Friday 9 November 2012

Thư Gởi Người Học Phật 3 .

Ðôi lời....Gần đây, nhân có vài ba đạo hữu và Glossary LinkPhậtPhật: PHẬT là một vị THÁI-TỬ con của Vua TỊNH-PHẠN tại nước CA-TỲ LA-VỆ, có thế-danh là TẤT-ÐẠT ÐA. Khi “NGÀI” mới sanh ra đời thì có : 30 vạn (30 x 10.000) vị “Thiên-thần” giáng xuống hầu-hạ chung-quanh.... Thân sơ-sanh của “NGÀI” đi qua bốn phương, mỗi phương đều đủ bảy bước, một tay chỉ lên TRỜI, một tay chỉ xuống ÐẤT, mà nói rằng : “THIÊN-THƯỢNG THIÊN-HẠ, DUY NGÃ ÐỘC TÔN”. (Tức là : Trên TRỜI, dưới TRỜI duy chỉ có TA là “ÐỘC TÔN” (cao-thượng) hơn tất cả. Thái-Tử : Có thân màu sắc vàng ròng, Có đầy-đủ 32 tướng tốt. Có đầy-đủ 80 vẻ đẹp tùy-hình. Nếu như NGÀI vẫn ở tại-gia thì sẽ làm đến Bậc “CHUYỂN-LUÂN THÁNH-VƯƠNG” (còn gọi là “KIM LUÂN-VƯƠNG”), cai-trị hết cả 4 châu thiên-hạ. Vì thấy chúng-sanh có đủ bốn tướng : “SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT” nên NGÀI từ bỏ ngôi Vua, vào xuất-gia nơi miền rừng sâu, núi vắng. Tu-hành khổ-hạnh trong 6 năm, diệt hết tất-cả các “KIẾT-SỬ” (tức là bẻ gãy hết tất-cả sự phiền-não trói-buộc) mà được thành “PHẬT”, hàng phục được 8 vạn ức (8 x 1000.000 x 10.000) “Thiên-ma”, thành đạo BỒ-ÐỀ “VÔ-THƯỢNG” nên có hiệu là “NĂNG-NHÂN”. NGÀI có đầy-đủ “10 lực, Tứ vô sở-úy, và thập bát cộng pháp”, hào-quang toàn thân chói sáng, chiếu suốt khắp cả 10 phương 3 cõi.... Vì thế nên NGÀI được gọi là : PHẬT THẾ-TÔN tử đến thăm. Trong phần luận đàm về đạo lý, quí vị ấy có than thở cùng với tôi rằng :

  • Ðọc kinh thì cũng ái mộ, nghe lời Phật dạy tâm cũng thấy mát mẻ, nhẹ nhàng, lại thấy các gương vãng sanh Tịnh độ của những bậc cổ đức, tiên hiền, tấm lòng muốn đi tu dường như thúc dục, nhưng rồi quay lại nhìn vợ yếu cùng đám con khờ, đứa thì ngây thơ bé bỏng, đứa chất phát thiệt thà, vô tư quấn quít, tự nhiên lòng thấy yếu mềm đi, nghĩ mình đi tu rồi bỏ lại vợ dại, con thơ biết lấy ai cậy nhờ an ủi, ắt sẽ cùng ôm nhau sùi sụt khóc thương, đêm ngày kêu anh ơi, ba hỡi ... Hốt nhiên lòng dâng lên một niềm thương cảm, nước mắt rớt xuống hồi nào mà không hay !!! Tôi nghĩ có lẽ trọn đời tôi rất khó mà đi tu được. Nhiều khi nghĩ lại cũng thấy buồn cho mình nghiệp sâu, chướng nặng mà tủi thân, mong một ngày nào đó gần đây, khi các con khôn lớn hết rồi, chừng ấy tôi sẽ đi tu....

Lại có một đạo hữu khác nói rằng :
  • Tôi thấy trong kinh dạy pháp môn Tịnh độ tu không khó lắm, nghiệp dù nặng cho thế mấy đi nữa nhưng lâm chung chỉ cần niệm khoảng chừng mười câu Phật hiệu cũng được vãng sanh... Tôi định đợi chừng già già một chút nữa, các con lớn khôn, lập gia đình hết rồi, hoặc là khi thấy mình ốm đau, gần chết, lúc đó sẽ cố gắng niệm chừng vài trăm câu Phật hiệu để cầu mong đức A Di Ðà Thế tôn đến tiếp dẫn, Thầy nghĩ xem ước có nên chăng ?!
....Và còn có thêm một số các câu hỏi khác nữa, đại loại cũng giống như vậy.
*

Trước đây, tôi cũng đã từng có giải đáp một số các câu hỏi tương tự như thế nầy rồi, nhưng nay cũng vẫn còn nghe thấy và nhận được thêm các câu hỏi cùng loại (như vừa nêu trên), nên qua cương vị của một người tăng sĩ hoằng truyền Phật pháp, tôi xin mạn phép ghi lên đây đôi lời bày tỏ để gởi chung đến cho các hàng Phật tử gần xa. Nếu như có vị nào còn các ý tưởng tương tợ như thế, sẽ nhơn đây mà rộng hiểu hơn, ngỏ hầu tự tạo cho mình một ý niệm rõ ràng và kiên quyết thêm trên bước đường lập tâm tu học.

Nam mô A Di Ðà Phật.
Trong kinh có dạy :

Ngày tháng qua mau,
Vô thường không đợi.
Kiếp người ngắn ngủi,
Biển nghiệp mênh mang...

1. Sao gọi là NGÀY THÁNG QUA MAU ?
Ðiều nầy thế nhân ai là người không thấu rõ ?

Nay cứ lấy thân ta đây mà làm thí dụ.

Xin hãy hồi tưởng lại thuở nào ta còn thơ dại, quanh quẩn bên gối mẹ cha, kế đến dần dần lớn khôn hơn lên.... song thân dẫn đến trường để học vỡ lòng đôi chữ ê a, mỗi ngày vui đùa trong cuộc sống vô tư, nhìn đời với đôi mắt nai tơ, ngơ ngác, tâm không vương vấn lấy một chút muộn phiền qua những tiếng cười chứa vạn niềm vui khi tung tăng chạy đùa theo đàn bướm lượn bay, hay đưa tay hái lấy một vài ba bông hoa dại ở bên đường trong bóng tím của hoàng hôn sắp tắt...

Ðời thơ ngây ấy có khác chi một dòng nước hiền hòa, êm trôi trong trầm lắng.
Ngày tháng âm thầm qua mau, tạo ra không biết bao nhiêu là chuyển biến, đổi thay và bể dâu trong cuộc sống.

Ðến khi khôn lớn...

Biệt mái trường xưa, giã từ bạn bè và những thời vô tư ngày cũ, dấn thân vào chốn trường đời...

Ðến chừng ấy ắt sẽ đón nhận biết bao nhiêu nỗi cay đắng, dập dồn, mỗi ngày càng thêm tiếp nối... hết sầu đến thảm, hết khổ lại vui... các việc như thế xảy ra cho cuộc đời ta, biết kể sao cho xiết !

Rồi đến một ngày nào đó, chừng khi rỗi rảnh, soi gương nhìn lại, thì những nét thơ ngây, vui tươi ngày xưa, nay còn đâu nữa, mà chỉ thấy thay thế vào đó là một gương mặt mới, dầy dạn gió mưa, lẫn với bao nhiêu nét phong trần và tuyết sương đã ít nhiều điểm pha trên mái tóc xanh của thời thơ ấu cũ.

Trước cảnh thời gian tàn nhẫn, vô tình và các sự đổi thay nơi bản thân như thế, nếu là người biết suy nghĩ sâu xa, hỏi ai mà chẳng thấy chạnh lòng cho cái kiếp phù sinh mong manh, ngắn ngủi.

Cho nên “thời gian qua mau”, ôi, mấy chữ tuy đơn giản như thế mà nó hàm ẩn biết bao nhiêu thay đổi, kinh lòng !


2. Sao gọi là VÔ THƯỜNG KHÔNG ĐỢI ?

Tiếp theo ý “ngày tháng qua mau” ở trên, nơi đây ta hãy bàn đến câu VÔ THƯỜNG KHÔNG ÐỢI”.

a. SAO GỌI LÀ VÔ THƯỜNG ?
Chính nghĩa là “không thường còn mãi” vậy.

Kinh dạy :

Bất cứ một vật thể nào ở trên thế gian nầy cũng không sao thoát khỏi được bốn thứ “định luật VÔ THƯỜNG” cố định của tạo hóa là THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG (SANH, TRỤ, DỊ, DIỆT) cả.

b. THẾ NÀO GỌI LÀ THÀNH ?
THÀNH tức là tình trạng khởi đầu của một vật thể (PHÁP). Ví dụ như thân của ta đây, khi tinh huyết cha mẹ ngưng đọng lại kết thành ra hình tướng, thì cái tướng dạng đầu tiên đó được gọi là THÀNH.

Lại như cái áo mới may, lúc các mảnh vải đầu tiên ghép lại thì gọi là THÀNH.

Cho nên THÀNH đây tức là sự bắt đầu lúc mới ban sơ, từ nơi khởi thủy. Trên thế gian nầy nói riêng và khắp mười phương nói chung, không có nhất một tướng trạng nào mà lại chẳng khởi đầu bằng sự THÀNH ấy cả.

c. THẾ NÀO GỌI LÀ TRỤ ?
TRỤ tức là tồn tại ở trên cõi đời trong một thời gian hoặc lâu, hay mau, vv... nào đó. Nếu gọi là "trụ lâu dài" (trường trụ) thì có thể đến ngàn, vạn, triệu, tỷ năm hay hơn nữa cũng chưa biết chừng. Nếu gọi là trụ ngắn (đoản trụ) thì từ trăm năm cho xuống đến vài ba chục, năm bảy năm, vv....hay như kiếp phù du (vừa thấy đó thời liền mất đó), hoặc mau hơn nữa là “một thoáng mong manh” (hơi thở nhẹ).

d. THẾ NÀO GỌI LÀ HOẠI ?
HOẠI tức là không còn giữ được hình dạng nguyên thủy ban đầu nữa, mà thay vào đó là một sự hư hao, mỏi mòn, và tàn tạ theo ngày tháng dần qua. Như một bông hoa vừa chớm nở ban mai với sắc màu đẹp tươi rực rỡ... chiều đến bị mưa gió phủ phàng làm cho tàn tạ sắc hương..Ví như chiếc áo mới ngày nào, giờ đây đã trở thành cũ hư, rách nát vậy.

Cứ lấy thân ta đây mà làm thí dụ cụ thể nhất.

Chẳng hạn như :
Mới ngày nào hãy còn đầu xanh, tuổi trẻ, dung sắc đẹp tươi, ước vọng cao xa, chí nhìn muôn dặm. Giờ đây khi giật mình nhìn lại thì chân mỏi, gối dùn, sắc hương tàn tạ, má hóp, da nhăn... Ôi ! còn đâu là những giấc mơ hoa của thời xa xưa cũ. Chừng đó mới ngậm ngùi mà than câu :
“Xuân bất tái lai”
(tuổi trẻ không bao giờ trở lại) thì đã muộn rồi !

Bởi mấy ai kéo được thời gian, để tìm lại tuổi xuân cùng những thời thơ ấu cũ !

Có câu rằng :
Hương sắc dường xuân mộng,
Tài hoa tựa bóng mây.
Soi gương bừng tỉnh giấc,
Ðời thôi hết còn mong.
Xuân qua không trở lại,
Trẻ thơ mấy lúc già.
Cúi đầu sa nước mắt,
Vương bá hết chờ trông...

e. THẾ NÀO GỌI LÀ KHÔNG ?
KHÔNG tức là chẳng còn chi nữa hết, dứt tuyệt hẳn duyên trần, thân tan về cát bụi, hơi hoàn trả gió đông !

Ðây là giai đoạn chót cùng của đời người, Thiệt vô cùng ghê sợ.

Nhưng dù không thích hay hãi hùng cho thế mấy đi nữa, tự cổ chí kim hỏi ai là người tránh được? Chớ nói chi thân ta đến lúc KHÔNG làm gì, mà ngay khi còn tại thế đây, mỗi khi nhìn thấy thân của người khác quy về nơi KHÔNG (chết) ta cũng đã cảm thấy hãi hùng, lo sợ!

Cho nên hể phàm làm người có trí huệ ắt phải luôn nghĩ đến bốn sự THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG nầy mà phát tâm chán lìa, rồi y theo lời Phật dạy mà tuần tự và tùy theo bổn phận lần lượt tu hành hầu lo dự bị sẵn tư lương (công đức) cho ngày 30 tháng chạp của đời mình trong mai hậu.


3. Thế nào gọi là MẠNG NGƯỜI ngắn ngủi ?

Sách có câu rằng: “Nhơn sanh thất thập cổ lai hy...”
Nghĩa là: Người sống ở đời đến bảy mươi tuổi cũng gọi là hiếm có (hy hữu) lắm rồi.

Nhưng nếu cứ bình tâm xét lại, thử hỏi trên cõi thế gian nầy có được bao nhiêu người hưởng trọn vẹn số tuổi bảy mươi kia ? Hằng ngày, tháng, năm...trôi qua trước mắt ta, biết bao nhiêu là cuộc đời ngắn ngủi, đến mức não lòng !

Xin kể ra đây vài ba Ví dụ chẳng hạn như :
  • Có kẻ vừa mới tượng hình thời đã chết trong thai mẹ (ngắn ngủi đến mức chưa rõ được mặt mày)
  • Có kẻ vừa mới chào đời đã vội lìa nhân thế sau khi để lại cõi trần vài ba tiếng khóc bi ai, hay giã từ thế gian sau năm ba ngày, đôi bảy tháng kế tiếp...
  • Có kẻ lìa xa dương cảnh trong lứa tuổi đôi mươi, yêu đời và tràn đầy nhựa sống, hay vợ chồng đang độ nồng mặn, yêu thương lại phải nửa đường “cang thường gãy gánh”, gây biết bao thương xót, đau buồn cho những người thân yêu còn lại...
Ngần ấy và còn bao nhiêu sự VÔ THƯỜNG, ngắn ngủi khác nữa kể sao cho xiết!

thời gian dần qua, vật đổi sao dời...

Trên cõi trần lụy khổ đau nầy, hỏi có chi là còn tồn tại mãi đâu !

Sách xưa đã từng ghi lại biết bao nhiêu kẻ đế, bá, công, hầu, đồ vương, khanh tướng, giai nhân tuyệt thế, mỹ nữ phòng khuê... nhưng thử hỏi có mãi còn tồn tại, hay là trước sau gì rồi cũng chỉ còn trơ lại một nắm xương tàn trong huyệt lạnh âm u ?

Câu “Mạng người ngắn ngủi” ở đây chính là như vậy !


4. BIỂN NGHIỆP mênh mang là thế nào ?
Trong cuộc sống của mình, ai lại không ít, nhiều gây ra nghiệp tội, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc biết, hoặc không biết, hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người khác làm, hay là thấy người khác làm mà sanh lòng vui theo (tán trợ)... Có ai dám tự hào rằng mình là người không tội ?

Ðến khi thân xác hoàn không rồi, chừng đó thần thức sẽ theo các nhân xấu ác gây tạo lúc sanh tiền mà trầm luân vào trong biển nghiệp, biết trôi dạt về đâu trong sáu nẻo luân hồi và 84,000 con đường đầu thai, chuyển kiếp !

Cho nên gọi “biển nghiệp mênh mang” chính là như vậy.


Tóm lại, cái VÔ THƯỜNG không đợi, BIỂN NGHIỆP mênh mang kia, tuy mới nghe qua thì đơn sơ dường như không có gì đáng để cho người đời (vô tâm) lưu ý cả, ấy thế mà nó hàm chứa trong đó biết bao nhiêu là biển dâu thay đổi...

Ngày tháng trôi qua, tuế nguyệt hao mòn, có chi gọi là tồn tại mãi đâu !

Là người Phật tử học hiểu đạo pháp, ta há không nghĩ đến những sự “VÔ THƯỜNG không đợi” nầy mà sớm phát nguyện tâm tu tập hay sao ? Còn đợi cho đến bao giờ ?

Nếu như nói rằng :
Ðợi cho các con khôn lớn, thành nhân, hay lập gia đình xong hết rồi sẽ lo tu sau, cũng chưa muộn lắm” !

Người thức giả không nên nói ra câu ấy.
Tại Sao ?

Bởi vì :
Qua các ý vừa mới nêu trên, há chẳng thấy cái VÔ THƯỜNG không đợi” nó đáng sợ như thế nào ư mà còn so tính, đợi chờ. Ai dám bảo đảm rằng ngày mai mình sẽ ra sao, mạnh hay đau, còn hay mất. Chớ nên bao giờ nói rằng chờ lo an bài cho các con xong hết rồi, sẽ tính đến việc tu hành....

Phải biết quỷ VÔ THƯỜNG kia không hẹn, Diêm lão nọ chẳng nể tình. E các con “lo chưa xong chi hết mà thân mình đã quy về nơi cát bụi trước rồi.”

Há chẳng thấy câu: "Lá xanh còn tại, lá vàng đã rơi!" sao ?

Chừng đó mới tính thế nào ?

Tổ sư có dạy rằng :
Nhứt nhựt VÔ THƯỜNG đáo,
Phương tri mộng lý nhơn.
Vạn ban tương bất khứ,
Duy hữu nghiệp tùy thân.

Nghĩa là :
Ngày kia VÔ THƯỜNG đến,
Mới biết mình trong mơ.
Muôn việc đều bỏ lại,
Chỉ có nghiệp theo mình.
*

Vã lại việc “tu hành” có rất nhiều đường lối, phương cách khác nhau, chớ đâu phải “tu” chỉ có một ý nghĩa duy nhất là cạo tóc vào chùa, đoạn hết trần duyên, lìa thân cắt ái...không thôi đâu ! Ví như có kẻ ở tại gia mà biết làm lành, lánh dữ, bố thí, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, lòng từ bi thương xót cứu giúp người đơn quả, kẻ nghèo hèn, khuyên nhắc người hành thiện... ấy cũng gọi là đã tu rồi vậy.
Há phải chỉ có đầu tròn, áo vuông không đâu mà lo sợ và suy nghĩ, hẹn hò.

Có câu rằng :
Dần dà tính thiệt, so hơn,
Tuổi xanh qua mất để hờn về sau...

Nếu như cứ mãi tính toán, so đo, hơn thiệt hoài, đến chừng già nua, lụm cụm, sức khỏe mõi mòn rồi, dù cho tâm có được thức tỉnh, muốn đi tu e cũng đã muộn màng rồi vậy.

Ngài Hoằng Nhứt luật sư (là một vị Tổ đắc đạo) có dạy hai câu kệ rằng :

Việc đời muốn dứt thời liền dứt,
Xong đến bao giờ việc mới xong.

Như nếu quyết chí, tu hành, muốn bỏ duyên đời thì dứt ngay đi, phải can đảm chặt đứt liền các sự so đo, tính toán hơn thiệt, giống như dùng kiếm Thái A trảm một nhát thì muôn việc đều xong. Chớ còn hẹn hò, hay chờ xong việc thì dầu cho đến phút cuối cùng, nằm trên giường bệnh, nhắm mắt chờ chết, e công việc cũng còn chưa xong được thay, há nói chi đến “chờ xong hết”, trước lúc tuổi già.

Còn lại nói rằng chờ cho đến lúc “già già” hơn một chút, hay tới phút gần lâm chung mới chịu niệm vài ba trăm câu Phật hiệu để cầu xin tiếp dẫn... Thương thay cho câu nói sai lầm ấy.

Tại sao vậy ?
Bởi vì lời nói đó rất là sai trái, tác động và hậu quả của nó chẳng những gây tổn hại cho chính mình không thôi mà lại còn di lụy đến các hàng tăng, tục, nam, nữ ở trong đời (hiện tại và về sau) nữa.

Xem kinh, phải dùng trí huệ mà nghiền ngẫm, suy nghĩ đến cái nghĩa lý sâu xa ở trong đó mới được, bởi vì lời kinh của Phật thuyết ra có đến vô lượng nghĩa lý, tùy theo căn cơ và trình độ mà mỗi người đều có sự thấy biết sai biệt khác nhau, tuyệt đối chớ nên chấp theo văn từ và thông nghĩa mà thành ra một lần lầm, ngàn muôn lần lẫn.

Kinh văn nói không sai, nhưng trong ấy còn có tàng ẩn nhiều mật ý sâu xa mà chỉ người trí huệ cùng các bậc tri thức hiểu đạo mới rõ thấu được mà thôi. (Người tu học Phật pháp bắt buộc phải nên nhớ kỹ điều nầy trong bước đường tu tập của mình.)

Nên biết rằng kẻ phàm phu nghịch ác (ít nhiều) như chúng ta đây, khi lâm chung mà còn nhớ biết niệm Phật được là do nơi kiếp trước đã có gây tạo nhân lành Tịnh độ cùng gieo kết Phật duyên sâu xa, cho nên trong phút tối hậu của cuộc đời nầy mới gặp được bậc thiện tri thức (thầy hay, bạn tốt) chỉ bảo, dẫn dắt niệm Phật như thế. Việc nầy họa hoằn lắm là trong muôn triệu người may ra mới có được một hoặc hai trường hợp mà thôi.

Trong quyển QUẦN NGHI LUẬN” là cuốn sách giải đáp các điều nghi hoặc của đại chúng dạy rằng :
Có mười hạng người khi lâm chung không được nghe danh hiệu Phật cùng niệm Phật danh.

Thế nào Mười hạng người đó ?

Chính là các kẻ sau đây :
  1. Không gặp bạn lành nên không người khuyên niệm Phật.
  2. Ðau bịnh, nghiệp chướng hành hạ thân xác thống khổ, nên tâm không an ổn niệm Phật.
  3. Trúng phong bất ngữ (câm) nói không ra tiếng.
  4. Cuồng tâm, loạn trí, mất sự sáng suốt.
  5. Bị tai nạn nước lửa chết bất cập.
  6. Bị độc xà, ác thú vồ bắt ăn thịt thình lình.
  7. Bị bạn ác phá hoại làm cho mất hẳn lòng tin.
  8. Bị hôn mê mãi cho đến khi chết.
  9. Chết thình lình giữa quân trận.
  10. Từ nơi chỗ cao té xuống mà chết.

Các việc vừa kể trên đây, bất luận là tăng hay tục, đạo hay đời, nơi đâu mà không thường gặp phải. Ðó là do nơi túc nghiệp (nghiệp duyên đời trước) chiêu cảm, bổng nhiên xảy ra, không kịp, không ngờ để mà trốn tránh.

Nếu như chẳng may bị gặp phải một trong mười việc trên đây, thì thử hỏi trong lúc thiếu duyên lành hay bất cập đó, trong lòng chỉ còn biết có hãi hùng, hốt hoảng mà thôi, làm sao tĩnh tâm niệm Phật cho được ! Lúc ấy dù có Phật sống cũng không cứu nổi, chớ nói chi đến Phật đã nhập Niết Bàn rồi !

Chừng đó thì thần thức phải theo NGHIỆP ÁC của mình đã gây tạo ra lúc còn sanh tiền mà đọa ngay vào tam đồ[1], bát nạn.[2] Bấy giờ muốn nghe tên người thân thuộc, cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái... cũng còn không được thay, huống chi nói đến việc nghe tên Phật hay là niệm Phật ư ?

Ðó là chỉ nói đến mười cái nghiệp ác “bất cập”[3] kia. Bây giờ xin được kể thêm đến các duyên khác nữa.

Ấy là :
1. Giả sử như không bị những ác duyên trên, chỉ thọ bịnh sơ sài mà qua đời, thì e cho lúc lâm chung (chết) tứ đại ly tán, phân lìa, thân thể chịu sự đau đớn vô hạn, dường như con cua bị rớt vào trong lửa, con đồi mồi sống bị trầm vào trong nước sôi để gỡ vảy...
Trong lúc bối rối, kinh hoàng như thế, phần yêu vợ, thương con, tham tiếc tiền của... TÂM đâu có rỗi rảnh để nhớ mà niệm PHẬT.

2. Lại nữa, ví như không đau bịnh chi mà sắp mãn phần, thì e cho DUYÊN ÐỜI chưa dứt, NIỆM TỤC[4] khó quên, tham sống, sợ chết, tâm tư bối rối không yên. Thêm vào đó việc nhà cửa, nợ nần, gia sản giải quyết chưa dứt khoát, phân minh. Chuyện trước thì chưa xong, chuyện sau chưa sắp đặt, vợ con khóc than kêu gọi, nước mắt tuôn chảy lâm ly, nghẹn ngào thương cảm nói không ra lời, vv...
Trăm ngàn mối lo sợ, đau buồn hỗn độn như thế đồng một lúc xảy ra... Hỏi làm sao tĩnh tâm mà niệm Phật ?

3. Lại ví như trường hợp trước khi chưa chết, chẳng may vướng phải đôi chút bịnh khổ nơi thân, chưa chi mà đã rên rỉ đớn đau, nơi chốn thiên sơn, vạn thủy, núi thẳm, hang cùng, cũng không quản ngại tìm thầy chạy thuốc. Thêm lo cúng tế, khẩn cầu van vái bốn hướng, tám phương...
Tâm niệm tạp nhạp rối ren như thế... Hỏi làm sao tĩnh tâm mà niệm Phật ?

4. Còn nói đến việc trước khi đau bịnh chưa mãn phần đi, thì bị sự khổ già nua, lụm cụm, nhiều mối áo não buồn lo, e cho an bài các việc trên cái thân suy lão chưa xong, đau nhức, mỏi mệt dây dưa...
Há đâu an lòng niệm Phật ?

5. Lại nói đến việc trước khi chưa già, tức là đang còn trong thời kỳ mạnh khỏe, xuân sắc, thì cái tâm cao vọng có khi vượt khỏi chín từng mây e cũng chưa cùng tận ! Nay lo danh, mai tính lợi, tháng nầy muốn làm giàu, tháng khác tính chuyện vợ, con, nhà cao xe đẹp... Trăm công ngàn chuyện thế tục buộc ràng, dong ruổi đông tây, suy vầy tính khác.
Tâm nhảy lung tung như vượn chuyền cây, ý dong rủi nhanh như ngựa phi mau nơi đồng trống.
Hỏi làm sao niệm Phật ?

6. Nói cho đối cùng đi nữa, Giả sử như được an nhàn, giàu sang, phú quý, vợ đẹp, con xinh, sức khỏe dồi dào, thì lại bị nghiệp si mê cầm nắm tâm trí, say đắm vợ con, của tiền, nhà đất...làm sao buông bỏ ?
Nếu không có chí tu hành và không nhìn thấu rõ đời là huyễn mộng, biển khổ vô bờ, thì thân tuy được an lành nhưng tâm trí cũng vẫn còn bị mê muội.

Trong cái cảnh “nhìn chưa thấu, nắm chưa chắc, đạp chưa vững”... ấy, không thể có đủ can đảm và nghị lực để buông bỏ muôn duyên, đắm đuối, mê say trong cảnh sắc, tài, danh, lợi... đến khi gặp các việc quá sức mình thì không thể tự chủ, tất nhiên tâm phải theo hoàn cảnh mà đảo điên.

Như thế hỏi làm sao niệm Phật ?


Các chư đạo hữu,

Xin lắng lòng xét suy cho kỹ lại, đừng nói đợi đến chừng “già già” một chút, lo cho con cháu xong hết rồi, hay chờ khi nào thấy mình suy lão, sắp chết đến nơi, mới chịu niệm Phật để cầu tiếp dẫn... Phải cố gắng suy cho cùng, nghĩ cho tận đi, đừng nói chi đến các việc trên, ngay như trong lúc trẻ trung, nhàn nhã, mạnh khỏe như thế nầy mà tâm trí vẫn còn chưa sáng suốt quyết định dứt khoát. Chớ nói chi cho nhiều, chỉ nội bị mỗi một cái việc nhà cửa, vợ con đeo đẳng bên mình mà còn thương, còn khổ, còn lo lắng, ưu tư... không sao niệm Phật được thay, há dám nói đợi đến khi gần lâm chung, ngàn muôn thống khổ dồn dập tới tấp hay sao ?

Còn nếu như nói rằng:
Thôi cứ buông thả, phó mặc cho duyên đời đưa đẩy, nhắm mắt, xuôi tay, thế nào cũng được, hơi sức đâu mà lo nghĩ trước cho nó bận lòng! Những người nói lời như thế thì các bậc hiền thánh đều chê là không có trí huệ, chính thật những kẻ đang mê mà nói chuyện mộng, si mà nói chuyện cuồng vậy!

Trên đời nầy những hạng người dụng tâm như thế chẳng thiếu chi, đáng nên thương xót và rất ư là lầm lạc vậy.
*

Chư đạo hữu Phật tử ơi...

Xin hãy bình tâm đọc kỹ những lời tôi vừa bày tỏ trên đây mà suy nghĩ lại.

Kiếp người mong manh, ngắn ngủi như lửa nháng nơi thân đá, chớp giật giữa lưng trời. Mới vừa còn nghe tiếng, thấy hình đó... thời đã mất đi, đã ngàn thu vĩnh biệt rồi.

Là người Phật tử hiểu đạo và có trí huệ, thì phải nên nhận định cho minh bạch, rõ ràng, rồi thừa lúc chưa già, chưa bịnh mà bớt đi ít phần thế sự, lắng đôi chút phiền não ở thân, tâm... sống một ngày quang âm, lo một ngày niệm Phật, được một giờ rỗi rảnh, tu ít khắc công phu. Như thế thì đến khi trăm tuổi già, mọi việc cũng an bài mà hành trang công đức mang theo cũng không đến nổi phần nào thiếu thốn.

Chừng ấy lo chi nơi chốn trời Tây, đức A Di Ðà Thế tôn chẳng mở cho lối đường quang đãng, dang rộng cánh tay vàng mà tiếp dẫn hay sao ?

Bằng nếu chẳng như thế, e khi tứ đại phân ly, DUYÊN NGHIỆP đối đầu, VÔ THƯỜNG dẫn lộ, sa vào trong KHỔ HẢI mênh mông, dầu cho muốn ăn năn, e cũng đã trễ tràng rồi vậy.

Nên lắng lòng suy nghĩ, chớ quên.


Nhân tiện tôi cũng xin trích lục ít phần kệ dưới đây để gởi chung đến cho các hàng thiện tín cùng chư thiện căn nào vẫn mãi còn đang đắm mê trong huyễn mộng, nhơn đọc đến mà ít nhiều thức tỉnh, phát tâm lập hạnh tu hành:

Rõ cảnh mộng, chớ quanh đường mộng,
Biết đường chơn, hảy kíp tu chơn,
Dần dà tính thiệt, so hơn,
Tuổi xanh qua mất, để hờn về sau.

Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,
Thảng như mình phụ lấy mình,
Trách sau Diêm lão vô tình chẳng dung.

Bỏ việc ác, xin cùng tu thiện,
Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Gái, trai, già, trẻ đều mau tu trì.

Khiến mỗi kẻ đều quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát sông mê,
Dầu cho lao khổ dám nề,
Ðài sen đốt mảnh hương thề nguyền ghi.

Xin dốc nguyện tin theo lời thánh,
Ðừng để cho rỗi rảnh ưu du,
Kiếp nầy nếu chẳng chuyên tu,
Chỉn e kiếp khác công phu lỡ làng.


Lời và ý của đoạn kệ trên đây đã bày tỏ rõ ràng như thế, dám mong chư Phật tử nên cố gắng lưu tâm.

Riêng về phần tôi, là một dung tăng ăn mày cửa Phật, tu hành nơi chốn quê mùa, tự biết mình nghiệp sâu, tội nặng, đức mỏng, chướng dày, thiệt ngàn muôn lần chẳng dám mang tiếng làm một ông thầy dạy đạo, chỉ mong sao được đứng trên cương vị bạn bè, lấy tấm lòng chơn thật, nương y theo lời Phật, ý Tổ đã dạy mà lần lượt tỏ bày để cùng nhau khuyến nhắc vậy thôi.

Xin quý Phật tử, đạo hữu, xem nơi thiên bài mà thấu ý, đừng theo văn vịnh để vui tâm. Ðược vậy mới không phụ lòng chư Phật xót thương, Tổ sư chỉ dẫn, mà Hải Quang tôi cũng ngàn muôn vui mừng, cảm kích.

Xin nguyện cho tất cả mọi người, mọi giới đều một lòng :
  • Nương bóng từ quang,
  • Quy về nơi chánh đạo,
  • Y giáo phụng hành.
Ðể một ngày kia bên cõi Tây phương cùng nhau làm người bạn sen nơi chín phẩm.

Như vậy há chẳng là vô vàn hân hạnh hơn ư ? HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.10.11.2012).

No comments:

Post a Comment