QUYỂN BẢY
.
- A Nan! Ngươi
hỏi cách nhiếp tâm, trước ta đã nói về pháp môn vi diệu, tu tập Tam Ma Địa.
Người cầu đạo bồ đề trước tiên phải giữ bốn thứ luật nghi kể trên, trong sáng
như băng tuyết để làm căn bản, tự nhiên chẳng sanh tất cả nhánh lá; nhờ đó, ba ý
nghiệp và bốn khẩu nghiệp ắt chẳng có nhân để sanh khởi. A Nan, nếu giữ kỹ bốn
giới chẳng bỏ sót, tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, thì tất
cả ma sự làm sao còn sanh khởi được?
- Nếu có tập khí
xưa chẳng thể diệt trừ, ngươi dạy người ấy nhất tâm tụng trì "Phật Đảnh Quang
Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La (thuần trắng chẳng ô nhiễm) Vô Thượng Thần Chú"
của ta, ấy là cái tâm chú do Vô Kiến Đảnh Tướng Như Lai, từ nơi đảnh đầu hiện ra
Vô Vi Tâm Phật, ngồi trên bửu liên hoa mà thuyết.
- Ngươi và Ma
Đăng Già, do tập khí ân ái từ nhiều kiếp, ta vừa tuyên thuyết thần chú, liền
khiến Ma Đăng Già thoát hẳn lòng yêu, đắc quả A La Hán. Nàng kia là dâm nữ,
chẳng có tâm tu hành, nhờ thần lực thầm giúp, được mau chứng vô học, huống là
hàng Thanh Văn các ngươi trong hội, cầu tối Thượng Thừa, nhất định thành Phật,
cũng như bụi bay theo chiều gió, đâu có ngăn ngại gì?
- Nếu người đời
mạt pháp muốn ngồi đạo tràng, trước tiên phải giữ giới cấm trong sạch của Tỳ
Kheo, cần phải lựa chọn vị Sa Môn giữ giới trong sạch bậc nhất để làm thầy mình,
nếu chẳng gặp vị tăng thật trong sạch, thì giới luật của người ấy ắt chẳng thành
tựu.
- Khi giới đã
thành tựu, nên mặc y áo sạch sẽ, đốt hương an cư, tụng 108 biến thần chú do tâm
Phật sở thuyết, rồi kết giới dựng lập đạo tràng, cầu xin Vô Thượng Như Lai hiện
ở các quốc độ mười phương, phóng hào quang đại bi đến chiếu soi đảnh đầu
mình.
- A Nan! Trong
đời mạt pháp, những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Bạch Y, đàn việt, tâm diệt tham dâm,
giữ giới trong sạch, phát nguyện Bồ Tát, khi ra vào nơi đạo tràng, đều tắm rửa
sạch sẽ, sáu thời hành đạo chẳng ngủ, đến 21 ngày, ta tự hiện thân trước người
ấy, xoa đảnh an ủi, khiến được khai ngộ.
A Nan bạch
Phật:
- Con nhờ lời từ
bi dạy bảo vô thượng của Như Lai, tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng
thành đạo vô học. Nhưng người tu hành đời mạt pháp muốn lập đạo tràng, cần kết
giới thế nào, cho hợp với quy tắc trong sạch của chư Phật?
Phật bảo A
Nan:
- Nếu người đời
mạt pháp muốn lập đạo tràng, trước tiên phải lấy phân nhuyễn mịn của loài trâu
trắng ở Tuyết Sơn, hòa với đất vàng và mười thứ thảo mộc thơm như Chiên Đàn,
trầm hương v.v... để làm nền đạo tràng; nơi đất bằng đào sâu 5 thước, xây đàn
hình bát giác, chu vi rộng 16 thước, chính giữa đàn chưng một hoa sen bằng kim
loại trong hoa sen để một bát đựng nước sương mù tháng tám, trong nước để nhiều
lá sen; chung quanh bát sen đặt 8 cái gương tròn nơi 8 góc, bên ngoài gương đựng
l6 bông sen, xen với l6 lư hương, trong lư đốt bột trầm hương và dùng các thứ đồ
ăn quý làm bánh sữa, đựng 16 chén để cúng dường chư Phật và Đại Bồ Tát. Trước
đàn để một lư than nhỏ, đến mỗi bữa ăn hoặc nửa đêm, dùng mật ong và tô lạc đổ
vào lư than, đốt lên cúng dường Phật Bồ Tát.
- Bốn phía bên
ngoài treo phướn hoa, bốn vách trong đàn treo hình tượng của Chư Phật Bồ Tát,
hai bên cửa treo tượng Hộ Pháp Long Thiên, lại lấy 8 cái gương treo úp hư không,
chiếu thẳng vào 8 gương tròn trong đàn, khiến thành hình bóng nhiều lớp xen
nhau, trùng trùng vô tận.
- Trong thất đầu,
chí thành đảnh lễ chư Phật Đại Bồ Tát và A La Hán, sáu thời nhiễu đàn tụng chú,
chí tâm hành đạo; thất thứ hai, chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát chẳng gián đoạn;
thất thứ ba, mười hai thời luôn luôn trì chú, đến ngày thứ bảy, mười phương Như
Lai cùng hiện trong ánh sáng gương, được Phật xoa đầu, liền nơi đạo tràng vào
Tam Ma Địa. Người đời mạt pháp tu học như thế, thì được thân tâm sáng tỏ, trong
sạch như lưu ly, A Nan, nếu bổn sư truyền giới của Tỳ Kheo này và mười Tỳ Kheo
đồng tu trong đàn, trong đó có một người giữ giới chẳng được trong sạch, thì đạo
tràng này chẳng thể thành tựu.
- Sau thất thứ
ba, tĩnh tọa an cư trải qua 100 ngày, nếu người lợi căn, có thể ngay đó chứng sơ
quả, dẫu cho thân tâm chưa thành chánh quả, nhưng được tự biết nhất định sẽ
thành Phật chẳng sai. Ngươi hỏi cách kiến lập đạo tràng là như thế.
A Nan đảnh lễ
chân Phật và bạch rằng:
- Từ khi xuất
gia, con ỷ lại nơi lòng thương của Phật, ham cầu đa văn, chưa chứng quả vô vi,
nên bị kẹt vào tà thuật của Phạn Thiên, tâm dù rõ ràng, nhưng sức chẳng tự do,
nhờ gặp Văn Thù, khiến con được giải thoát. Dù thầm nhờ sức thần chú của Như
Lai, nhưng còn chưa nghe chú ấy, xin nguyện Đức Thế Tôn Đại Từ tuyên thuyết lại
cho, thương xót cứu giúp các hàng tu hành trong hội này và những người đời sau
còn trong luân hồi, nhờ mật âm của Phật mà thân tâm được giải thoát. Bấy giờ,
đại chúng trong hội thảy đều đảnh lễ, chờ nghe thần chú bí mật của Phật.
Khi ấy, Thế Tôn
từ nơi nhục kế phóng ra trăm thứ hào quang, trong hào quang hiện ra bửu liên hoa
ngàn cánh có hóa thân Phật ngồi trong liên hoa, trên đảnh phóng ra mười tia ánh
sáng, trong mỗi tia đều hiện ra mười hằng sa Hộ Pháp Kim Cang, đội núi, cầm
chày, khắp cõi hư không. Đại chúng ngó thấy đều kính mến, cầu Phật gia hộ, một
lòng nghe Phóng Quang Như Lai nơi Vô Kiến Đảnh Tướng của Phật tuyên thuyết thần
chú.
CHÚ LĂNG NGHIÊM
ĐỆ NHỨT
Nam mô tát đát
tha tô già đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa. Tát đát tha Phật đà cu tri
sắc ni san.
Nam mô tát bà bột
đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam mô tát đa nẩm
tam miệu tam bồ đà cu tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng già nẩm.
Nam mô lô kê a la
hán đa nẩm.
Nam mô tô lô đa
ba na nẩm.
Nam mô ta yết rị
đà già di nẩm.
Nam mô lô kê tam
miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.
Nam mô đề bà ly
sắc nỏa.
Nam mô tất đà da
tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam mô bạt ra ha
ma ni.
Nam mô nhơn đà ra
da.
Nam mô bà già bà
đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam mô bà già bà
đế.
Na ra dỏa noa da.
Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.
Nam mô tất yết rị
đa da.
Nam mô bà già bà
đế, ma ha ca ra da. Địa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa
mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.
Nam mô tất yết rị
đa da.
Nam mô bà già bà
đế. Đa tha già đà cu ra da.
Nam mô bát đầu ma
cu ra da.
Nam mô bạt xà ra
cu ra da.
Nam mô ma ni cu
ra da.
Nam mô già xà cu
ra gia.
Nam nô bà già bà
đế, đế rị trà du tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.
Nam mô bà già bà
đế.
Nam mô a di đa bà
da, đa tha dà đa la, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà
đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà
đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.
Nam mô bà già bà
đế, tam bổn sư bí da, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế,
tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà
đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà
da.
Nam mô bà già bà
đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà
da, đế biều nam mô tát yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sắc ni
sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam mô a bà ra
thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca
ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh
yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp bát
na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa
băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát
đà na yết rị, a sắc tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị,
tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá
tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra ma ha bác ra
chiến trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn
đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra ma lễ
để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác
ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa,tô
ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bạt xà ra thương
yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa
gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da,
dạ ra thố sắt ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô
xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di
đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật
phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ĐỆ NHỊ
Ô hồng, rị sắt
yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung
chiêm bà na, Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa
da tam bát xá noa yết ra. Hổ Hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết
ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để
nẫm, yết ra ha, ta ha thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát
na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba
ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri
ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra,
đế rị bồ bà na, man trà ra, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ
tỏa.
ĐỆ TAM
Ra xà bà dạ, chủ
ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra
chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ,
đà ra ni bộ di kiếm ba già bà đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà
dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra
xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu
bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ
yết ra ha, a bá tát ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê
rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẫm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang
ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị
nẩm, tỳ đa ha rị nẩm bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế
sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba
rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni
hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô
đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm,
tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm,
tỳ đà dà xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân
đà da di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ
đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà
noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết
na xá ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xá
ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a-la-hán hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỳ đà dạ xà
sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xả ra ba nể, cu hê dạ, cu hê dạ xa địa bát đế hất
rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm, ấn thố
na mạ mạ tỏa.
ĐỆ TỨ
Bà già phạm, tát
đát đa bác đá ra, Nam mô tý lô đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ
tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà
ra, tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra,
phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn,
ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà
na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ
đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà
đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma
lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma
đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra,
tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể
tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa
tỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha
ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa. Nam mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ
duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn,
yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát trị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà
duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca
thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na
mạ mạ tỏa.
ĐỆ NGŨ
Đột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha
ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ
đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa
ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra
ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ da yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra
ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ
yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật
đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết
ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca,
trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam
ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ca, tát
bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a tỷ lô kiềm, mục
khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đản đa du
lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du
lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già
du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du
lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiến tri,
bà lộ đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a
kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa
lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược
xoa, đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha
bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na,
biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ
đà, bàn đàm ca lô di, đác điệc tha.
Án, a na lệ, tỳ
xá đề, bệ ra bạc xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng,
đô lô ung phấn, ta bà ha.
*****
- A Nan! Những
câu vi diệu, bí mật của "Phật Đảnh Quang Tụ, thuần trắng chẳng ô nhiễm" này,
sanh ra tất cả chư Phật:
- Mười phương Như
Lai do tâm chú này, được thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác.
- Mười phương Như
Lai trì tâm chú này, uốn dẹp tà ma, chế phục ngoại đạo.
- Mười phương Như
Lai vận tâm chú này, ngồi bửu liên hoa, ứng hiện trong vô số quốc độ.
- Mười phương Như
Lai dùng tâm chú này, nơi vô số quốc độ, chuyển đại pháp luân.
- Mười phương Như
Lai trì tâm chú này, hay ở nơi mười phương xoa đảnh thọ ký cho hàng Bồ Tát,
Thanh Văn, cho đến người chưa chứng quả vị.
- Mười phương Như
Lai nương tâm chú này, hay ở nơi mười phương cứu vớt các khổ như: Địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh, đui, điếc, ngọng, câm và bát khổ, những tai nạn lớn nhỏ đồng thời
được giải thoát; các nạn: giặc, binh, vua, ngục, bão, lụt, lửa, nước cho đến đói
khát nghèo nàn, ngay đó tiêu tan.
- Mười phương Như
Lai tùy theo tâm chú này, hay ở nơi mười phương phụng sự thiện tri thức, trong
tứ oai nghi được cúng dường như ý; nơi pháp hội của hằng sa Như Lai, được suy
tôn là Đại Pháp Vương Tử.
- Mười phương Như
Lai hành theo tâm chú này, hay ở nơi mười phương nhiếp thọ người có nhân duyên,
khiến hàng Tiểu Thừa nghe tạng bí mật, chẳng sanh kinh sợ.
- Mười phương Như
Lai tụng tâm chú này, thành Vô Thượng Giác, ngồi dưới cây Bồ Đề vào Đại Niết
Bàn.
- Mười phương Như
Lai truyền tâm chú này, sau khi diệt độ, phó chúc Phật Pháp, trụ trì cứu cánh,
nghiêm tịnh giới luật, thảy đều trong sạch.
- Như ta thuyết
chú " Phật Đảnh Quang tụ chẳng ô nhiễm" này, từ sáng đến tối chẳng dứt tiếng,
trong đó những chữ và câu cũng chẳng trùng điệp, nếu từ đây ngộ nhập, mới biết
tất cả hữu tình vô tình cũng thường thuyết chú này, nên gọi "Đảnh Như Lai"
vậy.
- Hàng hữu học
các ngươi chưa ra khỏi luân hồi phát tâm chí thành tu chứng quả A La Hán, nếu
chẳng trì chú này mà ngồi đạo tràng, muốn khiến thân tâm xa lìa các ma sự thì
chẳng có chỗ đúng.
- A Nan! Nếu có
chúng sanh trong các thế giới, tùy theo vật dụng trong đất nước, hoặc lá, giấy,
vải trắng để biên chép chú này, đựng trong túi nhỏ, nếu người ấy ngu muội chẳng
thể tụng nhớ thì đeo trên mình, hoặc để trong nhà, nên biết người ấy trọn đời
chẳng bị các thứ độc hại.
- A Nan! Nay ta
vì ngươi thuyết chú này, cứu giúp thế gian được đại vô úy, thành tựu trí xuất
thế gian cho chúng sanh.
- Sau khi ta diệt
độ, chúng sanh trong đời mạt pháp, có người biết tự trì tụng, hoặc dạy người
khác trì tụng chú này, nên biết những chúng sanh trì tụng như thế, lửa chẳng thể
đốt, nước chẳng thể chìm, độc chẳng thể hại, cho đến tất cả ác chú của các Thiên
Long, quỷ thần, yêu tinh, ma mị đều chẳng thể dính mắc, tâm được chánh thọ, tất
cả bùa chú, yểm cổ, kim ngân độc dược, cỏ, cây, sâu, rắn, độc khí muôn loài, vào
miệng người ấy đều thành cam lồ. Tất cả ác tinh, quỷ thần, dù có độc tâm hại
người, đối với người ấy cũng chẳng thể khởi ác; các ác quỷ vương Tần Na, Dạ Ca
(đầu heo mũi voi) cùng các quyến thuộc, đều thọ ơn Phật, thường gia hộ người
ấy.
- A Nan nên biết!
Chú này thường có tám vạn bốn ngàn vô số chủng tộc Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương,
mỗi mỗi đều có quyến thuộc, ngày đêm hộ vệ. Giả sử có chúng sanh nơi tâm tán
loạn, chẳng thể vào Tam Ma Địa, miệng niệm tâm trì, thì các vị Kim Cang Vương
thường theo ủng hộ thiện nam tử ấy, huống là người có tâm quyết định vào Đạo Bồ
Đề, các vị Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương này, khiến người ấy phát ra thần thức,
thân tâm tinh tấn, ngay đó được nhớ lại những việc từ tám vạn bốn ngàn hằng sa
kiếp đến nay, đều rõ ràng chẳng có nghi hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối
cùng, đời đời chẳng sanh vào các loài Dược Xoa, La Sát, quỷ bệnh tật, quỷ thúi,
quỷ yểm mị, quỷ hút tinh khí, cùng các loài ngạ quỷ có hình vô hình, có tưởng vô
tưởng, và những xứ ác độc.
- Thiện tri thức
ấy, hoặc đọc tụng, biên chép, hoặc đeo giữ và cúng dường tâm chú này thì kiếp
kiếp chẳng sanh vào những nơi nghèo nàn hèn hạ và chỗ chẳng an lành.
- Các chúng sanh
này, dẫu cho tự thân chẳng làm phước nghiệp, mười phương Như Lai cũng ban công
đức cho họ, do đó được trong vô số kiếp thường với chư Phật đồng sanh một chỗ,
vô lượng công đức như chùm quả ác xoa, đồng một chỗ huân tu, trọn chẳng chia
cách. Cho nên, Tâm chú này hay khiến người đã phá giới được giới căn trong sạch,
người chưa đắc giới khiến cho đắc giới, người chẳng tinh tấn, chẳng trí huệ,
chẳng trong sạch, chẳng trai giới, thảy đều thành tựu.
- A Nan! Thiện
nam tử ấy, giả sử trước kia có phạm giới cấm, thì sau khi trì chú, các tội phá
giới chẳng kể nặng nhẹ, đều được tiêu diệt, dù đã uống rượu, ăn ngũ tân, và các
thứ bất tịnh, tất cả chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Thiên Tiên, quỷ thần, chẳng cho
là có lỗi; dù mặc y áo rách rưới, khi đi khi đứng, đồng như trong sạch; dù chẳng
lập đàn, chẳng vào đạo tràng, cũng chẳng hành đạo, mà trì tụng chú này, với công
đức vào đàn, hành đạo, chẳng có sai khác.
- Nếu trước kia
tạo các tội nặng ngũ nghịch, vô gián, những tội Tứ khí, Bát khí của Tỳ Kheo và
Tỳ Kheo Ni (bằng như tử hình của người đời), thì khi tụng chú này rồi, cũng như
gió mạnh thổi tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy đều trừ sạch, chẳng còn
mảy may.
- A Nan! Nếu có
chúng sanh từ vô số kiếp đến nay, có tất cả những tội chướng nặng nhẹ, tuy trong
các đời trước chưa kịp sám hối, nay nếu biết đọc tụng, biên chép chú này, giữ
đeo trên mình hay để nơi chỗ ở, thì những nghiệp tích chứa từ trước, đều tiêu
như nước sôi làm tan băng tuyết, chẳng bao lâu sẽ được vô sanh nhẫn.
- Lại nữa A Nan!
Nếu có người đàn bà chưa có con, mong cầu có thai, chí tâm tưởng niệm, hoặc đeo
chú này, thì được sanh những đứa con trai gái có phước đức trí huệ, cầu sống lâu
được sống lâu, cầu phước báo được phước báo, cho đến cầu thân mạng sức mạnh đều
được như thế. Sau khi chết, tùy nguyện vãng sanh trong mười phương quốc độ, chắc
chắn chẳng sanh nơi biên địa, dòng hạ tiện, huống là các tạp hình!
- A Nan! Nếu các
quốc độ, châu huyện, làng xóm bị nạn đói kém, ôn dịch; hoặc những nơi bị bịnh
loạn, giặc cướp đánh nhau và tất cả những nơi có tai nạn khác, viết thần chú này
dán nơi bốn cửa thành, và những thấp miếu hoặc trên các tràng phan, khiến chúng
sanh trong nước thừa phụng chú này, cung kính lễ bái, nhất tâm cúng dường; khiến
nhân dân mỗi mỗi đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất cả tai nạn thảy
đều tiêu diệt.
- A Nan! Nếu
chúng sanh nơi các quốc độ, hễ chỗ nào có chú này, thì Thiên Long vui mừng, mưa
gió thuận thời, ngũ cốc được mùa, dân chúng an vui; những tai chướng do tất cả
ác tinh biến quái ở mọi nơi, đều chẳng sanh khởi, người chẳng chết yểu, gông,
cùm, xiềng, xích, chẳng dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường chẳng ác
mộng.
- A Nan! Cõi Ta
Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến ác tinh, do 28 đại ác tinh làm thượng thủ;
lại có 8 đại ác tinh làm chủ, xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng, hay gây
các tai họa kỳ lạ cho chúng sanh. Hễ có chú này thì thảy đều tiêu diệt, trong
phạm vi 12 do tuần, các tai biến hung dữ, trọn chẳng thể xâm nhập.
- Cho nên Như Lai
thuyết chú này, bảo hộ người tu hành sơ học đời vị lai, vào Tam Ma Địa, thân tâm
thư thái, được đại yên ổn chẳng bị tất cả tà ma, quỷ thần, và những oán thù,
nghiệp cũ nợ xưa từ vô thỉ đến quấy hại.
- Ngươi và hàng
hữu học trong chúng, với người tu hành đời vị lai, y pháp trì giới trong đạo
tràng, được vị thầy truyền giới trong sạch, đối với tâm chú này chẳng sanh nghi
hoặc, thì cái thân do cha mẹ sanh của người này, nếu chẳng được tâm thông, mười
phương Như Lai bèn thành vọng ngữ.
Nói xong, vô số
Kim Cang đều nhất thời đảnh lễ bạch Phật:
- Như lời Phật
dạy, chúng con xin thành tâm bảo hộ người tu đạo Bồ Đề.
Bấy giờ, Phạn
Vương và Đế Thích, Tứ Thiên Vương cũng đồng thời đảnh lễ bạch Phật:
- Nếu có người tu
học như thế, chúng con xin hết lòng bảo hộ, khiến họ suốt đời việc làm thỏa
nguyện.
Còn có vô số Quỷ
Vương chắp tay đảnh lễ bạch Phật:
- Chúng con cũng
thệ nguyện hộ trì cho người ấy, khiến tâm Bồ Đề mau được viên mãn.
Còn có vô số Nhật
Nguyệt Thiên tử, Phong Sư, Vũ Sư, Vân sư, Lôi Sư, cùng với Điện Sư, Tuần Quan,
Chư Tinh và quyến thuộc đảnh lễ bạch Phật:
- Chúng con cũng
bảo hộ người tu hành ấy an lập đạo tràng, được vô sở úy.
Còn có vô số Sơn
Thần, Hải Thần, Phong Thần, cõi Trời Vô Sắc, tất cả tinh kỳ trên mặt đất, dưới
nước và trên không, đồng thời đảnh lễ bạch Phật:
- Chúng con cũng
bảo hộ người tu hành ấy được thành Bồ Đề, trọn chẳng ma sự.
Khi ấy, tám vạn
bốn ngàn ức hằng sa Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- Như chúng con
tu thành Bồ Đề đã lâu, mà chẳng thủ chứng Niết Bàn, thường theo chú này, cứu
giúp những người chơn tu Tam Ma Địa trong đời mạt pháp. Thế Tôn, những người tu
tâm cầu chánh định như thế, dù ở đạo tràng hay lúc kinh hành, cho đến lúc đi dạo
chơi, con và đồ chúng thường theo hộ vệ người ấy. Dẫu cho Ma vương, Đại Tự Tại
Thiên muốn tìm cách quấy phá, trọn chẳng thể được. Các quỷ thần nhỏ phải cách xa
người ấy ngoài mười do tuần, chỉ trừ khi họ đã phát tâm tu thiền chánh pháp thì
mới được gần người ấy. Thế Tôn, nếu những ác ma hay quyến thuộc ma, muốn đến xâm
nhiễu người ấy, thì con dùng chày Kim Cang đập nát đầu họ như vi trần, khiến
người ấy việc làm thỏa nguyện.
LƯỢC
GIẢI
Tâm tức là
Chú, Chú tức là Tâm, Tâm và Chú bất nhị, nên gọi là Tâm Chú. Người muốn nhờ thần
lực của Tâm Chú, trước tiên phải giữ giới trong sạch, chẳng khởi một niệm tham
cầu, tức là quên cả sự đang tụng chú và sự nhờ cậy chú lực, như thế mới gọi là
"tâm niệm trong sạch, thuần trắng chẳng ô nhiễm", được đến chỗ bất nhị cũa Tâm
chú. Lúc ấy, sự diệu dụng của tự tánh (tâm chú) tự hiện, thì tất cả đều được
thành tựu như lời kinh nói; nếu chẳng làm như thế, lại có thể trở thành tai họa,
vì chư Hộ Pháp Long Thiên, tánh hay kính mến người thiện và trừng phạt kẻ ác
vậy.
*****
A Nan liền đứng
dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Chúng con ngu
độn, ham được đa văn, chưa cầu thoát ly nơi tâm phiền não, nhờ Phật từ bi dạy
bảo, tu theo chánh pháp, được lợi ích lớn, thân tâm an lạc. Thế Tôn! Nếu tu
chứng pháp Tam Ma Địa, chưa đến Niết Bàn, thì thế nào gọi là chỗ Càn Huệ? Nơi 44
tâm, được tu đến cấp bậc nào và đến chỗ nào mới gọi là nhập Sơ Địa?
- Thế nào gọi là
Đẳng Giác Bồ Tát?
Nói xong, năm vóc
gieo sát đất, đại chúng đều nhất tâm chăm chú, mong đợi từ âm của Phật.
Bấy giờ, Thế Tôn
khen A Nan rằng:
- Lành thay! Lành
thay! Các ngươi lại biết vì cả chúng trong hội này và tất cả chúng sanh tu Tam
Ma Địa, cầu pháp Đại Thừa trong đời mạt pháp, xin ta chỉ rõ lối tu vô thượng
chơn chánh, từ phàm phu đến Đại Niết Bàn. Nay các ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì
các ngươi mà nói.
A Nan và đại
chúng chắp tay lắng lòng, yên lặng thọ giáo.
Phật bảo:
- A Nan nên biết!
Diệu tánh sáng tỏ, lìa những danh tướng, vốn chẳng có thế giới chúng sanh. Do
vọng có sanh, do sanh có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn, ấy
tức là Vô Thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn, cũng là hai hiệu chuyển y của Như Lai
(chuyển vọng giác thành Bồ Đề; chuyển sanh diệt thành Niết Bàn, gọi là hai hiệu
chuyển y).
- A Nan! Nay
ngươi muốn tu chơn Tam Ma Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn, trước hết phải biết hai
nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh; nếu điên đảo chẳng sanh tức là chơn
Tam Ma Địa của Như Lai.
- A Nan! Sao gọi
là Chúng Sanh Điên Đảo? Do tánh sáng tỏ nơi Tâm, vì chấp tánh sáng tỏ, nên từ
sáng tỏ ấy phát ra vọng tánh; tánh vọng thì kiến chấp sanh khởi, từ bổn lai vô,
thành cứu cánh hữu. Cái năng hữu sở hữu này, chẳng có tướng năng nhân sở nhân và
năng trụ sở trụ, trọn chẳng nguồn gốc. Từ chỗ vô trụ này, kiến lập thế giới và
chúng sanh.
- Vì mê cái bổn
tâm sáng tỏ, nên sanh ra hư vọng, tánh vọng chẳng tự thể, chẳng có chỗ nương
tựa; toan muốn trở về chơn, thì cái "muốn chơn" ấy, đã chẳng phải là chơn tánh
của Chơn Như. Chẳng chơn mà cầu trở về chơn, rõ ràng thành phi tướng, phi sanh
phi trụ, phi tâm phi pháp, xoay vần phát sanh, sanh mãi không thôi, huân tập
thành nghiệp, đồng nghiệp cảm nhau, do sự cảm nghiệp, nên có tương diệt tương
sanh, do đó thành chúng sanh điên đảo.
- A Nan! Sao gọi
là Thế Giới Điên Đảo? Do năng hữu sở hữu phân đoạn vọng sanh (phân đoạn sanh
tử), từ đó an lập Giới (Không gian); từ chỗ chấp năng nhân sở nhân, năng trụ sở
trụ, dời đổi chẳng ngừng, nên vọng lập Thế (Thời gian). Tam thế tứ phương hòa
hợp lẫn nhau, chúng sanh biến hóa thành 12 loài.
- Vì giác tri của
chúng sanh, nên trong thế giới, do động có thanh, do thanh có sắc, do sắc có
hương, do hương có xúc, do xúc có vị, do vị biết pháp, sáu thứ vọng tưởng nhiễu
loạn thành nghiệp tánh, nương theo tướng điên đảo luân chuyển này mà có 12 loài:
Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng,
hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, lưu
chuyển chẳng ngừng.
l. A Nan! Bởi do
thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động, hòa hợp thành khối, vọng tưởng
thăng trầm, vì thế nên có loài noãn sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài cá,
chim, rùa, rắn, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
2. Bởi do thế
giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, hòa hợp thành sanh, vọng tưởng
ngang dọc, vì thế nên có loài thai sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như người, súc,
rồng, tiên, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
3. Bởi do thế
giới có chấp trước luân hồi, hướng về điên đảo, hòa hợp thành noãn (hơi ấm),
vọng tưởng lăng xăng, vì thế nên có loài thấp sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như
loài côn trùng, sâu bọ, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
4. Bởi do thế
giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, hòa hợp thành xúc, vọng tưởng mới
cũ, vì thế nên có loài hóa sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thối xác phi
hành, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
5. Bởi do thế
giới có ngăn ngại luân hồi, điên đảo về chướng, hòa hợp thành trước, vọng tưởng
tinh sáng, vì thế nên có loài hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như tất cả thần
vật tinh sáng, đều hay dự đoán sự kiết hung, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế
giới.
6. Bởi do thế
giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về mê hoặc, hòa hợp thành ám (ám muội), vọng
tưởng u ẩn, vì thế nên có loài vô sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như cõi vô Sắc và
Thần Hư Không, cho đến quỷ mị u ẩn, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế
giới.
7. Bởi do thế
giới có mường tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, hòa hợp thành nhớ, vọng tưởng
thầm kết, vì thế nên loài hữu tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thần quỷ
tinh linh, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
8. Bởi do thế
giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, hòa hợp thành ngu, vọng tưởng khô
khan, vì thế nên có loài vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, tinh thần hóa ra đất,
gỗ, kim thạch, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
9. Bởi do thế
giới có đối đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, hòa hợp thành nhiễm, vọng tưởng ỷ
nhờ, vì thế nên có loài phi hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thủy mẫu,
lấy tôm làm mắt, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
10. Bởi do thế
giới có dẫn dụ luân hồi, điên đảo về tánh, hòa hợp thành chú, vọng tưởng kêu
gọi, vì thế nên có loài phi vô sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài chú nguyền
rủa, yêu mị, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
11. Bởi do thế
giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về mường tượng, hòa hợp thành dị, vọng tưởng
xoay vòng, vì thế nên có loài phi hữu tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài tò
vò, hay bắt con vật khác làm con mình, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế
giới.
12. Bởi do thế
giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát (hại), hòa hợp thành quái, vọng tưởng
ăn thịt cha mẹ, vì thế nên có loài phi vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như con
thổ cưu và chim phá kính, ôm trái cây độc làm con, khi con lớn lên thì ăn luôn
cả cha mẹ, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới. Ấy gọi là mười hai loại chúng
sanh.
(QUYỂN BẢY HẾT) .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.26/11/2012.
No comments:
Post a Comment