Phật Giáo Khái Luận (Thiền
Tôn)
THIỀN TÔN
I.-
DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Khi Phật ở hội Linh Sơn cầm nhánh
hoa khai thị cho trong chúng, cả chúng đều im lặng, chỉ có ngài Ca Diếp tôn giả
nở nụ cười bí mật. Phật liền dạy rằng
: “Ta có chánh pháp nhẫn tạng, Niết-bàn,
diệu tâm phú chúc cho người Ma-ha Ca Diếp”. Chuyện này thấy ở trong kinh Phạm thiên vấn
Phật quyết nghi. Ấy là nguồn gốc phát
khởi của Thiền tôn. Trong truyện Phú
Pháp tạng nhơn duyên nói rằng : Ngài Ca Diếp truyều lại cho ngài A-nan làm vị tổ
thứ hai, rồi lần hồi truyền đến ngài Mã Minh là vị tổ thứ 12, ngài Long Thọ là
vị tổ thứ 14, ngài Đạt-ma là vị tổ thứ 28 - Về triều vua Võ Đế đời Lương, ngài
Đạt-ma từ Tây Trúc qua Trung Hoa truyền pháp, ấy là vị tổ đầu tiên về Thiền tôn
ở Trung Hoa. Ngài Huệ Khả kế thừa làm vị
Tổ thứ hai, ngài Tăng Xán là vị tổ thứ ba, ngài Đạo Tín là vị tổ thứ tư, ngài
Hoằng Nhẫn là vị tổ thứ năm, ngài Huệ Năng là vị tổ thứ sáu.
II.
NAM ĐỐN VÀ BẮC TIỆM
Ngài Ngũ tổ - Hoằng Nhẫn - ở tại
núi Đông sơn huyện Huỳnh Mai, một hôm ngài khiến các đệ tử mỗi người làm một bài
kệ, trong ấy có bậc Thượng tọa là ngài Thần Tú đề bài kệ nơi vách rằng : “Thân như cây
Bồ-đê, tâm giống đài gương sáng, thường phải lau chùi mãi, chớ để nhuốm trần ai
!”
Ngài
Huệ Năng nghe bài kệ ấy, cũng làm một bài rằng : “Bồ-đề vốn
không cây, gương sáng đâu phải đài, xưa nay không một vật, trần ai nhuốm chỗ nào
?”
Ngài
Ngũ tổ bèn truyền pháp cho ngài Huê Năng, khiến đi qua phía Nam; từ đó về sau
ngài Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, gọi là Nam đốn, ngài Thần Tú truyền pháp
ở phía Bắc gọi là Bắc tiệm. Nam tôn chủ về đốn ngộ; Bắc
tốn chủ về tiệm tu, cho nên gọi là Nam đốn Bắc
tiệm.
III.- NĂM NHÀ VÀ HAI PHÁI
Học trò của ngài Lục tổ, người được
truyền pháp rất nhiều, nhưng có tiếng hơn hết là ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc,
ngài Hành Tư ở Thanh Nguyên. Học trò
ngài Nam Nhạc chia ra làm tôn Lâm Tế và tôn Qui Ngưỡng. Học trò ngài Thanh Nguyên chia lam tôn Tào
Động, tôn Vân Môn và tôn Pháp Nhãn; ấy là năm nhà. Về tôn Lâm Tế lại chia ra làm hai phái, là
Dương kỵ và Huỳnh long. Từ đờI Tống về
sau, tôn Lâm Tế rất thạnh hạnh, ngày hay Thiền tôn về Nam Bắc các đại tòng lâm,
đều là con cháu tôn Lâm Tế cả.
IV.-
TÔN LÂM TẾ
Ngài Hoài Nhượng Thiền sư ở tại chùa
Bát-nhã núi Hoành Nhạc, học tro ngài có ngài Đạo Nhất Thiền sư họ Mã, tục gọi là
Mã tổ; ngài Mã tổ truyền cho ngài Bách Trượng, ngài Bách Trượng truyền cho ngài
Huỳnh Nghiệt, ngài Huỳnh Nghiệt truyền cho ngài Lâm Tế nghĩa huyền Thiền sư
; ấy là về tôn Lâm Tế. Ngài Lâm Tế hỏi ngài Huỳnh Nghiệt : Sao gọi là đại ý Phật pháp ? Ngài Huỳnh Nghiệt liền đánh một cái; như vậy,
ba lần hỏi đều bị ba lần đánh; sau đến tham học với ngài Đại Ngu mới ngộ được
cái tôn chỉ của ngài Huỳnh Nghiệt, rồi trở về với ngài. Căn cơ của ngài rất lanh lợi, hễ ngài Huỳnh
Nghiệt đánh, thời ngài hét lên; về sau ngài tiếp người dùng bằng thiết bảng đánh
và hét tiếng, ngài nói : “Có khi một tiếng hét như cái bửu kiếm kim cương vương, có
khi một tiếng hét như Sư tử giẫm chân, có khi một tiếng hét như huơ cây nơi bóng
cỏ, có khi một tiếng hét không khởi dụng của tiếng hét”, nên người
đời gọi là Lâm Tế tứ yết. Ngài lại nói
:
“Ta có khi đoạt nhơn mà không đoạt cảnh có khi đoạt cảnh mà
không đoạt nhơn, có khi nhơn và cảnh đều không đoạt”[1][1], kẻ hậu học gọi là tứ liệu giản. Tôn Lâm Tế truyền đến đời Tống, học trò ngài
Thạch Sương sở viên lại chía ra làm Huỳnh Long Huệ nam và Dương Kỵ phương hội,
hai phái đương thời ấy pháp hội của phái Huỳnh Long rất thạnh, người ta nói
không kém gì đời ngài Mã Tổ ngài Bách Trượng; phái Dương kỵ thời từ đời Tống,
đời Minh cho đến đời Thanh pháp lưu khắp diễu cùng cả Nam Bắc.
V.-
TÔN QUI NGƯỠNG
Ngài Bách Trượng truyền cho ngài
Linh Hiệu Thiền sư ở tại núi Qui sơn đất Đàm Châu; ở tại Ngưỡng sơn đất Viên
Châu; ấy là về tôn Qui ngưỡng. Ngài
Ngưỡng Sơn ở nơi xứ Đàm Nguyên lãnh thọ 97 viên tướng, sau ở nơi Qui sơn, nhơn
tướng tròn (O) mà đốn ngộ, bèn nói rằng : “Ta nơi xứ Đàm
Nguyên được cái thể, ở nơi núi Qui sơn thời được cái dụng”. Mỗi khi khách chủ ứng đáp, hoặc họa tướng
trâu, hoặc họa tướng
Phật, hoặc họa tướng
người hoặc họa tướng chữ
vạn cơ cơ bí mật, nghĩa rộng
lớn mầu nhiệm món món biến hiệu người không thể lường được.
VI.- TÔN TÀO
ĐỒNG
Ngài Hy Thiên Thiền sư đắc pháp
với ngài Thanh Nguyên; ở núi Hoành sơn có viên đá hình như cái đài, ngài Hy
Thiên làm am trên đá ấy đương thơi người ta gọi là Thạch Đầu Hòa thượng. Ngài Thạch Đầu truyền cho ngài Dược Sơn, ngài
Dược Sơn truyền cho ngài Vân Nham, ngài Vân Nham truyền cho ngài Lương Giới
Thiền sư ở tại núi Đông Sơn đất Thoại Châu, ngài Đông Sơn lại truyền cho ngài
Bổn Tịch Thiền sư ở núi Tào Sơn đất Vu châu; ấy là về tôn Tào Động, ngài Vân
Nham thành Thiền sư dùng phép tam muội bửu cảnh trao cho ngài Đông Sơn, ngài
Đông Sơn trao cho ngài Tào Sơn, đều là sau khi đã ngộ đạo, dùng pháp ấy mà ấn
chứng tự tâm, bí mật truyền cho nhau không cho người biết, sau bị người nghe
trộm khi ấy mới đem truyền bá ở đời.
Ngài Đông Sơn lập ra năm vị quân thần để làm tôn yếu, lại làm năm bài
tụng để tỏ bày ý thú. Năm vị là: Chánh
Trung thiên, Thiên trung chánh, Chánh trung lai, Thiên trung chí, Kiêm trung
đáo.
1.-
Chánh trung thiên: Thật tướng
của vũ trụ là chơn thật, trung chánh, ra ngoài chấp có chấp không, chúng sinh
đối với thật tướng ấy, mê lầm không nhận rõ, khởi ra bao nhiều là thiên chấp;
thế là ở trong chánh lý trung đạo, mà sanh lònh chấp trước, nên gọi là Chánh
trung thiên.
2.-
Thiên trung chánh : Như trên
đã nói, thật tướng ra ngoài chấp có chấp không, nhưng vì chúng sinh mê lầm không
nhận rõ, sanh ra các điều thiên chấp; bây giờ bậc này nhơn dùng công tu hành,
quán lý, chỉnh nơi thiên chấp của chúng sinh đó, đem một phần trí huệ nhận rõ lý
trung chánh nên gọi là Thiên trung chánh.
3.-
Chánh trung lai : Do bậc trên
mà tu hành tới, khi tâm mình được hoàn toàn an trú trong lý trung đạo, nên gọi
là chánh trung lai.
4.-
Thiên trung chí : Tuy tâm
mình đã an trú trong lý trung đạo, nhưng xét ra, nghĩa là nói cao lên một tầng
nữa, thì cũng còn lý trung đạo cho mình an trú, thế cũng là còn thiên về chơn
lý, nên gọi là Thiên trung chí.
5.-
Kiêm trung đáo : Đến bậc này
mới thiệt là viên mãn cứu kính, thường thường an trú trong lý trung đạo, mà
không có tướng an trú, cũng không lý trung đạo để an trú, trí huệ đầy đủ, viên
dung chơn, tục, nên gọi là Kiêm trung đáo.
VII.- TÔN VÂN
MÔN
Ngài Thạch Đầu truyền cho ngài Thiên
Hoàng, ngài Thiên Hoàng truyền cho ngài Long Đàm, ngài Long Đàm truyền cho ngài
Đức Sơn, ngài Đức Sơn truyền cho ngài Tuyết Phong, ngài Tuyết Phong truyền cho
ngài Văn Yến Thiền sư ở đất Thiều Châu Vân Môn; ấy là Tôn Vân Môn. Hễ ngài gặp ông thầy nào đến tham học, thời
chỉ ngó mà nói rằng ‘dám’, nếu ông thầy ấy còn ngần ngại, thời
ngài nói rằng ‘đi’, học trò ngài chép lại là ‘cố dám
đi’. Ngài nhơn người học
đến hỏi thường dùng một chữ mà đáp cho nên người ta gọi là ‘nhất tự
quán’[2][2], ít người
được biết cái ý thú ấy.
VIII.- TÔN PHÁP NHÃN
Ngài Tuyết Phong truyền lại cho ngài
Huyền Sa, ngài Huyền Sa truyền cho ngài La Hán, ngài La Hán truyền cho ngài Văn
Ích Thiền sư ở đất Kim Lãng viện Thanh Lương; sau khi viên tịch pháp thụy là Đại
Pháp Nhãn Thiền sư; ấy là Tôn Pháp Nhãn.
Ngài thường dùng cái nghĩa sáu tướng nơi tôn Hoa Nghiêm mà khai thị cho
người học, ý nghĩa nói rằng chơn như nhất tâm là tổng tướng, sanh ra các duyên
là biệt tướng, pháp pháp đều như nhau là đồng tướng,tùy theo mỗi mỗi tướng không
bình đẳng là dị tướng, dựng lập ra cảnh giới là Thành tướng, vị trí không động
là hoại tướng. Và nói ba cõi chỉ một
tâm, muôn pháp đều duy thức, để dung thông tôn giáo.
IX.-
THIỀN
Thiền, nói đủ theo tiếng Phạn là
Thiền-na (Dhyàna), dịch nghĩa là tịnh lực (yên lặng các tư
lự), hay là tư duy tu (lối tu về suy xét), cũng dịch là thiền
định. Ngài Tôn Mật Thiền sư nói rằng :
“Người học Tam
thừa giáo, muốn cầu thánh đạo, tất phải tu Thiền. Chơn tánh thời không dơ không sạch, phàm phu
và bậc thánh không khác, nhưng thiền định thời có cạn có sâu, tầng bậc khác
nhau, như người chấp trước tà kiến sai lầm, ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu là
về ngoại đạo thiền ; những người chánh
tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa chán mà tu là phàm phu thiền; những người
biết rõ lý ngã không thiên chơn mà tu là Tiểu thừa thiền ; biết ngã pháp hai không, tổ bày chơn lý mà tu
là Đại thừa thiền ; còn như những người
đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh định, không có phiền não, trí tánh vô lậu, vẫn
tự đầy đủ, tâm ấy tức Phật, rốt ráo không khác, y theo đó mà tu là bậc tối
thượng thiền, cũng gọi là nhất hạnh tam muội hay là chơn như tam
muội”. Pháp thiền này là cái
cội gốc cho hết thảy tam muội khác, từ tôn môn của ngài Đạt-ma sắp xuống, lần
lữa truyền cho nhau là lối tu thiền ấy.
Khi ngài Đạt-ma chưa qua Trung Hoa, xưa nay các nhà chủ giải đều là thiền
định, chỉ pháp thiền của ngài Đạt-ma truyền qua, chỗ đốn ngộ đồng thể Phật, khác
hẳn với tôn khác.
X.-
GIÁO VÀ THIỀN
Tôn này gọi rằng từ khi ngài Đạt-ma
ở Tây Trúc sang Trung Hoa, riêng truyền pháp tâm ấn, chỉ mở đường mê, không lập
văn tự, chỉ ngay tâm người, thấy tánh thành Phật, cho nên gọi tam tạng kinh và
những tôn phái y cứ theo kinh điển mà lập ra là giáo; không lập văn tụ, ngoài
giáo lý mà có pháp truyền riêng, gọi là thiền, cũng gọi là tôn; ấy là chỗ khác
nhau của giáo và thuyền. Phàm nói là tôn
môn hay tôn hạ, là chỉ về thiền tôn mà nói.
XI.-
THAM THIỀN
Rõ thấu tâm tánh gọi là ngộ đạo;
người chưa ngộ đạo thời phải nương theo minh sư mà tham cứu tu trì, gọi là tham
thiền. Phép tham thiền có chỗ dạy tham
thoại đầu, giữ định một câu thoại đầu, như câu : “Muôn pháp đều
về một, một ấy về chỗ nào ?”
Không luận đi đứng nằm ngồi, đều nêu câu thoại đầy ấy, thiết thực tham
cứu, lâu lâu tự hay khai ngộ.
Cuối
đời Thanh trong tập biệt truyện của ngài Tư Phong có nói rằng: “Tham thoại đầu có
phép, không thể không biết, sao gọi là phép ?” - Một niệm chơn
nghi, không xen bỏ vậy. Sao gọi là niệm
chơn nghi ?
Như
ngài Tuyết Nham nói rằng : “Gồm cả 360 lóng
xương, 84.000 lổ lông, đều làm chữ ‘vô’ của ngài Triệu Châu mỗi khi nêu lên, như
vòng sắt nóng, một khói lửa hừng, không có cái tướng hôn trầm tán
loạn”.
Lại
như ngài Cao Phong nói rằng : “Muôn phép đều
về một, một ấy về chỗ nào ?”
Hết
thảy muôn phép trong thế gian đều qui về một, rốt cục qui về chỗ nào ? Phải quyết định suy xét cho rõ ràng, ấy gọi
là một niệm chơn nghi vậy. Nếu người nói
chữ ‘vô’ của ngài Triệu Châu, tròn như thái hư, không đủ không thiếu, nếu mống
lòng nghĩ nghị, thời là không phải chữ ‘vô’ của ngài Triệu Châu rồi. Và lại, muôn pháp đều qui về một, một ấy tức
là tâm, một về chỗ nào, là chỗ mà không chỗ, không chỗ mà vẫn là chỗ, như thiệt
có chỗ, thời không phải không phải. Như
vậy là niệm thứ hai, đều lạc về trí giải, trí giải càng tinh, thời cách đạo lại
càng xa; gần theo những kẻ đua chen theo danh tự, đều từ niệm thứ hai mà vào,
xem qua bề ngoài thời câu câu đều là Bát-nhã, thiệt ra chỉ nương nơi ý thức mà
thông, nhận giặc làm con, thật cũng đáng thương! Sao gọi là không xen hở ? Nghĩa là nói, ngày nay giữ một niệm chơn
nghi mà tham cứu không luận năm tháng ngày giờ, chỉ thời thời khắc khắc, một
niệm chơn nghi mà tham cứu, phải cầu đến khi thật ngộ, thật chứng, đại pháp hiện
tiền mới thôi; ấy gọi là không xen hở vậy.
Như quả một niệm chơn nghi như vậy, không khi nào xen hở như vậy, thời
đương nhiên có ngày không cầu mà được, thoại đều đã tham phá, mà minh tâm kiến
tánh vậy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.7/11/2012.
No comments:
Post a Comment