗi chúng ta. cũng như cái không thể so sánh của Đại Phật
vậy.
Bây giờ chúng ta không chỉ
nói về Đại Phật nữa, mà chúng ta sẽ liên hệ đến đảnh tướng trên đầu của Đức
Phật. Chỉ có một vật cao hơn vị Đại Phật, đó chính là đảnh đầu của Ngài. Và Đại
Phật đảnh sẽ có liên quan đến sự xuất hiện của những vị Đại Phật khác sắp được
hiện ra.
Quý vị liền hỏi:
-
Đức Phật ấy lớn cỡ nào?
-
Đức Phật ấy không thể thấy được. Ngài được diễn tả trong bài kệ chúng ta thường
đọc trước khi tụng chú Lăng Nghiêm:
“Vô kiến đảnh tướng,[3] phóng quang Như Lai
tuyên thuyết thần chú. ”
Điều gì không thể thấy
được có thể nói là nó không hiện hữu. Làm sao người ta có thể tin được sự hiện
hữu của một vị Đại Phật khi họ không thấy được Ngài?
Cái không thể thấy được ấy
mới là thật sự là lớn. Nếu nó chẳng lớn đến nỗi không thể thấy đuợc. Tại sao quý
vị lại thấy được những vật khác mà chẳng thấy được Đại Phật?
–
Không chỉ riêng những vật lớn mà những vật rất nhỏ cũng không thể thấy
được.
Thực chứ? Bầu trời rất
rộng lớn. Nhưng quý vị có thể thấy khắp hết chăng? Không. Trái đất thì mênh mông
bao la. Quý vị có thể thấy khắp giáp bề mặt của nó chăng? Cũng không. Đó là
những gì lớn thực sự mà không thể thấy được.
Từ đảnh đầu (không thể
thấy được) của Đức Đại Phật Như Lai phóng ra hào quang.
–
Hào quang ấy lớn đến chừng nào?
Hãy nghĩ rằng: Chẳng lẽ
một vị Đại Phật lại phóng ra một đạo hào quang nhỏ nhoi. Tất nhiên hào quang
Ngài phóng ra phải vô cùng vĩ đại, chiếu khắp mọi nơi.
– Có chiếu đến tôi
không?
Nó đã chiếu đến quý vị từ
rất lâu rồi!
–
Thế tại sao tôi không biết gì cả?
Bây giờ quý vị có muốn
biết không?
Tâm thanh thủy hiện
nguyệt
Ý tịnh thiên vô
vân.
(Khi tâm thanh tịnh thì
trăng phản chiếu trên mặt nước. Khi ý tĩnh lặng thì như bầu trời không gợn tí
mây.
Nếu tâm quý vị hết sức
thanh tịnh, hào quang của Đức Phật sẽ chiếu đến và sẽ tỏa sáng trong tâm quý vị
như ánh trăng soi chiếu trên mặt hồ tĩnh lặng.. Nếu tâm quý vị còn nhiễm ô, cũng
như một vũng nước bùn đục ngầu, chẳng có thứ ánh sáng nào chiếu dọi qua được.
Tâm định giống như bầu trời không mây, là trạng thái vi diệu không thể diễn tả
được. Nếu quý vị tự thanh tịnh tâm mình rồi, thì quý vị sẽ có được sức mạnh của
Thủ-lăng-nghiêm đại định.
NHƯ LAI
Xuất phát từ chữ tathāgata
trong tiếng Phạn, có nghĩa là đến như vậy
Như nghĩa là không có gì
mà chẳng như.
Lai là không có nơi nào mà
chẳng đến.
Như là bản thể của Phật
pháp.
Lai là dụng của Phật
pháp.
Như là cảnh giới như như
bất động của Phật.
Lai là đến rồi đi (đi mà
chẳng đi).
Nên nói: Như như bất động,
lai nhi diệc lai, lai nhi bất lai (Như như bất động. đến rồi lại đến. Đến mà
chẳng đến).
-
Thế Ngài đi đâu?
-
Chẳng đi đâu cả.
Thế Ngài đến nơi
đâu?
Chẳng có nơi nào để đến
cả.
Nên Kinh Kim Cương nói :
“Như Lai giả, vô sở tòng
lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai.”[4]
Đức Phật chẳng đến với quý
vị, cũng chẳng đến với tôi. Mà Đức Phật ở ngay đó với quý vị, và Đức Phật cũng ở
ngay đây với tôi.
Như Lai[5] là một trong mười
danh hiệu của Đức Phật. Thông thường, mỗi Đức Phật đều có mười ngàn danh hiệu.
Về sau rút lại chỉ còn một trăm danh hiệu vì chúng sinh thường bị lẫn lộn khi cố
gắng nhớ cho hết. Trong một thời gian khá dài, Đức Phật có một nghìn danh hiệu,
nhưng chúng sinh lại vẫn không nhớ hết được. Nên lại giảm xuống mỗi Đức Phật chỉ
còn một trăm danh hiệu. Đến khi mỗi Đức Phật còn lại một trăm danh hiệu rồi mà
chúng sinh vẫn khó khăn khi nhớ hết các danh hiệu ấy. Nên lại giảm xuống chỉ còn
mười danh hiệu. Đó là:
Ứng cúng: xứng đáng được
hưởng sự cúng dường của loài người và trời.
Chánh biến tri: hiểu biết
chân chính bao trùm khắp.
Minh hạnh túc: Sự giác ngộ
cũng như công hạnh hoàn toàn trọn vẹn.
Thiện thệ thế gian giải [6]: vượt qua mọi kiến
giải thế gian một cách tự tại.
Vô thượng sĩ : Bậc không
ai sánh bằng.
Điều ngự trượng phu: Bậc
trượng phu khéo điều phục chính mình.
Thiên nhân sư: Thầy của
trời và người
Phật
Thế Tôn
Tất cả các Đức Phật đều có
mười danh hiệu này.
MẬT
NHÂN
Mật nhân là bản thể của
định lực mà mọi người đều tự có sẵn. Gọi là mật chứ không gọi là hiển vì mặc dù
vốn có đầy đủ bên trong mỗi người, không ai thiếu sót cả, nhưng chẳng ai biết
được điều ấy. Thế cho nên gọi là mật.
Mật nhân này là định lực
của Như Lai và cũng là bản thể định lực của toàn thể chúng sinh. Khác nhau ở
điểm là bản thể định lực của chúng sinh chưa được hiển bày nên vẫn còn một điều
ẩn mật.
TU
CHỨNG LIỄU NGHĨA
Mật nhơn ấy phải được tu
chứng qua tham thiền hay niệm Phật, cả hai đều là phương tiện tu tập. Sự tu tập
đề cập ở đây là tinh chuyên tham thiền. Qua tham thiền miên mật, hành giả mới
chứng quả và đạt được liễu nghĩa, đó cũng chính là không nghĩa.
Nói như thế thì mọi chuyện
là vô nghĩa hay chăng?
“Liễu nghĩa là thực chứng
được một cách trọn vẹn không thiếu sót các pháp thế gian và xuất thế gian.” Đến
lúc ấy nó chẳng còn pháp nào để tu, chẳng còn pháp nào để chứng nữa
cả.
Vĩnh Gia Huyền Giác Đại sư
có viết trong Chứng Đạo ca:
Quân bất kiến
Tuyệt học vô vi nhàn đạo
nhân.
Bất trừ vọng niệm, bất cầu
chân.
Người tu đạo từ nay không
còn phải làm việc gì nữa cả, chẳng cần liệng bỏ những vọng niệm vì đã trừ dẹp
xong hết rồi. Chỉ còn những ai chưa hoàn toàn trừ sạch vọng tưởng mới phải cần
liệng bỏ nó.
Người tu đạo không cần
phải tìm cầu chân lý vì đã thể nhập và đã chứng nghiệm được chân lý rồi. Chỉ có
những người chưa đạt được mới tìm cầu chân lý.
Những dòng này diễn tả về
liễu nghĩa. Chứng được liễu nghĩa cũng còn được gọi là liễu vì đạo lý Đức Phật
giảng dạy quá siêu việt, phải cần nghiên cứu toàn diện mới mong đạt được chỗ
cùng tận của nghĩa lý.
Khi một người đã dốc hết
sức để mong nghiên cứu cùng tận mọi giáo nghĩa Đức Phật đã dạy, đến khi họ không
còn nữa mà nghĩa lý hoàn toàn còn đó. Vấn đề bất liễu nghĩa vẫn còn có một ý
nghĩa chưa thông suốt còn lại ở đó.
Liễu nghĩa là chẳng còn
nghĩa gì trong đó cả. Hoàn toàn “thanh tịnh” khi đạt đến chỗ liễu nghĩa nên gọi
là mật nhơn, là bản thể của định lực. Khi đạt được bản thể này, có nghĩa là quý
vị đã tu và chứng được liễu nghĩa. Nếu quý vị không tu thì chẳng chứng được liễu
nghĩa, là nghĩa bao trùm tất cả các nghĩa khác.
Quý vị lại hỏi: “Nhưng
Thầy lại bảo rằng liễu nghĩa ấy không hiện hữu?
Đúng vậy, nhưng cái không
hiện hữu ấy mới thực sự hiện hữu.
Sự tồn tại tương quan
không phải là hiện hữu thực sự. Khi quý vị đã chứng thực được liễu nghĩa, không
còn thêm một ý nghĩa nào để chứng đắc nữa, là quý vị đã đạt đến chỗ rốt
ráo.
“Điểm thành tựu rốt ráo ấy
là gì?”
Đó là cảnh giới Phật, là
quả vị Phật. Nhưng nếu quý vị muốn đạt đến cảnh giới Phật, quý vị phải tiếp tục
tu tập Bồ-tát đạo, cho nên trong tên kinh lại có đề cập đến.
CHƯ
BỒ-TÁT VẠN HẠNH
Chư nghĩa là tất cả, là vô
số. Công hạnh của hàng bồ-tát nhiều không thể tính đếm được. Nói tóm lại, có tất
cả 55 quả vị của hàng bồ-tát . Sẽ được giải thích chi tiết trong kinh văn. Gồm
có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa, Đẳng
giác và Diệu giác. Năm mươi lăm quả vị này không phải là chỉ đề cập đến 55 vị
bồ-tát , đúng hơn là nói đến 55 trình tự mà người phát tâm tu bồ-tát đạo phải
trải qua mới chứng đạt Phật quả.
Vạn hạnh là vô số phương
pháp mà các vị bồ-tát tu tập. Có tám mươi bốn nghìn pháp môn. Nhưng trong đề mục
kinh chỉ nói đến vạn hạnh. Để bổ sung cho vạn hạnh, các vị bồ-tát còn phải tu
tập Lục độ ba-la-mật. Ba-la-mật (pāramitā) là phiên âm từ tiếng Sanskrit, có
nghĩa “đến bờ bên kia,” là hoàn thành viên mãn công hạnh của người tu hành. Nếu
quý vị quyết tâm tu tập thành Phật, chứng đạt Phật tánh thì đó là ba-la-mật. Nếu
quý vị muốn vào Đại học và lấy bằng Tiến sĩ, thì khi đạt được học vị ấy được gọi
là ba-la-mật. Nếu quý vị đang đói, muốn ăn, mà được ăn đó là ba-la-mật. Khi quý
vị buồn ngủ mà được nằm xuống ngủ một giấc thì đó gọi là ba-la-mật. Chữ ba la
(bwo lwo) trong tiếng Hán nghĩa là trái thơm (dứa); mật (mi) là mật ong. Nên
ba-la-mật còn có nghĩa là ngọt hơn cả vị ngọt của trái thơm.
Các vị bồ-tát đều tu tập
sáu hạnh ba-la-mật. Đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và
trí tuệ.
Bố thí: có ba
dạng:
1- Tài thí : bố thí tiền
của, tài sản
2- Pháp thí: bố thí
pháp
3- Vô úy thí: bố thí sự
không sợ hãi.
-Bố thí tài sản: Mặc dù
tiền bạc là thứ mọi người ưa thích nhất, nhưng nó cũng là thứ dơ bẩn nhất trên
đời. Chỉ cần nghĩ xem nó đã được chuyền tay qua bao nhiêu người và nó chứa bao
nhiêu thứ vi trùng thì sẽ biết. Trong đạo Phật, tiền bạc được xem là thứ bất
tịnh. Trước hết, nguồn gốc của nó thường là bất tịnh hoặc là do trộm cắp, hoặc
là biển thủ, tham ô mà có
Có người không bằng lòng,
nói rằng: “Tiền này do tôi kiếm được từng đồng bằng nghề nghiệp hoàn toàn trong
sạch."
Nay dù quý vị kiếm được
tiền bằng cách hợp pháp đi nữa thì quý vị vẫn không thể từ chối được rằng đồng
tiền tự nó rất bẩn và chứa rất nhiều mầm vi trùng gây bệnh. Vậy mà rất nhiều
người thích nó. Khi tiền được chuyền tay nhau, nhiều người đã thấm nước miếng
của mình vào ngón tay để đếm, việc này tạo nên mối nghi ngờ cao độ, chính tiền
đã truyền mầm bệnh truyền nhiễm. Nhưng mặc dù sự bất tịnh của nó tác hại đến
thế, mà người ta vẫn không ngại kiếm cho được nhiều tiền. Nếu quý vị cho tôi
toàn bộ tiền bạc của nước Mỹ này, tôi sẽ không cho đó là quá nhiều. Và nếu đem
tất cả khoản tiền ấy cho quý vị, thì tôi tin là quý vị cũng chẳng phản đối.
Nhưng khi quý vị đã có nhiều tiền rồi thì sẽ có luôn một số vấn đề rắc rối. Ban
đêm quý vị không thể ngủ ngon giấc. Quý vị bận tâm phải tìm nơi an toàn để cất
giữ. Vì tiền bạc đã làm cho quý vị bận tâm, nên bản chất nó là bất thiện. Nhưng
dù cho nó không tốt mà nhiều người vẫn ưa thích, không thể từ bỏ nó được. Người
có thể thực hành việc bố thí ba-la-mật tài sản, tiền bạc là người đang tu tập
bồ-tát đạo.
Người ta không dễ gì thực
hành việc bố thí. Tâm con người là nơi giao nhau của hai cực âm và dương, là đấu
trường của lý trí và tình cảm. Ví dụ như khi thấy có người gặp hoạn nạn, bị đói
khát, theo đạo lý làm người, quý vị quyết định cho người ấy một đô-la nhưng khi
thò tay vào túi lấy tiền, thì tâm tham lam đã níu giữ ta lại, khiến khởi dậy
niệm thứ hai: “Hãy đợi một chút, ta không thể cho nó đô-la này được. Đây là đồng
tiền lẻ cuối cùng ta vừa đổi được. Nếu ta cho nó, ta sẽ hết tiền đi xe buýt và
ta phải đi bộ. Ta không thể cho được.” Tâm niệm đầu tiên thúc dục mình phải có
lòng bao dung với người khác; nhưng lập tức nó lại bị dẫn dắt bởi tâm niệm tiếp
theo, tính toán cho sự lợi lạc riêng của chính mình. Nên anh ta bỏ tiền lại vào
túi, không cho nữa. Điều
này xảy ra hoàn toàn giống nhau từ tầm mức nhỏ cho đến mức độ to lớn; từ một
đồng xu cho đến cả triệu đô la. Niệm đầu tiên là cho, niệm thứ hai là lo lắng
cho chính mình.
Bố thí tài vật không phải
dễ dàng gì. Ngay cả có người khi làm việc gì cũng nghĩ: “Thật ngu đần mới đem
tiền cho các người. Tại sao các người chẳng đem tiền của quý vị đến cho tôi.”
Rất dễ dàng khi nói đến bố thí nhưng đến khi thực hành thì khó.
Từ hồi còn trẻ tôi không
biết đếm. Bất kỳ khi nào tôi có tiền, tôi đều bố thí sạch. Nếu tôi có được một
đô-la, tôi cho một đô-la, nếu có hai đô-la, tôi cũng cho cả hai, tôi không thích
tiền. Nhiều người xem cách đối xử của tôi là ngu đần vì tôi chẳng nghĩ gì đến
việc lo cho mình cả. Tôi chỉ biết cách giúp đỡ người khác.
Bằng cách làm lợi ích cho
người khác thì mới có thể làm sinh khởi tâm bồ-tát trong mình. Những người đã
phát tâm bồ-tát thường thích làm lợi ích cho mọi người hơn là làm lợi ích cho
chính mình. Họ cho rằng: “Nếu tôi phải chịu khổ và chịu mọi tai họa của mọi
người thì tốt hơn. Tôi không muốn mọi người chịu khổ nạn.”
Các vị bồ-tát thường làm
lợi ích cho chúng sinh bằng cách thực hành các việc thiện mà chẳng bận tâm đến
sự thiệt thòi của mình.
Có một số người phí thời
gian để chắc chắn mình mua sắm được giá rẻ. Khi họ dự định mua một thứ gì họ so
sánh giá cả ở các siêu thị cho đến khi họ mua được với giá hời nhất. Những thứ
họ mua hóa ra chỉ rẻ hơn với những thứ làm bằng nguyên liệu tái sinh được chế
biến từ sự thử nghiệm khoa học, trông bên ngoài rất hào nhoáng nhưng hư hỏng
ngay khi dùng lần đầu. Thế nên, mặc dù quý vị nghĩ rằng mình đã có một ý tưởng
tuyệt diệu, nhưng cuối cùng chính mình lại bị thiệt thòi. Nên thay vì thói quen
tính toán ích kỷ như vậy, quý vị nên làm việc tốt lành cho người
khác.
Bố thí pháp: Như việc tôi
giảng kinh và thuyết pháp cho quý vị nghe đây gọi là bố thí pháp. Kinh nói:
“Trong tất cả các việc bố thí. Bố thí pháp là cao cả nhất”
Tiền bạc quý vị đem ra bố
thí có thể tính đếm được, còn Pháp không thể tính toán được. Nếu có người đến
pháp hội nghe giảng kinh, rồi tu tập và được giác ngộ, được chánh tri kiến. Quý
vị thử tưởng tượng công đức phát xuất từ bố thí pháp lớn đến ngần nào? Vì bố thí
chỉ một lời pháp cũng có thể khiến cho người ta chứng được Phật quả, nên đó là
bố thí cao cả nhất.
Bố thí sự không sợ hãi (vô
úy thí): khi quý vị đem sự bình thản, trầm tĩnh đến cho những nạn nhân của những
vụ cướp đoạt, hỏa hoạn hay những tai ương khác khiến họ không còn hoảng hốt và
kinh hãi, quý vị ̉ trấn an họ và khuyên giải bằng cách nói: “Đừng sợ! bất luận
khó khăn nào cuối cùng rồi cũng qua thôi”
Chẳng hạn, cách đây vài
hôm, một nữ ca sĩ đánh mất ví tiền. Tôi để ý đến khuôn mặt lo âu của cô ta nên
hỏi cô ta gặp phải chuyện gì.
Cô ta trả lời: “Con mất ví
tiền, không biết phải làm sao bây giờ.” Tôi nói với cô ta một cách chắc chắn:
“Cô sẽ tìm được lại thôi, đừng băn khoăn nữa.”
Hóa ra lời tôi nói như có
phép thần thông. Cô ta trở lại nơi đánh mất, thấy ví tiền nằm ngay nơi cô ta vừa
bỏ đi. Đó là một ví dụ về vô úy thí.
Tôi nói với cô ta: “Đó chỉ
là chuyện nhỏ, chắc chắn cô sẽ gặp những chuyện to tát hơn. Nếu cô hiểu được
chuyện nhỏ, thì cô sẽ giải quyết được việc lớn.”
-
Trì giới: Ba-la-mật thứ hai mà bồ-tát phải thực hành là trì giới. Điều này liên
quan đến giới luật, một trong những phương diện quan trọng nhất của sự tu tập
Phật pháp.
Giới là gì? Giới là những
phép tắc về sinh hoạt mà hàng đệ tử Phật phải tuân theo. Giới có tác dụng ngăn
ngừa không cho việc ác sinh khởi và đề phòng những điều lỗi lầm không cho nó xảy
ra.
Khi quý vị trì giới thì
quý vị không còn phóng tâm mình vào những việc ác; thay vào đó quý vị tự hành xử
một cách chân chính và cúng dường các hạnh lành ấy lên chư Phật.
Có bao nhiêu giới
điều?
Những người cư sĩ đã quy y
Tam bảo: Phật, Pháp,Tăng; muốn hoàn thiện hơn nữa thì nên thọ năm giới, đó là:
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng các
chất độc hại gây kích thích. Phải phát nguyện giữ những giới này đến suốt đời.
Sau khi thọ năm giới thì phát nguyện thọ Bát quan trai giới.
Ngoài ra còn có mười giới
của sa-di. Thọ giới sa-di mới chính thức làm người xuất gia. Từ đó mới có thể
tiến lên thọ giới Cụ túc, tức là hai trăm năm mươi giới dành cho tỷ-khưu tăng và
ba trăm bốn mươi tám giới cho tỷ-khưu ni. Còn có giới của hàng bồ-tát gồm mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Mười giới đầu tiên được gọi là giới
trọng, vì khi một người đã phạm một trong mười giới trọng này thì không thể tự
mình sám hối được, nếu phạm một trong những giới khinh thì có thể tự sửa đổi lỗi
lầm và bắt đầu lại.
Khi Đức Phật gần nhập
niết-bàn, Ngài A-nan thưa hỏi bốn câu hỏi, một trong số đó là: “Khi Thế tôn còn
tại thế, Như Lai là thầy của chúng con. Khi Thế tôn nhập diệt rồi, chúng con
nhận ai làm thầy?"
Thế tôn trả
lời:
“Sau khi Như Lai nhập
diệt, các ông nên lấy giới luật làm thầy của mình.”
Đức Phật chỉ rõ cho hàng
xuất gia: tỷ-khưu, tỷ-khưu ni phải nên nhận giới luật làm thầy của mình.
Cư sĩ muốn thọ giới pháp
nên tìm đến một vị Sư trưởng – là người xuất gia đã thọ giới tỷ-khưu – để cầu
giới pháp. Các giới căn bản phải được một vị xuất gia đã thọ giới tỷ-khưu trao
truyền. Theo giới luật của Đức Phật, tỷ-khưu ni không được truyền
giới.
Đối với người tu hành,
việc thọ giới là tuyệt đối cần thiết. Người giữ gìn giới hạnh thanh tịnh sẽ có
vẻ đẹp sáng rỡ như viên minh châu. Vào đời Đường có Đạo Tuyên Luật sư ở núi
Chung Nam, Ngài giữ giới luật rất tinh nghiêm đến mức chư thiên đến cúng dường.
Phước đức của việc giữ giới rất lớn. Nếu quý vị học Phật pháp mà không giữ giới
thì cũng giống như cái bình bị lỗ rò. Giữ giới cũng như bít lỗ rò ấy lại. Thân
thể con người có nhiều lỗ thoát, nó rỉ chảy ra. Nếu quý vị giữ gìn giới luật
trong một thời gian dài, thì nó sẽ không chảy thoát ra nữa.
Trong pháp hội
Thủ-lăng-nghiêm này quý vị sẽ được nghe giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, được hướng
dẫn trực tiếp, kết hợp cả học hỏi, nghiên cứu và tu tập hành trì. Thời khóa tu
học rất căng thẳng, từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối mỗi ngày. Nghiêm ngặt hơn ở
trường học bên ngoài nhiều. Đây là trường học để giải quyết vấn đề sinh tử.
Khi nghe giảng kinh
Thủ-lăng-nghiêm quý vị sẽ hiểu được ý kinh và thực hành tu tập thông qua tham
thiền. Thông qua sự kết hợp giữa nghiên cứu cho hiểu thấu ý kinh rồi thực hành,
chúng ta có thể bước đi vững chãi trên mặt đất và tiếp xúc với công việc không
bằng sự bất cẩn và thờ ơ như trước đây nữa, mà bằng sự nỗ lực tinh tấn trong tu
học. Quý vị sẽ giải quyết được vấn đề sinh tử, đạt được sự lợi ích vô cùng to
lớn.
Một ví dụ sẽ minh họa giúp
cho chúng ta hiểu được giá trị khi kết hợp giữa hiểu biết và thực hành. Một
người bị mù và một người bị què chân sống chung với nhau trong một gia đình,
trong đó có vài người khác cùng chung sống để giúp đỡ cho họ. Song, một hôm
những người kia đều có việc phải đi ra ngoài, người đi câu cá, người đi mua sắm,
người đi chơi, người mù và người què là những người còn lại trong nhà. Trong cái
ngày đặc biệt ấy căn nhà bỗng xảy ra hỏa hoạn, người mù không thấy được đường
nên không thể thoát ra được. Người què thấy được, nhưng không có đôi chân lành
lặn để đi ra. Thật nan giải! Chắc chắn họ sẽ bị chết cháy thôi!
Lúc đó, có một vị thiện
tri thức cho họ lời khuyên: “Các anh đều có thể thoát được nạn cháy, có thể
thoát ra được ngôi nhà lửa này. Làm cách nào để thoát? Người mù hãy sử dụng đôi
mắt của người què và người què sử dụng đôi chân của người mù.” Họ liền theo lời
chỉ dẫn của thiện tri thức.
Có phải người què móc mắt
của mình ra rồi gắn vào hốc mắt của người mù chăng? Bất kỳ một cuộc giải phẫu
nào với phương pháp như thế đều thất bại cả. Nếu như người ta tìm cách gắn đôi
chân của người mù vào thân của người què cũng đều là vấn đề nan giải, vượt qua
ngoài quy luật tự nhiên. Thế họ làm như thế nào?
Họ tạo ra được một tình
huống tốt nhất bằng cách người mù cõng người què. Người què có mắt nên hướng
dẫn: “Quẹo phải, quẹo trái, đi thẳng,” người mù có đôi chân, tuy không thấy
đường nhưng có thể nghe được lời chỉ dẫn của người què. Nhờ nghe lời khuyên đúng
lúc và hợp lý, cả hai người đều tự xoay xở để tự cứu được mình.
Khi quý vị nghe chuyện
này, xin đừng hiểu lầm là tôi ví quý vị như người mù và què. Chẳng phải quý vị
là người mù và què đâu mà tôi mới là mù và què. Nhưng nhờ có hiểu biết được đạo
lý nên tôi mượn ví dụ để giảng, chẳng phải là nói về quý vị và tôi.
Quý vị không nên quá tự
cao, đừng có dựa vào sự hiểu biết độc đáo của mình hoặc là trí thức rộng lớn của
mình. Thế tại sao quý vị không chứng được Phật quả? Chỉ vì quý vị quá ư ngạo
mạn.
Quý vị nghĩ: “Ta có kiến
thức rất uyên bác.” Nhưng bất kỳ những thứ gì mà quý vị học được đều làm chướng
ngại quý vị. Nếu quý vị có nhiều kiến thức, thì quý vị sẽ bị gánh nặng của kiến
thức ấy, nếu quý vị có nhiều năng lực thì năng lực ấy sẽ làm chướng ngại khiến
quý vị không thể chứng đạo được. Chúng ta nên loại trừ hết những ảo tưởng về
kiến thức thông minh ấy của quý vị, của tôi và của mọi người. Hãy để cho những
tư tưởng ấy an định, phóng xả và làm cho nó thanh tị̣nh. Hãy để cho lòng mình
trở nên trống rỗng.
Để làm gì? Để quý vị có
thể hưởng được trọn vẹn hương vị nhiệm mầu của đề hồ.[7] Đó là Phật pháp vi diệu tối
thượng.
Một hôm có một phụ nữ trẻ
đang làm luận án Tiến sĩ thú nhận rằng trong đầu của cô ta chứa đầy rác. Nay
chúng ta sẽ dùng lời của cô ta để nói lại: “Hãy liệng sạch rác rến ấy ra khỏi
đầu, thì cô ta sẽ nghe được kinh. Lúc ấy, mỗi điều nghe sẽ được ngàn điều
ngộ.
-Nhẫn nhục : có ba loại
nhẫn nhục: sinh nhẫn, pháp nhẫn và vô sinh pháp nhẫn.
-Tinh tấn : nghĩa là
thường xuyên tiến lên phía trước không lui sụt trong công phu tu tập. Ví dụ về
hạnh tinh tấn cao nhất đã được nói trong kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ-tát
Bổn sự̣. Bồ-tát Dược Vương quấn mình trong vải tẩm dầu hương rồi cung kính đến
trước Đức Phật đốt mình để cúng dường.
Quý vị thắc mắc: “Ngài đốt
mình như vậy để làm gì vậy?”
Vì Bồ-tát Dược Vương thấy
rằng lòng từ của Đức Phật quá tối thượng, quá sâu mầu, quá vĩ đại, không có cách
nào có thể báo đáp được ân đức ấy. Nên Bồ-tát đã đem hết thân tâm và tánh mạng
của mình cúng dường lên Đức Phật.
Quý vị hỏi: “Ngài đốt thân
trong bao lâu?”
-
Trong một thời gian rất dài, không có cách nào tính đếm được khoảng thời gian
ấy.
Khi Đại sư Trí Giả, vị tổ
thứ ba của tông Thiên Thai được đọc phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự trong Kinh
Pháp Hoa đến đoạn “...Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai”
(tâm chân chánh tinh tấn ấy, mới được gọi là pháp chân thật cúng dường Như Lai),
thì Ngài liền nhập vào định. Trong định, Ngài Trí Giả thấy pháp hội do Đức Phật
giảng kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu vẫn chưa tan.
Đại sư Trí Giả thấy Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn đang ngồi giảng pháp ở đó, chuyển bánh xe đại pháp giáo
hóa vô lượng chúng sinh. Ngay đó, Đại sư Trí Giả hoát nhiên nhập vào Pháp Hoa
Tam-muội và đạt được Nhất triền đà-la-ni. Sau khi Ngài xuất định, với trí tuệ
lớn lao mà ngài đã tự khai mở được, Ngài lập tông Thiên Thai. Đó là cảm ứng do
niệm tưởng công đức của Bồ-tát Dược Vương khi đốt thân cúng dường Đức
Phật.
Một số người sẽ phản đối:
“Nếu có nhổ một sợi tóc trên đầu tôi mà làm lợi cho cả thế giới, tôi cũng không
làm.” Đó là họ chỉ biết riêng mình mà không cần biết làm lợi ích cho người khác.
Họ không thể được gọi là chân thực tinh tấn.
-
Ba-la-mật thứ năm là Thiền định: có bốn loại thiền và tám thứ định. Còn Cửu thứ
đệ định đã có đề cập trong phần kinh văn của kinh Thủ-lăng-nghiêm nên tôi sẽ
không giảng ở đây. Nay chỉ giảng vắn tắt về Tứ thiền.
-Sơ thiền: gọi là Ly sanh
hỷ lạc địa. Trong trạng thái thiền đầu tiên, người đạt đến cảnh giới này có thể
làm cho mạch ngưng đập.
-Nhị thiền: gọi là Định
sinh hỷ lạc địa. Trạng thái định này vững chãi hơn ở Sơ thiền. Đạt đến cảnh giới
này có thể dừng được hơi thở. Nhưng không có nghĩa là chết. Thay vào đó là một
cảnh giới khác của ý thức. Hơi thở bên ngoài đình chỉ nhưng hơi thở bên trong
vẫn còn. Hàng phàm phu chỉ sử dụng được hơi thở bên ngoài. Nếu người có thể sử
dụng hơi thở bên trong thì họ được trường sinh bất tử, muốn sống bao lâu cũng
được. Tuy nhiên, dù có sống đến bao lâu cũng chỉ trở thành con quỷ giữ thây vô
dụng, chỉ lo giữ cái túi da hôi hám này mà thôi.
-Tam thiền: gọi là Ly hỷ
diệu lạc địa. Mọi người tu tập đều thích chứng được “diệu lạc” này. Tuy vậy,
niềm vui (phước lạc) ở cõi thiền thứ ba này tách biệt hẳn với niềm vui thông
thường, vì nó cực kỳ vi diệu. Trong cảnh giới này ý thức hoàn toàn đình
chỉ.
-Tứ thiền: còn gọi là Xả
niệm thanh tịnh địa. Đến đây, tất cả mọi niệm tưởng đều được xả trừ. Hành giả
chỉ còn biết những gì xảy ra ở cõi trời và người nhưng hành giả không nên dính
mắc, ngưng trệ ở cảnh giới này. Đạt được cảnh giới thiền thứ tư chỉ là bước đầu
tiên của lộ trình tu đạo. Hành giả nên nhớ rằng đến cảnh giới thiền thứ tư mới
chỉ là một bước tiến đặc biệt thôi. Đó chỉ là bước đầu tiên trên đường hướng tới
Phật quả, chẳng phải là thành tựu quả vị đầu tiên của hàng a-la-hán.
-Ba-la-mật thứ sáu là
bát-nhã (prajñā), là phiên âm từ tiếng Sanskrit, tạm dịch là trí tuệ. Có nhiều
người xem trí thông minh thế gian là trí tuệ. Không phải thế. Trí thông minh là
kiến thức thế gian xuất phát từ học hỏi các môn khoa học, triết lý và những môn
khác mà có. Còn trí tuệ là hiểu biết xuất thế gian, do chứng được Phật quả mà
được. Đây là bát-nhã. Từ bát-nhã (prajñā) không dịch được vì nó có quá nhiều
nghĩa, nằm trong năm loại thuật ngữ không nên phiên dịch (ngũ chủng bất phiên).
Đó là:
1. Những thuật ngữ liên
quan đến tính chất huyền bí thâm mật (bí mật chi).
2. Những thuật ngữ có
nhiều nghĩa (hàm đa nghĩa).
3. Những thuật ngữ liên
quan đến những vật mà ngôn ngữ địa phương không có (thử phương vô).
4. Những thuật ngữ theo
truyền thống đã không phiên dịch (thuận cổ lệ).
5. Những thuật ngữ khiến
người đọc phát khởi thiên tâm (vi sinh thiện).
Năm nguyên tắc này được
Ngài Huyền Trang đời Đường đề xướng ra trước tiên.
Bát-nhã có ba
nghĩa:
1. Văn tự bát-nhã: là
những điều ghi chép trong kinh tạng.
2. Quán chiếu bát-nhã: là
trí tuệ có được qua sự hồi quang phản chiếu, qua công phu “phản văn văn tự tánh”
- hướng tánh nghe vào tự tâm để nhận ra tự tánh của chính mình. Trí tuệ này
phát sinh khi mắt tâm không còn tìm kiếm bên ngoài nữa, mà quay trở lại quán sát
bên trong mình. Với ánh sáng trí tuệ quán chiếu, quý vị có thể chiếu soi và quét
sạch mọi tối tăm mê muội chung quanh mình. Khi trí tuệ lưu xuất từ tâm, quý vị
trở nên rất sáng suốt và thanh tịnh, không còn bị vây phủ bởi trần cấu ô nhiễm
nữa.
3. Thực tướng bát-nhã: là
bát-nhã vi diệu nhất, bất khả tư nghì. Đồng nghĩa với từ liễu nghĩa trong đề
kinh này. Thực tướng ấy không chứa đựng hình tướng nào trong đó cả mà chẳng có
gì ở ngoài thực tướng ấy. Khi quý vị cho là vô tướng thì mọi pháp đều do đó mà
biểu hiện, nên gọi là thực tướng. Nếu quý vị nhận ra được điều này thì quý vị
rất gần với Đức Phật, chỉ còn cách Ngài có một bước.
Kinh Kim Cương nói:
"Phàm sở hữu tướng, giai
thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.”
Mọi pháp nếu được biểu
hiện qua hình tướng đều là hư giả. Nếu như ngay trong sự biểu hiện của các pháp,
mà quý vị nhận ra được tính chất vô tướng của nó thì lúc ấy quý vị thấy được
Phật.
Thực tướng bát-nhã là nhận
rõ được bản thể của các pháp và thâm nhập vào căn nguyên của các pháp. Đạt đến
cội nguồn của các pháp rồi tức là như thấy được Phật.
Rất dễ khi bàn về những
kinh nghiệm như vậy, nhưng rất khó thể nhập. Quý vị không thể hiểu được bằng
cách chỉ nghe giảng kinh mà phải tự mình dấn bước vào con đường tu đạo, dù việc
ấy không dễ dàng gì, chúng ta cũng phải nghĩ cách đi trên con đường đó. Ví dụ có
người nói: “Tôi rất muốn đi Nữu-ước, nhưng đường quá xa và vé máy bay quá đắt
nên tôi do dự không muốn đi.” Song, nếu quý vị không bao giờ đi thì chẳng bao
giờ quý vị biết thành phố Nữu-ước như thế nào cả. Chứng ngộ quả vị Phật cũng như
vậy. Một mặt quý vị muốn thành Phật nhưng mặt khác có một lực trì trệ kéo ngược
lại, khiến quý vị không bao giờ đạt đến đích cả. Cũng như nhìn biển mênh mông
rồi buông tiếng thở dài: “Tu học Phật pháp thật là khó, ta sẽ tìm đạo gì đó dễ
tu hơn.” Nếu quý vị có thái độ đó quý vị sẽ không bao giờ chứng được quả vị
Phật. Nếu quý vị không muốn thành Phật thì không nói làm gì, nhưng nếu quý vị
muốn thành Phật thì phải dấn mình vào khó khăn, vì chỉ trong khó khăn thì mới
thấy được cái dễ.
Thiền ngữ Trung Hoa có
câu:
“Bất lịch nhất phiên hàn
triệt cốt
Yên đắc mai hoa phác tị
hương”[8]
Tạm dịch:
Nếu chẳng một phen xương
thấm lạnh
Hoa mai đâu dễ tỏa mùi
hương.
Nhờ chịu đựng những cơn
lạnh khắc nghiệt vào giữa mùa Đông ở Trung Hoa mà có được mùi hương rất ngọt
ngào thanh khiết như thế.
Mọi chúng sinh đều thừa
hưởng được Thực tướng bát-nhã trong mình. Nhưng cũng như “mật nhơn” trong kinh
này. Thực tướng bát-nhã ấy chưa được hiển bày. Thế nên họ không nhận ra tự tánh
vốn có sẵn nơi mình. Chúng ta không nhận ra tự tánh bát-nhã trong ta, là thực
tướng bát-nhã vốn đầy đủ trong mình, nên chúng ta như kẻ nghèo nàn trong Phật
pháp. Bát-nhã là trí tuệ mà chúng ta luôn luôn có sẵn, chúng ta phải nên mở
cánh cửa kho tàng trí tuệ này ra thì khuôn mặt xưa nay sẽ hiển bày. Khi chúng ta
chưa nhận ra mình có sẵn Thực tướng bát-nhã trong mình thì cũng như mang một
kho tàng chưa khai quật ở trong lòng. Tuy nhiên, khai quật kho vàng lên vẫn chưa
đủ, còn phải ra sức luyện vàng mới sử dụng được. Kinh nói rằng mỏ vàng bát-nhã
có sẵn trong mỗi người nhưng nếu ta không tinh luyện thì ta chẳng dùng được.
Chúng ta phải phát tâm luyện chất vàng ròng thực tướng bát-nhã, khi ấy Phật tánh
bản hữu sẽ tự xuất hiện.
Đức Phật dạy:
Tất cả mọi chúng sinh đều
có Phật tánh và đều có thể tu tập thành Phật.
Nhưng quý vị không nên
nghĩ rằng: “Đức Phật nói rằng ai cũng có thể làm Phật. Vậy tôi là Phật rồi,
chẳng cần tu hành gì nữa cả.”
Điều này cũng giống như
biết mỏ vàng nằm đó nhưng không muốn đào lên để dùng.
Đây là những giải thích sơ
lược về lục độ ba-la-mật trong hạnh nguyện của hàng bồ-tát. Mọi người đều có thể
quyết định tu tập hạnh bồ-tát để trở thành bồ-tát. Nếu quý vị có chủng tử bồ-tát
thì quý vị đã là một vị bồ-tát sơ phát tâm. Một vị bồ-tát không thể nói một cách
ích kỷ rằng: “Chỉ có tôi mới có thể trở thành bồ-tát, còn quý vị thì không bao
giờ! Các ông không thể như tôi được.”
Không những mọi người chỉ
có thể trở thành bồ-tát mà họ còn có thể trở thành Phật nữa. Tôi tin rằng mọi
người trong pháp hội này, một ngày nào đó sẽ thành Phật.
THỦ
LĂNG NGHIÊM
Thủ-lăng-nghiêm
(Śūraṃgama) là tiếng Sanskrit,
có nghĩa là “Bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ.” Tất cả mọi hiện tượng, mọi vật
thể, như núi, sông, đất đai, nhà cửa, người, vật, các loài sinh từ bào thai, từ
trứng, từ nơi ẩm thấp hoặc loài hóa sinh.[9] Tất cả những hiện tượng đều phải được thể
nghiệm qua chiều sâu và tính vững chãi mới có thể đạt được bản thể của định, bản
thể của “mật nhơn.” Khi hành giả đạt được “đại định” của “mật nhơn”, người ấy là
một bằng chứng của “liễu nghĩa.” Khi một hành giả đã đạt được liễu nghĩa, nghĩa
là hành giả ấy đã tu tập lục độ vạn hạnh của bồ-tát, đã chứng được “đại hạnh.”
Chứng được “đại hạnh” rồi sau đó mới thành tựu được loại định cứu cánh kiên cố
nhất trong các hiện tượng, đó là “đại quả”– kết quả lớn nhất trong tất cả các
kết quả.
ĐẠI
PHẬT ĐẢNH
Là đạt đến chỗ vi diệu của
bốn sự vĩ đại. Đó là nhân-nghĩa-hạnh-quả vĩ đại. Bốn loại ấy còn có thể được gọi
là Diệu nhân, Diệu nghĩa, Diệu hạnh, Diệu quả. Tuy nhiên, chữ “Diệu” không diễn
tả toàn vẹn được nghĩa này, nên chữ “Đại” được dùng để diễn tả sự to lớn của bốn
thứ ấy.
Hiện tượng kiên cố rốt ráo
nhất là đại định, không có định thì thân và tâm bị phân tán không phối hợp chặt
chẽ với nhau được. Quý vị dự tính đi về hướng Nam nhưng chân quý vị lại muốn đi
về hướng Bắc. Hoặc là quý vị muốn làm việc thiện, nhưng mình không tự chủ được
và thay vì đó là dẫn đến sự phạm pháp. Sự thiếu sót một tấm lòng thành khẩn,
thường hằng để thành tựu đạo nghiệp cũng giống như không có yếu tố
định.
Nên trong khi nghiên cứu
Kinh Thủ-lăng-nghiêm mọi người nên hết sức “chân, thành, hằng.” Quý vị phải phát
tâm nguyện: “Tôi quyết tâm học cho đến khi hiểu được cốt tủy của kinh
Thủ-lăng-nghiêm.” Quý vị không nên dừng lại nửa đường và quay về hướng khác,
không nên đánh trống giải tán buổi họp quá sớm. Đừng nên nói: “À, ta đã học quá
nhiều ngày mà chẳng hiểu gì cả. Đây là một loại rất khó học. Tôi chẳng muốn học
tí nào nữa cả.”
Với lòng thành khẩn, quý
vị sẽ học kinh trong tinh thần rất nghiêm túc và vẫn giữ gìn được tâm ý khi đang
làm bất kỳ việc gì khác. Hoàn toàn để hết tâm ý vào việc học tập nên mọi vọng
tưởng tiêu tan sạch. Phải học một cách siêng năng đến nỗi quên cả ăn, đến tối
khi nằm xuống ngủ, chẳng còn một vọng niệm nào sinh khởi lên nữa, chỉ còn những
giáo nghĩa.
Với sự thường xuyên (hằng)
quý vị không nên học vài ba ngày rồi nghỉ. Đừng có thấy rằng học Phật pháp thì
khó khăn và chán nản. Đừng có trù tính đi dạo công viên hay đến những nơi giải
trí hấp dẫn. Đừng nên bịa ra để tự bào chữa cho mình: “Chẳng có giá trị thực tế
khi học môn này cả. Nó đã quá cổ xưa trong thời đại khoa học này”, rồi bỏ học,
không có tâm hằng viễn, quý vị sẽ không có được cứu cánh kiên cố.
Tu tập với tâm nguyện
“chân-thành-hằng,” quý vị sẽ đạt được sự “kiên cố” và đạt được định lực, quý vị
sẽ không bị xoay chuyển bởi hoàn cảnh nữa. Không bị ảnh hưởng, tác động bởi môi
trường chung quanh. Đây là giải thích tổng quát về đề kinh này.
Kinh: là dịch chữ Sūtra
trong tiếng Sanskrit. Người Trung Hoa dùng chữ kinh có nghĩa là khế kinh. Khế
nghĩa là trên thì khế hợp với đạo lý của chư Phật, dưới thì phù hợp với căn cơ
của mọi chúng sinh, để giáo hóa chúng sinh trong mọi lúc, mọi thời.
Kinh nghĩa là “con đường”,
có thể dẫn dắt người phàm phu tiến lên thành Phật. Kinh còn có bốn nghĩa:
Quán: xuyên suốt. Nghĩa lý
Đức Phật giảng trong kinh ví như một sợi chỉ hồng xuyên suốt qua chuỗi
hạt.
Nhiếp: Kinh có thể giáo
hóa thích hợp bao gồm hết mọi căn cơ. Tức là đối với mọi căn cơ chúng sinh đều
có pháp riêng biệt để giáo hóa. Nên nói “tùy căn cơ để bố thí pháp, tùy người
bệnh mà cho thuốc.”
Kinh cũng như thỏi nam
châm, mọi chúng sinh được ví như sắt vụn, đều bị hút về thỏi nam châm. Kinh
Thủ-lăng-nghiêm được ví như thỏi nam châm, nên được gọi là kiên cố. Nhưng Kinh
Thủ-lăng-nghiêm còn mạnh hơn cả thỏi nam châm. Nó có thể giúp cho con người
không bị trầm luân trở lại. Vì kinh nhiếp phục hết tất cả chúng sinh, giúp cho
họ không đọa lạc trở lại vào trong địa ngục ngạ quỷ, súc sinh. Họ bị mê mờ đến
nỗi dù muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy cũng không được. Nên kinh Phật vi diệu
biết bao! Phật tử đến đây nghe giảng kinh, một khi nghe liền được thu hút vào
niềm thích thú. Khi nghe được đoạn đầu rồi thì thích nghe cho đến đoạn cuối. Họ
tán thán: “Thật có ý nghĩa, thật là bổ ích.”
Thường: là từ xưa đến nay,
ý kinh vẫn không thay đổi không thể thêm hay bớt một chữ nào được cả. Kinh vẫn
thường hằng, không biến đổi.
Pháp: Kinh được gọi là
pháp, được chúng sinh trong cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai tôn trọng là vì
kinh chứa đựng phương pháp tu đạo chứng quả vị Phật và giáo hóa chúng
sinh.
Kinh điển Phật giáo được
trình bày qua mười hai thể loại.[10] Mười hai thể loại này đều được trình bày trong mỗi một
bộ kinh. Mỗi một bộ kinh đều có một trong mười hai thể loại này:
1. Trường hàng: Phần kinh
văn, gồm nhiều hàng rất dài nên gọi là trường hàng.
2. Trùng tụng: Phần thi
kệ, tóm lại nghĩa lý đã diễn bày trong phần trường hàng.
3. Thọ ký: Trong kinh văn,
khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với một vị bồ-tát: “Trong chừng đó kiếp, các
ông sẽ được thành Phật, huệ mạng của ông rất dài, trong quốc độ đó ông sẽ giáo
hóa vô số chúng sinh.”
Một ví dụ là Đức Phật
Nhiên Đăng đã thọ ký cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ được thành Phật. Trong đời
quá khứ, khi còn tu hành trong “nhân địa”, Đức Phật Thích-ca đã tu tập bồ-tát
đạo rất tinh nghiêm. Trong khi Ngài khẩn cầu được học tập giáo pháp, Ngài đã
“trải tóc mình phủ kín mặt đường bùn lầy.” Để làm gì? Trong một kiếp vào thời
quá khứ, khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang đi trên đường, thấy phía trước mình
cũng có một vị tỷ-khưu đang đi về phía mình. Ngài không biết đó chính là một vị
Phật. Con đường dưới chân vị tỷ-khưu đầy bùn lầy: “Nếu vị tỷ-khưu già kia đi qua
vũng bùn này ngài sẽ bị ướt sũng.” Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tương lai nghĩ như
vậy. Xuất phát từ lòng kính trọng Tam bảo, nhà khổ hạnh đã trải mình nằm phủ
trên đường lầy, dùng thân như chiếc chiếu phủ trên vũng nước bùn rồi cầu thỉnh
vị tỷ-khưu già hãy bước qua thân mình mà đi. Thấy vẫn còn một khoảng đường bị
sình lầy, sợ rằng vị tỷ-khưu già phải lội qua vũng lầy ấy, Ngài xỏa tóc mình ra
rồi trải qua vũng bùn cho vị tỷ-khưu già đi qua. Không biết người tỷ-khưu già ấy
là một vị Phật.
Chứng kiến việc cúng dường
cung kính như vậy, Đức cổ Phật Nhiên Đăng hài lòng vô cùng. Ngài nói: “Như thị,
Như thị.” Chữ “Như thị” thứ nhất có nghĩa là : “Ông đã làm việc cúng dường bằng
cách đem thân trải con đường bùn lầy để cho tôi bước đi. Chữ “Như thị” thứ hai
có nghĩa: “Trong quá khứ, tôi cũng đã từng làm như thế, tôi cũng đã từng tu hạnh
bồ-tát, nay ông làm như vậy.”
Rồi Đức Phật Nhiên Đăng[11] thọ ký cho Ngài:
“Vào đời tương lai, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Tại sao Đức Phật
Nhiên Đăng thọ ký như vậy? Vì Ngài xúc động với lòng chân thành của Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni tương lai. Dù Đức Phật Nhiên Đăng thường ít để ý đến chuyện của
người khác, nhưng Ngài đã đặc biệt chú ý đến hành vi cung kính này và thọ ký cho
Ngài sẽ thành Phật.
4. Nhân duyên: do có nhiều
nhân duyên nên Đức Phật giảng giải bằng nhiều loại pháp khác nhau.
5. Thí dụ: những thí dụ
được dùng để minh họa cho tính chất vi diệu của Phật pháp.
6. Bổn sự: Phần này nói
đến những công hạnh trong kiếp trước của chư Phật và các vị Bồ -tát.
7. Bổn sinh: ghi chép
những công hạnh của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong kiếp này hay công hạnh của
những vị Bồ-tát.
8. Phương quảng: phương là
bốn phương, quảng là lớn rộng, biểu thị cho Phật pháp vô cùng rộng lớn và tinh
thâm vi diệu.
9. Vị tằng hữu: phần kinh
văn đề cập đến những việc chưa từng được nói đến từ trước tới nay.
10. Tự thuyết : không cần
có sự cầu thỉnh, mà Đức Phật tự phóng quang làm chấn động thế giới rồi giảng nói
kinh pháp.
11. Cô khởi: còn gọi là
phúng tụng. Đây là phần kệ mà ý nghĩa không có sự liên tục với nhau giữa đoạn
đầu và đoạn giữa cùng đoạn cuối.
12. Luận nghị: phần kinh
đề cập đến việc nghiên cứu bàn luận về sự sâu mầu của Phật pháp.
Có bài kệ tóm tắt mười hai
thể loại như sau:
Trường hàng, trùng tụng
tinh thọ ký
Cô khởi, vô vấn nhi tự
thuyết.
Nhân duyên thí dụ cập bổn
sự.
Bổn sinh phương quảng vị
tằng hữu.
Luận nghị cọng thành thập
nhị bộ.
Mỗi bộ kinh đều có đủ mười
hai thể loại này. Điều này không phải có nghĩa là kinh tạng Phật giáo chỉ có
mười hai bộ, nhưng mỗi phần trong kinh văn đều có đủ, hoặc có ít nhất là một
trong mười hai thể loại này.
1 Nguyên văn: Nhất thiết chúng sinh câu hữu Như Lai đức tướng trí huệ, đản dĩ vọng tưởng chấp trước bất năng chứng đắc
[1] S: pratyeka-buddha. Còn gọi Duyên
giác, Độc giác , Cụ-chi-ca, Bích chi.
[2] nguyên văn : six-foot
high.
[3] s:
Uṣṇīṣaṃ: phiên âm là
sắc-ni-sam 色 尼 釤. Hán dịch là nhục kế 肉髻, vô kiến đảnh tướng 無見頂相, đảnh cổ 頂股.
Là đảnh cốt, tức phần xương trên đỉnh đầu Đức Phật nổi cao tròn khác thường (to
bằng vành chén trà). Trong những thời pháp đặc biệt, Đức Phật thường phóng hào
quang ở vị trí nầy để biểu hiện thần lực vi diệu, đây là 1 trong 32 tướng tốt
của các Đức Phật.
Trong Tự điển Practical S.E.D của
V.S.Apte đã dịch ra Anh ngữ:
- Anything wound round the
head (một vật thể tròn trên đầu).
- A distinguishing mark
(dấu hiệu nổi bật).
-A characteric mark of hair
on the head of a Buddha which indicates his future sanctity (dấu hiệu đặc
biệt trên đầu tóc Đức Phật, cho biết địa vị tôn quý của Ngài trong tương lai).
[6] Có nơi tách Thiện thệ thế gian giải thành 2, và ghép Phật, Thế tôn làm
1 để có 10 danh hiệu. Có nơi ghép Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu làm 1 và
tách Phật, Thế Tôn thành hai để có 10 danh hiệu.
[7] Đề hồ : Một trong năm món chế từ
sữa. Là món ăn, vị thuốc tốt nhất. (Sữa, lạc, sinh tô, thục tô, đề hồ).
Tông Thiên Thai gọi Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết-bàn quý báu như đề hồ.
[8] Hoàng Bá Hy Vận (?-850), Thiền sư
Trung Hoa.
[9] Tứ sinh : thai sinh, noãn sinh,
thấp sinh, hóa sinh.
[10] Thường gọi là Thập nhị bộ
kinh
[11] S: Dipaṃkara.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment