QUYỂN
MỘT
Tôi nghe như vầy: Lúc bấy giờ tại tịnh xá
Kỳ Hoàn thành Thất La Phiệt, Đức Phật và chúng Đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm
mươi vị, đều là Đại A La Hán, đã ra khỏi luân hồi, đầy đủ oai nghi, giúp Phật
hoằng pháp nơi các quốc độ, trì giới thanh tịnh, làm mô phạm cho tam giới, ứng
hiện vô số thân, hóa độ chúng sanh đến cùng tột vị lai ra khỏi trần lao. Hàng đệ
tử được phó chúc trụ trì Phật pháp gồm có: Đại Trí Xá lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền
Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà
v.v... là bậc thượng thủ, và có vô số Bích Chi với môn đồ đồng đến nơi Phật cùng
các Tỳ Kheo mãn hạ tự tứ. Khi ấy, mười phương Bồ Tát tuân theo lời Phật sẽ cầu
Mật nghĩa, hỏi đạo để quyết nghị.
Bấy giờ, Như Lai trải tòa ngồi yên vì đại
chúng trong Hội khai thị pháp chưa từng có, nghĩa lý thâm sâu, diệu âm thuyết
pháp vang khắp mười phương thế giới, hằng sa Bồ Tát đều đến tụ hợp, trong đó Văn
Thù Sư Lợi là bậc Thượng thủ.
Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày giỗ của phụ
vương làm lễ trai tăng, sắm đủ các món ăn quý báu, đích thân đến thỉnh Phật và
chư Đại Bồ Tát vào cung thọ trai. Trong thành còn có nhiều trưởng giả, cư sĩ
khác cũng cùng ngày thiết lễ trai tăng, thỉnh Phật đến thọ cúng dường. Phật sai
Văn Thù dẫn đầu chư Bồ Tát và A La Hán, chia thành nhiều nhóm, ứng lời mời đến
thọ trai nơi các trai chủ. Chỉ có A Nan được vị khác mời riêng, đi xa chưa về,
không kịp cùng dự với tăng chúng.
Lúc ấy, trên đường trở về, một mình A Nan
chẳng có thượng tọa và A Xà Lê cùng đi, ngày đó lại không ai mời đi cúng dường,
trong tâm mong cầu gặp được vị trai chủ sau cùng. Trước kia, A Nan đã từng nghe
Phật quở Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp, là bậc A La Hán, mà người chuyên chọn khất
thực nhà giàu, người chuyên chọn khất thực nhà nghèo, tâm chẳng bình đẳng, quyết
tuân theo pháp bình đẳng bất nhị của Như Lai, để tránh mọi sự chê bai và nghi
hoặc, trong tâm cho rằng: Đối với trai chủ, chẳng kể quý tộc hay hèn hạ, thức ăn
dơ sạch, phát tâm từ bi để thành tựu cho tất cả chúng sanh đều được gieo trồng
vô lượng công đức. Vừa nghĩ như vậy, tay ôm bình bát, đi từng nhà dọc theo đường
phố, oai nghi nghiêm chỉnh, đúng pháp khất thực.
Lúc A Nan đang khất thực đi ngang nhà dâm,
bị nàng huyễn thuật Ma Đăng Già dùng tà chú Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng
nhiếp vào nhà dâm, vuốt ve cám dỗ, sắp bị hoại giới thể.
Phật đã biết trước việc này, thọ trai xong,
liền về, vua và đại thần, trưởng giả cư sĩ, đều đi theo Phật, xin nghe pháp
yếu.
Bấy giờ, đảnh đầu Thế Tôn phóng ra hào
quang bách bửu vô úy, trong hào quang nở ra bửu liên hoa ngàn cánh, trên đó có
hóa thân Phật ngồi kiết già thuyết thần chú, sai Văn Thù đem chú đến cứu hộ, tà
chú tiêu diệt, dắt A Nan và Ma Đăng Già về nơi Phật ở.
A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận xưa
nay chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tròn đạo lực, nay ân cần thỉnh hỏi Như Lai
về phương tiện đầu tiên của ba thứ thiền quán: Sa Ma Tha (1), Tam Ma (2) và
Thiền Na (3), mà mười phương Như Lai đã tu được thành chánh giác. Khi đó có hằng
sa Bồ Tát và các bậc Đại A La Hán, Bích Chi Phật nơi mười phương đều xin cùng
nghe, im lặng ngồi yên để lãnh thọ pháp yếu của Phật.
Khi ấy, Thế Tôn giơ tay dịu dàng rờ đầu A
Nan, nói với A Nan và đại chúng:
- Có pháp Tam Ma Đề, gọi là Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm Vương, bao hàm vạn hạnh, là đường lối vi diệu trang nghiêm, cũng
là pháp môn đưa đến giải thoát cuối cùng của mười phương Như Lai, nay ngươi hãy
chú ý nghe.
A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật
dạy.
Phật bảo A Nan:
- Ngươi và ta là anh em, cùng một giống
nòi, chẳng biết lúc mới phát tâm, ở nơi pháp ta, ngươi thấy tướng thù thắng gì
liền xả ân ái sâu nặng của thế gian?
A Nan bạch Phật:
- Con thấy ba mươi hai tướng thù thắng
tuyệt diệu của Như Lai, hình thể trong sáng như lưu ly, thường tự nghĩ tướng này
chẳng phải do dục ái sanh ra. Tại sao? Vì dục ái ô nhiễm xấu xí, cấu kết tinh
huyết nhơ bẩn chẳng thể sanh ra diệu tướng quang minh, thanh tịnh thù thắng như
thế, do đó nên khâm mộ theo Phật xuất gia.
Phật nói:
- Lành thay! A Nan, các ngươi nên biết, tất
cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sanh tử liên tục, chỉ vì chẳng biết chơn tâm
thường trụ, thể tánh trong sạch sáng tỏ, lại nương theo vọng tưởng, vọng tưởng
chẳng chơn nên có luân hồi. Mười phương chư Phật cùng một đạo lìa khỏi sanh tử
đều do trực tâm, vì tâm hạnh và lời nói ngay thẳng, như thế từ đầu đến cuối, cho
đến các ngôi bậc, ở khoảng giữa chẳng có các tướng quanh co.
- Nay ngươi muốn tham cứu vô thượng Bồ Đề,
phát minh chơn tánh, hãy trực tâm mà trả lời câu hỏi của ta. A Nan, nay ta hỏi
ngươi: lúc ngươi phát tâm duyên theo ba mươi hai tướng của Như Lai, lấy gì để
thấy? Ai biết sự ham thích?
- Bạch Thế Tôn, dùng tâm và mắt của con
thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ
sanh tử.
Phật bảo:
- Như ngươi vừa nói, sự ham thích do nơi
tâm và mắt. Nếu chẳng biết tâm và mắt ở đâu thì chẳng thể hàng phục được trần
lao; ví như đất nước có giặc, vua sai binh dẹp trừ, binh lính tất phải biết sào
huyệt của giặc. Khiến ngươi bị luân chuyển ấy là lỗi tại tâm và mắt. Ta hỏi
ngươi: Tâm và mắt của ngươi hiện đang ở đâu?
BẢY CHỖ GẠN HỎI TÌM TÂM
Phá chấp tâm ở trong thân
- Bạch Thế Tôn! Tất cả mười loại chúng sanh
trên thế gian đều cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận được mắt con ở trên
mặt con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa của Như Lai ở trên mặt
Như Lai vậy.
Phật bảo:
- A Nan! Nay ngươi ngồi trong giảng đường
của Như Lai, nhìn thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào?
- Bạch Thế Tôn! Giảng đường rộng rãûi thanh
tịnh này trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường.
- A Nan! Bây giờ ngươi ở trong giảng đường
trước tiên thấy gì?
- Bạch Thế Tôn! Con ở trong giảng đường
trước thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng
cây.
- A Nan! Ngươi thấy rừng cây, do nhân nào
được thấy?
- Bạch Thế Tôn! Vì cửa sổ giảng đường mở
trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài.
Phật bảo A Nan:
- Như ngươi vừa nói, thân ở trong giảng
đường, nhờ cửa mở trống nên thấy rừng cây; mà có chúng sanh nào ở trong giảng
đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài chăng?
- Bạch Thế Tôn! Ở trong giảng đường chẳng
thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng.
- A Nan! Ngươi cũng như vậy, linh tâm của
ngươi tất cả sáng tỏ, nếu tâm sáng tỏ hiện tiền của ngươi thật ở trong thân thì
trước tiên phải thấy rõ trong thân. Vậy có chúng sanh nào trước thấy trong thân
rồi sau mới thấy vật bên ngoài chăng? Dẫu chẳng thấy được tim, gan, tỳ, vị, thì
các chỗ: móng ra, tóc dài, gân chuyển cũng phải thấy chứ, sao lại chẳng thấy?
Nếu trong thân còn chẳng thấy thì làm sao thấy vật bên ngoài? Cho nên ngươi nói
"Cái tâm giác tri trụ ở trong thân" là chẳng đúng. (Tự tánh bất nhị, vốn chẳng
có nghĩa đúng và chẳng đúng, chỉ vì trị bệnh chấp thật nên nói chẳng
đúng).
Phá chấp tâm ở ngoài thân
A Nan cúi đầu bạch Phật:
- Con nghe lời dạy của Như Lai, ngộ được
tâm con thật ở ngoài thân. Tại sao? Ví như đèn thắp trong phòng thì trước phải
chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra ngoài sân. Tất cả chúng sanh
chẳng thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn ở ngoài phòng
chẳng thể chiếu sáng trong phòng, nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so
với nghĩa lý rốt ráo của Phật chẳng sai ư?
Phật bảo A Nan:
- Các Tỳ Kheo vừa theo ta khất thực trong
thành rồi trở về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai xong, ngươi thử nghĩ, trong số Tỳ
Kheo, chỉ một người ăn mà các vị khác được no chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không ạ! Tại sao? Dù các Tỳ
Kheo đều là bậc A La Hán, nhưng cơ thể chẳng đồng, đâu thể một người ăn mà khiến
cả chúng đều no.
- A Nan! Nếu tâm giác tri của ngươi thật ở
ngoài thân thì trong ngoài khác nhau, chẳng có liên quan, hễ tâm biết thì thân
chẳng biết, thân biết thì tâm chẳng biết. Nay ta đưa tay cho ngươi xem, trong
lúc mắt thấy, tâm ngươi biết được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Vâng biết.
- A Nan! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt
thì sao lại nói tâm ở ngoài thân? Nên biết, ngươi nói "tâm giác tri trụ ở ngoài
thân" là chẳng đúng.
Phá chấp tâm ẩn núp sau con mắt
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, chẳng
thấy bên trong nên chẳng ở trong thân; thân tâm cùng biết một lượt chẳng thể rời
nhau nên chẳng ở ngoài thân, nay con thiết nghĩ tâm ở một chỗ.
- Ở chỗ nào?
- Tâm giác tri này đã chẳng biết trong mà
thấy bên ngoài, theo con nghĩ là nó ẩn núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén
lưu ly úp vào hai mắt (ngày nay có thể nói là đeo kính), tuy có vật úp ở ngoài
mà chẳng ngại nhãn căn, tùy sự thấy liền phân biệt được. Tâm giác tri của con
chẳng thấy bên trong vì ở nơi con mắt, thấy rõ ràng bên ngoài vì ẩn núp sau con
mắt.
Phật bảo A Nan:
- Theo lời ngươi nói, tâm núp sau con mắt
như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy thì lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly
chăng?
- Bạch Thế Tôn! Thật thấy chén lưu
ly.
- A Nan, con mắt núp sau chén lưu ly thì
thấy được chén lưu ly; còn tâm núp sau con mắt sao chẳng thấy mắt? Dù cho là
thấy mắt, mắt tức là cảnh, cảnh làm sao thấy cảnh? Nếu chẳng thấy mắt thì ngươi
nói "Tâm giác tri ẩn núp sau con mắt" là chẳng đúng.
Phá chấp nhắm mắt thấy tối là thấy trong
thân
- Bạch Thế Tôn! Nay con lại thiết nghĩ
rằng, thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũû căn) ở ngoài,
nơi tạng thì tối, nơi khiếu thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật, mở mắt thấy sáng
gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, nghĩa này thế
nào?
Phật bảo A Nan:
- Khi ngươi nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối
ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt?
- Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức
ở ngoài thân, sao nói ở trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong
phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của ngươi
sao?
- Nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được
thấy? Nếu lìa sự thấy bên ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt
thấy tối gọi là thấy trong thân; vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy
mặt?
- Lại, nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa
"con mắt đối vào trong" chẳng thể thành lập: nếu thấy mặt thì tâm giác tri và
nhãn căn đều ở tại hư không, làm sao nói ở trong?
- Lại, nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải
thân ngươi, tức hiện nay Như Lai thấy mặt ngươi cũng là thân ngươi sao? Vậy mắt
ngươi thấy biết thì thân ngươi chẳng biết. Nếu ngươi cho thân và mắt cùng biết
một lượt, thì phải có hai cái biết, tức một thân ngươi phải thành hai Phật! Nên
biết ngươi nói "thấy tối gọi là thấy trong thân" là chẳng đúng.
Phá chấp sự suy nghĩ là tâm
- Con đã từng nghe Phật khai thị chúng
rằng: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh. Nay con suy nghĩ,
chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở
trong, ngoài và chính giữa.
- A Nan, ngươi nói pháp sanh nên các tâm
sanh, tùy sự suy nghĩ tâm liền có. Tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ;
nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa
này chẳng đúng.
Nếu có tự thể thì ngươi thử dùng tay tự
búng thân mình xem, cái tâm biết của ngươi là từ trong thân ra hay từ bên ngoài
ra? Nếu từ bên trong ra thì phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài ra thì trước
tiên phải thấy mặt.
- Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm
không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa.
Phật bảo A Nan:
- Nếu thấy là con mắt thì ngươi ở trong
phòng, cửa biết thấy chăng? (phòng dụ cho thân, cửa dụ cho mắt). Như kẻ đã chết
con mắt vẫn còn, lẽ ra phải thấy được vật; nếu thấy được vật thì sao gọi là
chết?
- Lại, tâm hay biết của ngươi nếu thật có
tự thể, là một thể hay nhiều thể? Nay nơi thân ngươi, tâm cùng khắp cơ thể hay
chẳng cùng khắp?
- Nếu nói một thể, khi tay ngươi búng một
chi, lẽ ra tứ chi đều biết, nếu đều biết thì chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng
thì chẳng phải một thể. Nếu như nhiều thể thì thành nhiều người, vậy thể nào là
của ngươi?
- Nếu nói khắp cả cơ thể thì đồng như sự
búng kể trên, nếu chẳng khắp thì khi ngươi rờ đầu và chân, đầu có biết chân phải
không biết, nhưng hiện nay ngươi lại chẳng phải như vậy. Nên biết ngươi nói:
"Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" là chẳng đúng.
Phá chấp tâm ở chính giữa
- Bạch Thế Tôn! Khi Phật với Văn Thù và các
Pháp Vương Tử luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói tâm chẳng ở trong cũng
chẳng ở ngoài. Theo như con nghĩ, vì chẳng biết trong nên chẳng phải ở trong,
thân tâm cùng biết một lượt nên chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà
chẳng thấy bên trong, tất phải ở giữa.
- Ngươi nói "ở giữa" thì cái chính giữa ấy
phải rõ ràng, chẳng phải không chỗ. Theo ngươi suy xét, giữa ở chỗ nào? Ở nơi xứ
(12 xứ, gồm cả lục căn, lục trần) hay ở nơi thân?
- Nếu ở nơi thân, nơi ngoài da thì chẳng
phải là giữa; ở giữa thì đồng như ở trong. Nếu ở nơi xứ, là có thể nêu ra hay
chẳng thể nêu ra? Nếu chẳng thể nêu ra thì đồng như không có; nếu có thể nêu ra
lại chẳng định được chỗ nào. Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu làm chính
giữa, nhìn từ phương Đông thì cho cây nêu ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì
cho cây nêu ở phương Bắc, cái thể giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành
rối loạn, chẳng rõ ở đâu.
A Nan thưa:
- Con nói "chính giữa" chẳng phải hai thứ
này. Như Thế Tôn nói: Nhãn căn và sắc trần duyên nhau sanh ra nhãn thức. Nhãn
căn phân biệt, sắc trần vô tri, thức sanh nơi giữa, tức là tâm vậy.
Phật bảo:
- Nếu tâm ngươi ở giữa căn trần, vậy tâm
thể này gồm cả hai hay chẳng gồm? Nếu gồm cả hai thì vật và thể xen lộn, vật thì
vô tri, thể thì có biết, thành hai thứ đối địch, lấy gì làm giữa? Nếu lìa biết
(căn) và không biết (trần) thì chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng nào làm chính
giữa? Nên biết ngươi nói "Tâm ở chính giữa" là chẳng đúng.
Phá chấp "tất cả vô trước" là tâm
- Bạch Thế Tôn! Khi xưa con thấy Phật với
bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển
pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng
ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm". Vậy con vô trước, được
gọi là tâm chăng?
Phật bảo A Nan:
- Ngươi nói cái tâm giác tri chẳng ở chỗ
nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất
cả vật tượng nơi thế gian mà ngươi vô trước đó, là có hay không? Không thì đồng
như lông rùa sừng thỏ, nói gì vô trước? Nếu có sự vô trước thì chẳng thể gọi là
không. Không tướng mới không, chẳng không thì có tướng, tâm đã chấp có tướng,
thì còn nói gì vô trước? Nên biết, nói "Tất cả vô trước gọi là tâm giác tri" là
chẳng đúng.
LƯỢC GIẢI
Ở đây nêu ra bảy chỗ gạn hỏi, ý Phật là
muốn đưa A Nan thẳng đến chỗ tự ngộ, lời Phật chẳng phải chơn lý. Phật chỉ dùng
thuốc giả để trị bịnh giả của A Nan. Tại sao nói là bệnh giả? Vì những kiến chấp
của A Nan vốn chẳng thật. Tại sao nói thuốc giả? Vì lời phá chấp của Phật cũng
chẳng thật.
Cũng như A Nan nói tâm ở trong thân, ở
ngoài thân, cho đến nói vô trước là tâm, kỳ thật không phải có chỗ chẳng đúng
hay chẳng sai, vì chấp nhất định ở một chỗ, nên Phật nói chẳng đúng. Nếu bệnh
chấp chưa hết thì có thể nêu ra vô số chỗ, chứ đâu phải chỉ có bảy chỗ ư? Nếu
bệnh chấp đã hết thì một chỗ cũng chẳng có, nói gì đến bảy chỗ!
Tự tánh vốn bất nhị, nếu chấp theo lời
Phật, cho "thật chẳng ở trong" là nhị, cho "thật chẳng ở ngoài" cũng là nhị, cho
đến bất cứ có ở một chỗ nào, hay chẳng ở một chỗ nào đều là nhị. Tại sao? Vì nếu
có ở một chỗ này thì những chỗ kia không có, chỗ có chỗ không tức là nhị. Nên
Phật nói: Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa (Phàm có lời nói đều chẳng
phải nghĩa thật).
*****
Bấy giờ, A Nan ở trong đại chúng từ chỗ
ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ gối chân phải, chắp tay cung kính bạch
Phật:
- Con là em út của Như Lai, được Phật
thương mến, nay dù xuất gia nhưng còn ỷ lại nơi lòng thương của Phật, chỉ ham
học rộng nghe nhiều, chưa được vô lậu, chẳng uốn dẹp được tà chú, bị nhiếp vào
nhà dâm, chỉ vì chẳng biết chỗ đến của Chơn Thật, kính mong Thế Tôn từ bi thương
xót, khai thị cho chúng con đường lối tu thiền quán Sa Ma Tha, khiến kẻ Xiển đề
xóa bỏ ác kiến.
Nói xong đảnh lễ, năm vóc gieo sát đất,
cùng đại chúng khao khát kính nghe chỉ dạy.
Lúc ấy, Thế Tôn từ trên mặt phóng ra đủ thứ
hào quang, sáng lạn như trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các thế giới Phật, khiến
thành sáu thứ rung động, mười phương vô số quốc độ đồng thời hiện ra. Oai thần
của Phật khiến các thế giới hợp thành một thế giới, tất cả chư Đại Bồ Tát trong
thế giới đều an trụ nơi quốc độ của mình, chắp tay lắng nghe.
Phật bảo A Nan:
- Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đủ
thứ điên đảo tạo thành giống nghiệp, kết tụ nghiệp nhân thành quả luân hồi.
Những người tu hành chẳng được chứng quả vô thượng Bồ Đề, trở thành Thanh Văn,
Duyên Giác hoặc thành cõi trời ngoại đạo, ma vương và quyến thuộc ma, đều do
chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm,
dẫu cho trải qua nhiều kiếp cũng chẳng đắc đạo.
- Thế nào là hai thứ căn bản?
- Một là căn bản của sanh tử từ vô thỉ, tức
là nay nhận tâm phan duyên làm tự tánh của ngươi và chúng sanh;
- Hai là bản thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề
Niết Bàn từ vô thỉ, tức là cái bản thức (4) vốn sáng tỏ, hay sanh các duyên mà
bị các duyên che khuất thành lạc mất của ngươi. Vì chúng sanh lạc mất bản thức
sáng tỏ, dù hàng ngày sống trong bản thức mà chẳng tự biết, oan uổng vào lục
đạo.
- A Nan, nay ngươi muốn biết đường tu thiền
quán Sa Ma Tha, mong ra khỏi sanh tử, vậy ta hỏi ngươi.
Liền đó, Như Lai giơ cánh tay sắc vàng co
năm ngón tay, bảo A Nan:
- Ngươi có thấy chăng?
A Nan đáp:
- Thấy.
Phật bảo:
- Ngươi thấy cái gì?
A Nan đáp:
- Con thấy Như Lai giơ tay, co ngón tay
thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và mắt con.
Phật bảo:
- Ngươi dùng cái gì để thấy?
- Con và đại chúng đều dùng mắt
thấy.
Phật bảo A Nan:
- Theo lời ngươi đáp, Như Lai co ngón tay
thành nắm tay sáng ngời, chói tâm mắt của ngươi, vậy lúc nắm tay ta chói rọi,
mắt ngươi thấy được, lấy gì làm tâm?
A Nan đáp:
- Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con
dùng tư tưởng suy tìm, thì cái hay suy tìm ấy, con cho là tâm.
Phật bảo:
- Sai rồi, A Nan! Cái ấy chẳng phải tâm
ngươi.
A Nan giựt mình đứng dậy, chắp tay bạch
Phật rằng:
- Cái ấy chẳng phải tâm con thì gọi là cái
gì?
Phật bảo A Nan:
- Ấy là tướng vọng tưởng của tiền trần, mê
hoặc chơn tánh của ngươi. Do ngươi xưa nay nhận giặc làm con, lạc mất bản thức
chơn thường, nên bị luân chuyển.
- Bạch Thế Tôn! Con là em cưng của Phật, vì
mến Phật nên xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai, mà còn muốn trải
khắp hằng sa quốc độ, phụng sự chư Phật và thiện tri thức, phát tâm dũng mãnh,
làm những Phật sự khó làm, đều dùng tâm này; dẫu cho báng pháp, bỏ hẳn thiện căn
cũng vì tâm này. Nếu Thế Tôn phát minh cái ấy chẳng phải tâm, vậy con thành
không có tâm, đồng như đất gỗ, lìa giác tri này chẳng còn gì cả, sao Như Lai nói
cái ấy chẳng phải tâm? Con thật kinh sợ, và cả đại chúng đều chẳng khỏi nghi
hoặc, kính mong Thế Tôn rủõ lòng từ bi, khai thị cho kẻ chưa ngộ.
Bấây giờ, Thế Tôn muốn cho A Nan và đại
chúng đều được chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, nơi tòa sư tử, xoa đầu A Nan khai
thị rằng:
- Như Lai thường nói: Chư pháp sở sanh, duy
tâm sở hiện. Tất cả nhân quả, thế giới vi trần đều do tâm này mới thành có thể
tánh. A Nan, tất cả sự vật trên thế gian, cho đến cỏ, lá, chỉ mành, cứu xét cội
gốc đều có thể tánh, dẫu cho hư không cũng có danh hiệu, huống là cái tánh trong
sạch sáng tỏ của tất cả tâm lại chẳng có tự thể ư? Nếu ngươi chấp thật cái tánh
giác tri phân biệt cho là tâm, thì tâm này lìa tất cả sự vật lục trần phải riêng
có tự thể (chẳng theo cảnh trần sanh diệt). Như ngươi hiện nay đang nghe thuyết
pháp, là do âm thanh nên có phân biệt; dẫu cho diệt hết tất cả kiến, văn, giác,
tri, trong giữ u nhàn, cũng còn là bóng phân biệt của pháp trần.
- Ta chẳng bảo ngươi chấp thật phi tâm,
nhưng ngươi hãy xét kỹ nơi tâm: nếu lìa tiền trần mà có tự thể của tánh phân
biệt, tức là chơn tâm của ngươi. Nếu tánh phân biệt lìa trần chẳng có tự thể, ấy
là bóng phân biệt của tiền trần. Trần chẳng thường trụ, khi biến diệt thì tâm
này đồng như lông rùa, sừng thỏ, vậy pháp thân của ngươi thành ra đoạn diệt, còn
ai tu chứng vô sanh pháp nhẫn? (Cảnh trần có hai loại: đối với ngũ căn gọi là
tiền trần, đối với ý căn gọi là pháp trần).
Tức thời, A Nan cùng đại chúng im lặng ngơ
ngác, chẳng còn lý lẽ gì để nói nữa.
Phật bảo A Nan:
- Tất cả người tu học trên thế gian, vì
chưa dứt sạch tập khí phiền não, dù đã tu đến chín bậc thiền định, chẳng thành
quả A La Hán, đều do chấp trước sanh tử vọng tưởng, cho là chơn thật, nên ngươi
dẫu được học rộng nghe nhiều, chẳng chứng thánh quả.
A Nan nghe rồi, lại đau xót rơi lệ, năm vóc
gieo sát đất, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
- Từ khi con phát tâm xuất gia, ỷ cậy oai
thần của Phật, thường nghĩ rằng chẳng nhọc tự tu, cho rằng Như Lai sẽ ban cho
tam muội, không biết thân tâm vốn chẳng thể thay thế nhau được, nên lạc mất bản
tâm; thân dù xuất gia, tâm chẳng nhập đạo, như đứa con nghèo bỏ cha chạy trốn.
Đến nay mới biết, dẫu cho học rộng nghe nhiều, nếu chẳng tu hành (5) thì khác gì
người chẳng nghe! Cũng như nói ăn mà không ăn thì làm sao được no!
- Thế Tôn, hiện nay chúng con bị hai chướng
ràng buộc (phiền não chướng và sở tri chướng), vì chẳng biết tự tánh thường
tịch, mong Như Lai thương xót kẻ khốn cùng, khai phát diệu tâm, sáng tỏ đạo nhãn
cho chúng con.
Lúc ấy, Như Lai từ chữ vạn ( ) trước ngực
phóng ra hào quang, rực rỡ trăm ngàn màu sắc, đồng thời chiếu khắp mười phương
vô số quốc độ Phật, soi khắp đỉnh đầu tất cả Như Lai trong mười phương bửu sát,
rồi xoay về soi cả đầu A Nan cùng đại chúng, bảo A Nan rằng:
- Nay ta vì ngươi dựng đại pháp tràng,
khiến mười phương chúng sanh đều được diệu tâm sáng tỏ, pháp nhãn thanh tịnh. A
Nan, trước ngươi trả lời thấy nắm tay chói sáng, vậy cái nắm tay này do đâu mà
có? Làm sao thành nắm tay? Ngươi lấy gì để thấy?
A Nan đáp:
- Do tánh thanh tịnh sáng ngời như núi báu
của thân Phật sanh ra hào quang, ngón tay Phật co nắm lại thành nắm tay, chính
mắt con thấy tướng nắm tay vậy.
Phật bảo A Nan:
- Hôm nay ta nói thật cho nghe: Những người
có trí cũng phải nhờ thí dụ mới được khai ngộ. A Nan, ví như tay của ta, nếu
chẳng có cánh tay thì chẳng thành nắm tay của ta, nếu chẳng có con mắt ngươi thì
chẳng thành sự thấy của ngươi. Vậy lấy nhãn căn của ngươi so với nắm tay của ta,
hai nghĩa giống nhau chăng?
- Bạch Thế Tôn! Vâng giống. Nếu chẳng có
con mắt thì chẳng thành sự thấy của con, vậy đem nhãn căn của con so với nắm tay
của Như Lai, hai nghĩa giống nhau.
Phật bảo A Nan:
- Ngươi nói giống nhau, nghĩa này chẳng
đúng. Tại sao? Như người không có cánh tay thì tuyệt nhiên chẳng có nắm tay,
nhưng người không có mắt thì chẳng phải không thấy. Vì sao? Ngươi thử hỏi người
mù có thấy gì chăng? Người ấy ắt sẽ trả lời: "Nay trước mắt tôi chỉ thấy tối
đen, chẳng còn thấy gì khác". Xét theo nghĩa này thì tiền trần tự tối, sự thấy
đâu có giảm bớt!
A Nan nói:
- Những người mù trước mắt chỉ thấy tối
đen, sao gọi là thấy?
Phật bảo A Nan:
- Người mù không có mắt, chỉ thấy tối đen,
so với người có mắt ở trong phòng tối, cũng chỉ thấy tối đen, hai thứ tối đen ấy
có khác hay chẳng khác?
- Bạch Thế Tôn! Thật chẳng có khác.
- A Nan, nếu người không có mắt, thấy toàn
tối đen, bỗng được mắt sáng, liền thấy các sắc tướng trước mắt, gọi là "mắt
thấy", người ở trong phòng tối cũng toàn thấy tối đen, bỗng được đèn sáng, cũng
thấy các sắc tướng trước mắt, thì phải gọi là "đèn thấy". Nếu đèn có thấy thì
chẳng được gọi là đèn, lại đèn thấy thì có dính dáng gì đến ngươi? Vậy biết, đèn
chỉ có tác dụng hiển hiện sắc tướng, sự thấy là mắt, chẳng phải đèn; mắt chỉ có
tác dụng hiển hiện sắc tướng, sự thấy là tâm, chẳng phải mắt.
A Nan và đại chúng dù nghe lời Phật nói
vậy, miệng tuy im lặng, nhưng tâm vẫn chưa ngộ, mong được giảng rõ thêm, nên
thành tâm chắp tay, đợi Phật dạy bảo.
Bấy giờ, Thế Tôn duỗi cánh tay sáng ngời,
mở năm ngón tay, bảo A Nan và đại chúng:
- Lúc ta mới thành đạo nơi Lộc Viên, có nói
với năm vị Tỳ Kheo và tứ chúng rằng: Tất cả chúng sanh chẳng thành Bồ-Đề và
chứng quả A La Hán, đều tại lầm theo phiền não khách trần. Lúc đó, các ngươi do
đâu được khai ngộ, nay chứng thánh quả?
Khi ấy, Kiều Trần Như đứng dậy bạch
Phật:
- Con là bậc trưởng lão trong chúng được
gọi là hiểu rộng biết nhiều, vì ngộ hai chữ Khách Trần nên được chứng quả. Thế
Tôn, ví như người đi đường vào nghỉ ở khách sạn, ăn ngủ xong rồi lên đường đi
tiếp, chẳng thể ở lại, còn người chủ thì cư trú tại đó, chẳng cần đi đâu. Vậy
chẳng trụ là khách, trụ gọi là chủ, nên lấy sự "chẳng trụ" làm nghĩa chữ
Khách.
- Cũng như mưa mới tạnh, ánh sáng mặt trời
rọi qua kẽ hở, thấy rõ tướng bụi trần lăng xăng nơi hư không. Trần thì lay động.
Hư không tịch nhiên. Vậy tịch lặng gọi là không, lay động gọi là trần, nên lấy
sự "lay động" làm nghĩa chữ Trần.
Phật nói:
- Đúng thế!
Tức thời Như Lai ở trong đại chúng co năm
ngón tay, nắm rồi lại mở, mở rồi lại nắm, hỏi A Nan:
- Nay ngươi thấy gì?
A Nan đáp:
- Con thấy bàn tay của Như Lai lúc mở lúc
nắm.
Phật bảo A Nan:
- Ngươi thấy tay ta mở nắm, là tay ta có mở
có nắm, hay cái thấy của ngươi có mở có nắm?
A Nan đáp:
- Bàn tay của Như Lai tự mở nắm, chứ chẳng
phải tánh thấy của con có mở nắm.
Phật hỏi:
- Cái nào động, cái nào tịnh?
A Nan đáp:
- Tay Phật chẳng trụ, tánh thấy của con
tịnh còn chẳng có, làm sao có động! (Bản kiến bất nhị, động tịnh đều chẳng
nhiễm).
Phật nói:
- Đúng thế!
Liền đó, Như Lai từ trong bàn tay phóng ra
một tia hào quang rọi bên phải A Nan. A Nan liền quay đầu nhìn bên phải, Phật
lại phóng một tia hào quang rọi bên trái A Nan, A Nan lại quay đầu nhìn bên
trái, Phật bảo A Nan:
- Đầu ngươi vì sao lại lay động?
A Nan đáp:
- Con thấy Như Lai phóng hào quang đến hai
bên cạnh con, nên theo đó nhìn qua nhìn lại, đầu tự lay động.
- A Nan, ngươi nhìn theo hào quang lay động
là đầu ngươi động hay cái thấy động?
- Bạch Thế Tôn! Đầu con tự động, tánh thấy
của con ngưng còn chẳng có, nói gì lay động! (Bản kiến không đối đãi, động và
chẳng động đều chẳng dính dáng).
Phật nói:
- Đúng thế!
Do đó, Phật bảo đại chúng rằng:
- Nếu chúng sanh cho "lay động" là trần,
"chẳng trụ" là khách, các ngươi hãy xem, như A Nan đầu tự lay động mà tánh thấy
chẳng động; lại tay ta tự mở nắm mà tánh thấy chẳng mở nắm. Vậy sao các ngươi
hiện nay lại cho động là thân, cho động là cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sanh
diệt, lạc mất chơn tánh, hành theo điên đảo. Vì tâm tánh chẳng chơn, nhận vật
làm mình, tự trôi lăn theo dòng sanh tử, cam chịu luân hồi. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment