TỨ VÔ LƯỢNG
TÂM
Hòa thượng
Narada.
"Ðược sanh trong cảnh người thật là
hy hữu.
Ðời sống của chúng sanh quả là khốn khổ. Chớ để lỡ mất cơ hội nầy." -- Kinh Pháp Cú
Con người là một
chúng sanh huyền bí có nhiều tiềm năng phi thường. Có hai năng lực trái ngược
luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm trong mỗi người. Một, hướng về trạng thái cao
thượng trong sạch, đặc tánh của bậc Thánh Nhân và một, hướng về những điều tội
lỗi nhơ bẩn của kẻ sát nhân tàn bạo. Cả hai tiềm lực nầy đều có thể phát sanh
bất ngờ với một sức mạnh vô cùng hùng hậu. Xuất phát từ đâu? Nào ai biết. Chỉ
biết rằng nó luôn luôn nằm bên trong ta, nhiều hay ít, mạnh hay yếu, tùy trường
hợp.
Trong guồng máy phức tạp của con
người, có cái tâm vô cùng dũng mãnh. Tâm chứa đựng một kho tàng đức hạnh và một
hầm tật xấu. Người biết vun bồi đức hạnh là một phước lành cho nhân loại. Kẻ bị
tật xấu chi phối là một đại họa.
Những ai có chí hướng trở thành bậc
vĩ nhân cao thượng và hữu ích, những ai muốn vượt lên trên đám đông quần chúng
để phục vụ nhân loại bằng cách nêu gương lành trong sáng và ban bố những lời dạy
hữu ích, những ai muốn tận dụng cơ hội quý báu được sanh làm người, đều cố sức
gia công gội rửa các tật xấu còn lại và phát triển những đức hạnh đang ngủ ngầm
trong tâm.
Khai thác hầm mỏ là một điều khó. Ðể
tìm mỏ kim cương, mỏ dầu, hay một nhiên liệu quý báu khác, con người phải tốn
hao biết bao tiền của và công lao, phải trải qua biết bao hiểm nguy gian khổ,
đôi khi phải hy sinh cả mạng sống, để đào sâu trong lòng đất. Nhưng, để khai
thác kho tàng vô giá đang ngủ ngầm bên trong mình, chỉ cần kiên trì cố gắng và
nhẫn nại gia công. Mọi người, dầu trai dầu gái, sang hay hèn, đều có thể chuyên
cần nỗ lực và kiên tâm trì chí để thâu thập sự nghiệp quý báu kia, vì đó không
phải là một di sản do ông cha truyền lại.
Thế thường, ta coi tật xấu của con
người là thiên tánh ngẫu nhiên bộc phát. Âu cũng là một điều lạ! Cũng lạ thay,
tuy rằng đối chiếu với mỗi tật xấu có một phẩm hạnh xác thực mà mọi người đều có
thể thọ hưởng, ta lại không coi phẩm hạnh ấy là thông thường, phải
có.
Sân hận (Dosa) là một tật xấu
có sức tàn phá vô cùng khốc liệt. Ðối diện với lòng sân, tâm Từ (Mettà)
là một đức độ nhẹ nhàng êm dịu làm cho con người trở nên cao thượng, tuyệt
luân.
Hung bạo (Himsà) là một tật
xấu khác đã gây nên biết bao tội ác và biết bao hành động bạo tàn trên thế gian.
Tâm Bi (Karunà) là vị thuốc công hiệu để tiêu trừ bệnh hung
bạo.
Ganh tỵ (Issà) là chất độc cho
cơ thể, vừa là động lực thúc đẩy con người vào những cuộc ganh đua nhơ bẩn và
những hoàn cảnh tranh chấp hiểm nguy. Phương thuốc trị liệu nhiệm mầu và công
hiệu nhất để trị bệnh ganh tỵ là tâm Hỷ (Mudità).
Bám níu vào những gì ưa thích, và bất
toại nguyện với những điều không vừa lòng làm cho tâm mất bình thản. Do sự phát
triển tâm Xả (Upekkhà) hai tệ đoan đối nghịch trên có thể sẽ bị tiêu diệt
dần dần.
Bốn phẩm hạnh vô giá kia được gọi
chung trong tiếng Phạn là "Brahma Vihàra" có nghĩa là lối sống cao
thượng, trạng thái cao siêu, hoặc chỗ nương tựa của bậc Thánh Nhân. Ta gọi là Tứ
Vô Lượng Tâm.
Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người trở
nên toàn thiện và có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại. Tứ Vô Lượng
Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc siêu nhân, phàm ra thánh. Nếu mỗi
người đều gắng công trau giồi Tứ Vô Lượng Tâm, không phân biệt tôn giáo, chủng
tộc, màu da, hay nam nữ v.v... quả địa cầu nầy sẽ trở thành một thiên đàng trong
đó tất cả chúng sanh chung sống điều hòa, an vui trong tình huynh đệ, và mỗi
người sẽ là một công dân lý tưởng trong một thế giới thanh bình an
lạc.
Bốn đức độ cao thượng ấy cũng được
gọi là Appamannà (vô lượng). Gọi như vậy bởi vì Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn
bao la, không bờ bến, không biên cương, không bị hạn định. Tứ Vô Lượng Tâm bao
trùm tất cả chúng sanh, người hay thú, không trừ bỏ sanh linh nhỏ bé
nào.
Dầu theo tôn giáo nào hay hấp thụ văn
hóa nào, mỗi người đều có thể trau giồi bốn đức độ nhẹ nhàng êm dịu ấy để trở
nên một phước lành, cho mình và cho kẻ khác.
1. Tâm Từ
(Mettà)
Trạng thái cao thượng đầu tiên là tâm
"Từ", tiếng Pàli là Mettà, Sanskrit là Maitri.
Nghĩa trắng của Mettà là cái
gì làm cho lòng ta êm dịu hay tâm trạng của người bạn tốt. Mettà (tâm Từ)
được định nghĩa là lòng thành thật ước mong tất cả chúng sanh đều sống thật sự
an lành hạnh phúc. Mettà có khi cũng được định nghĩa là lòng mong mỏi
chân thành của người bạn hiền, thành thật muốn cho bằng hữu mình được an vui
hạnh phúc.
Ðức Phật khuyên dạy:
"Tâm Từ phải được rải khắp đồng đều
cho mọi chúng sanh, phải bao trùm vạn vật, phải sâu rộng và đậm đà như tình
thương của bà từ mẫu đối với người con duy nhất, chăm nom bảo bọc con, dầu nguy
hiểm đến tánh mạng cũng vui lòng." -- Mettà Sutta
So sánh tâm Từ với tình mẫu tử trong
đoạn kinh Mettà Sutta (Từ Bi), Ðức Phật không nhấn mạnh đến lòng
trìu mến ít nhiều vị kỷ của người mẹ. Ngài chỉ nhắm vào sự mong mỏi thành thật
của bà mẹ hiền, muốn cho người con duy nhất của mình được sống an lành. Tâm Từ
(Mettà) không phải sự yêu thương thiên về nhục dục, cũng không phải lòng
trìu mến, luyến ái một người nào bởi vì cả hai, tình dục và luyến ái đều là
nguyên nhân chắc chắn sẽ phát sanh phiền muộn.
Tâm Từ (Mettà) không phải chỉ
là tình thương riêng biệt đối với người láng giềng, bởi vì người có tâm Từ không
phân biệt người thân kẻ sơ.
Tâm Từ (Mettà) không phải chỉ
là tình huynh đệ rộng rãi giữa người và người, mà phải bao trùm tất cả chúng
sanh, không trừ bỏ sanh linh nhỏ bé nào, bởi vì loài cầm thú, các người bạn xấu
số của chúng ta, cũng cần nhiều đến sự giúp đỡ và tình thương của ta.
Tâm Từ (Mettà) không phải là
tình đồng chí, không phải tình đồng chủng, không phải tình đồng hương, cũng
không phải là tình đồng đạo.
Tình đồng chí chỉ biết những người
cùng một chí hướng chánh trị, một chủ nghĩa, hay một đảng phái, như Dân Chủ,
Cộng Hòa, Xã Hội v.v...
Tình đồng chủng chỉ giới hạn giữa
những người cùng một chủng tộc, một màu da. Tình đồng hương chỉ có giữa những
người cùng một quốc gia. Ðôi khi vì tình đồng chủng con người nhẫn tâm tàn sát
đến đàn bà và trẻ con, chỉ vì những người vô tội nầy không được diễm phúc có đôi
mắt xanh và mớ tóc vàng như họ. Người da trắng có cảm tình riêng với người da
trắng. Người da đen có cảm tình riêng với người da đen, người da vàng với người
da vàng, người da đỏ với người da đỏ v.v... Cũng có khi vì một mặc cảm nào, một
dân tộc đem lòng nghi kỵ và lo sợ một giống dân khác. Lắm lúc, để chứng minh
rằng dân tộc mình cao trổi hơn dân tộc khác, con người không ngần ngại dùng
những phương tiện tàn ác như gây chiến tranh, dội bom nhả đạn, tiêu hủy cả triệu
sanh linh. Nhân loại ngày nay vẫn không bao giờ có thể quên những thảm trạng đã
xảy diễn trong thời Thế Chiến Thứ Nhì vừa qua.
Cùng trong một quốc gia, cũng có
những tâm trạng hẹp hòi, hợp lại thành từng nhóm để gây nên cái mà chúng gọi là
tình huynh đệ giữa những người cùng một giai cấp xã hội, một thứ tình thương chỉ
nằm vỏn vẹn trong phạm vi nhỏ hẹp của một số người có quyền thế, để đàn áp một
hạng người khác đến độ không cho phép họ hưởng những nhân quyền sơ đẳng, chỉ vì
những người nầy rủi ro phải sanh trưởng trong một giai cấp hạ lưu. Chính hạng
người thượng lưu kia mới thật đáng thương hại, vì họ là những người chỉ biết
sống hẹp hòi bưng bít.
Tâm Từ (Mettà) cũng không phải
là tình huynh đệ giữa những người cùng một tôn giáo. Bởi sự hiểu biết hẹp hòi,
gọi là "tình đồng đạo", bao nhiêu đầu người đã rơi, bao nhiêu vĩ nhân đã bị tù
đày và đối xử khắc nghiệt. Bởi tình đồng đạo hẹp hòi, bao nhiêu người phải bị
thiêu sống một cách tàn nhẫn chỉ vì tội thành thật nói lên ý tưởng của mình. Bao
nhiêu hành động hung bạo, bao nhiêu chiến tranh tàn khốc, đã làm hoen ố lịch sử
nhân loại cũng vì tình đồng đạo hẹp hòi. Cho đến thế kỷ thứ hai mươi nầy mà
người ta cho là sáng suốt, nhân loại vẫn còn chứng kiến những vụ tranh chấp võ
trang mà nguyên nhân chỉ vì những người theo tôn giáo nầy không ép buộc được
những người khác tư tưởng như mình. Con người ghen ghét nhau, thù hận nhau, chém
giết lẫn nhau, chỉ vì không cùng chung sống được với nhau dưới một nhãn
hiệu.
Nếu vạn nhất, vì không đồng tín
ngưỡng mà những người khác tôn giáo với nhau không thể nhìn nhau như anh chị em
trong một đại gia đình, thì sứ mạng của tất cả các vị giáo chủ trên thế gian nầy
hẳn thật đã thảm bại chua cay.
Tâm Từ êm dịu vượt hẳn lên trên các
tình huynh đệ hẹp hòi ấy. Phạm vi của tâm Từ không bờ bến, không biên cương,
không hạn định. Tâm Từ không có bất luận một loại kỳ thị nào. Nhờ tâm Từ mà ta
có thể xem tất cả chúng sanh là bạn hữu, và khắp nơi trên thế gian như chỗ chôn
nhau cắt rún.
Tựa hồ như ánh sáng mặt trời, bao
trùm vạn vật, tâm Từ cao thượng rải khắp đồng đều phước lành thâm diệu cho mọi
người, thân cũng như sơ, bạn cũng như thù, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn,
nam nữ, hư hèn hay đạo đức, người hay thú.
Người có tâm Từ vô lượng vô biên như
thế ấy là Ðức Phật, Ngài đã tận tâm tạo an lành hạnh phúc cho tất cả những người
thân yêu kỉnh mộ Ngài cũng như những người ganh tỵ, oán ghét, và những người âm
mưu ám hại Ngài.
Tâm Từ của Ðức Phật đối với Ràhula
(La Hầu La), con Ngài, không có chút gì khác hơn là đối với Devadatta (Ðề Bà Ðạt
Ða), người đã coi Ngài là thù nghịch và với Ðại Ðức nnanda (A Nan), vị thị giả
thân tín rất kính mến Ngài.
Tâm Từ bao la rộng rãi, đồng đều, đối
với chính mình cũng như đối với những người thân cận, những người không quen
biết, và những người có ác ý với mình. Như chàng kia đi trong rừng với một người
bạn, một người không quen biết, và một người thù, gặp một tướng cướp dữ tợn. Tên
cướp quyết định phải giết một người. Nếu anh chàng chịu hy sinh mạng sống để cứu
các bạn đồng hành thì ra anh thiếu tâm Từ đối với chính mình. Nếu anh tính rằng
một trong ba người kia đáng chịu hy sinh thì anh lại không có tâm Từ đối với
người ấy.
Ðặc điểm của tâm Từ thật sự là như
vậy. Có lòng từ ái vô biên đối với người khác không có nghĩa là phải quên mình.
Hy sinh mạng sống mình vì một lợi ích nào là một đức độ cao thượng khác, và
không chấp ngã lại là một loại tâm cao thượng khác nữa. Ðó là quan điểm tế nhị
mà ta không nên lẫn lộn. Người thực hiện tâm Từ đến mức cùng tột sẽ thấy mình
đồng hóa với tất cả chúng sanh, không còn sự khác biệt giữa mình và người. Cái
gọi là 'Ta' lần lần mở rộng, lan tràn cùng khắp càn khôn vạn vật. Mọi sự chia rẽ
đều tiêu tan, biến mất như đám sương mờ trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một,
đồng thể, đồng nhất.
Thật ra không có danh từ Anh ngữ nào
tương đương để diễn tả đúng nghĩa chữ "Mettà" nhẹ nhàng êm dịu trong
tiếng Pàli. Thiện ý, từ ái, hảo tâm, bác ái, là những danh từ được xem là gần
đồng nghĩa nhất với Mettà.
Nghịch nghĩa với Mettà là sân
hận, ác ý, thù oán, ghen ghét. Tâm Từ và sân hận không thể phát sanh cùng một
lúc. Thù oán cũng không thể chứa đựng Metttà.
Ðức Phật dạy:
"Không thể lấy thù oán để diệt sân
hận, chỉ có tâm Từ mới dập tắt lòng sân."
Không những dập tắt được lòng sân,
tâm Từ, Mettà còn diệt trừ các mầm tư tưởng bất thiện đối với người khác.
Người có tâm Từ (Mettà) không bao giờ nghĩ đến làm hại, làm giảm giá trị,
hoặc bài xích ai, không bao giờ sợ ai, cũng không bao giờ làm ai sợ.
Kẻ thù gián tiếp thường mang lốt bạn
của tâm Từ một cách sâu ẩn bất ngờ là lòng trìu mến vị kỷ. Nếu quan niệm không
đúng, tâm Từ có thể dễ dàng trở thành luyến ái. Kẻ thù gián tiếp nầy thật là tế
nhị mà cũng thật hiểm độc. Nó hành động như người ẩn núp trong rừng sâu hay ở
sau một sườn núi để chờ cơ hội ám hại một người khác. Trìu mến đem lại đau khổ.
Tâm Từ chỉ tạo an lành hạnh phúc.
Ðây là điểm tế nhị mà ta không nên
hiểu lầm. Cha mẹ thương yêu trìu mến con, con trìu mến thương yêu cha mẹ; vợ mến
chồng, chồng mến vợ.
Tình thương và tâm luyến ái giữa
những người thân yêu là lẽ thường, là một sự kiện tự nhiên. Thế gian không thể
tồn tại nếu không có tình thương. Nhưng tình thương luyến ái luôn luôn ích kỷ,
hẹp hòi, không sánh được với tâm Từ là tình thương đồng đều đối với tất cả chúng
sanh trong vũ trụ bao la. Do đó tâm Từ không đồng nghĩa với tình thương ích
kỷ.
Cố ý mong muốn làm cho kẻ khác được
yên vui là đặc điểm quan trọng của tâm Từ. Người có tâm Từ luôn luôn cố gắng tạo
an lành cho tất cả chúng sanh, chỉ thấy những gì tốt đẹp nơi mọi người và không
bao giờ nhìn phần xấu xa hư hỏng của một ai.
Tâm Từ đem lại nhiều quả phúc:
1) Người có tâm Từ luôn luôn ngủ được
an vui. Ngủ với tâm trạng thơ thới, không giận hờn, không lo âu sợ sệt, tự nhiên
giấc ngủ sẽ đến dễ dàng. Mỗi người đều có thể kinh nghiệm. Người có tâm Từ nhắm
mắt là ngủ, và ngủ ngon lành.
2) Khi đi ngủ với tâm từ ái an lành,
tự nhiên lúc tỉnh giấc, thức dậy cũng với tâm an lành. Người từ ái bi mẫn thường
ngủ dậy với gương mặt vui vẻ.
3) Người có tâm Từ không bị những
điềm chiêm bao mộng mị khuấy rầy tâm trí, không thấy những điều xấu xa, ghê tợn.
Trong khi thức, lòng đầy tâm Từ thì trong lúc ngủ cũng thanh bình an lạc. Dầu có
nằm mộng cũng thấy điều vui vẻ an lành.
4) Người có tâm Từ đối với kẻ khác,
tất nhiên sẽ gặt hái những cảm tình ưu ái của mọi người.
Khi nhìn vào gương, nếu mặt ta vui vẻ
hiền lành, phản ảnh của nó sẽ hiền lành vui vẻ. Trái lại nếu mặt ta cau có quạu
quọ, phản ảnh của nó ắt cũng cau có quạu quọ. Cùng một thế ấy, thế gian bên
ngoài là phản ảnh của những hành vi, tư tưởng, thiện hay ác của con người. Người
hèn hạ xấu xa chỉ biết nhìn vào tội lỗi của kẻ khác, những gì tốt đẹp thì không
màng biết đến.
Một thi hào người Anh đã viết ra
những dòng thơ rất đẹp đẽ và thâm thúy, có nhiều ý nghĩa:
Trong con người tốt nhất cũng có
những điểm khiếm khuyết, mà trong con người xấu nhất cũng có những điểm tốt. Tại
sao ta chỉ tìm phần xấu xa tội lỗi mà không để ý đến phần tốt của người? Nếu mỗi
người đều nhìn vào phần tốt đẹp của nhau, nhân loại đã tìm được nguồn hạnh phúc
dồi dào vậy.
5) Người có tâm Từ chắc chắn là bạn
thân của nhân loại mà cũng là bạn thân của tất cả chúng sanh. Loài cầm thú cũng
lấy làm vui thích được sống gần những bậc hiền nhân đạo đức. Các vị tu sĩ sống
đơn độc một mình ở chốn rừng sâu, giữa đám sài lang hổ báo, chỉ nhờ có tâm Từ để
tự bảo vệ.
6) Do năng lực của tâm Từ
(mettà) thuốc độc không hại được hành giả, ngoại trừ trường hợp người ấy
phải trả một nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ.
Vì tâm Từ (mettà) là một năng
lực dũng mãnh, khi được thực hành đúng mức có khả năng đổi dữ ra lành. Cũng như
tư tưởng oán ghét thù hận có thể tạo nên những chất độc ảnh hưởng đến cơ thể con
người, cùng thế ấy tâm Từ có thể tạo ảnh hưởng an lành giúp hành giả thêm sức
khoẻ. Tư tưởng độc ác đầu độc con người. Tư tưởng trong sạch giúp cơ thể con
người trở nên lành mạnh.
Kinh sách có chép lại chuyện bà
Suppiyà, một tín nữ giàu lòng bi mẫn và có tâm đạo nhiệt thành. Bà Suppiyà mang
một vết thương nặng trên vế. Hôm nọ, Ðức Phật đi bát đến trước nhà, được chồng
bà cho biết rằng bà đang lâm bệnh không thể ra đảnh lễ Ngài. Ðức Phật bảo cứ đưa
bà ra. Bà cố gắng đi lần ra cửa. Vừa thấy mặt Ðức Phật, vết thương của bà bỗng
dưng lành lại, bà trở nên mạnh khỏe như thường.
Chính lòng thành kính trong sạch của
bà khi được diện kiến Ðức Phật, hợp với năng lực của tâm Từ mà Ðức Phật rải đến,
đã cứu bà khỏi bệnh.
Một đoạn kinh khác thuật rằng khi Ðức
Phật trở về quê nhà lần đầu tiên, con Ngài là Ràhula (La Hầu La), lúc ấy vừa lên
bảy, đến gần Ngài và bạch:
"Bạch Ðức Sa Môn, chỉ cái bóng của
Ngài cũng đủ làm cho lòng con mát mẻ lạ thường."
Tâm Từ của Ðức Phật bao trùm lấy cậu
bé Ràhula và có một năng lực hấp dẫn mạnh mẽ làm cho cậu vô cùng cảm
kích.
7) Người có tâm Từ luôn luôn được chư
Thiên hộ trì.
8) Tâm Từ được an trụ dễ dàng vì
không bị những tư tưởng trái ngược khuấy động.
Với tâm thanh bình an lạc, người có
tâm Từ sẽ sống ở cõi trời, và cõi trời ấy chính ta tạo ra. Chí đến những ai lân
cận tiếp xúc với người có tâm Từ cũng chứng nghiệm được phước lành
ấy.
9) Người có tâm Từ gương mặt tươi
sáng vì gương mặt là phản ảnh của nội tâm. Lúc giận, máu trong cơ thể chạy mau
gấp đôi ba lần lúc bình thường, trở nên nóng, dồn lên làm đỏ mặt tía tai. Tâm Từ
trái lại làm cho tinh thần vui vẻ, thân có cảm giác thoải mái an lành, máu được
thanh lọc trong sạch và gương mặt hiền từ dễ mến.
Kinh sách chép rằng sau khi Ðức Phật
thành tựu Ðạo Quả Phật, trong lúc ngồi tham thiền, suy niệm về pháp Nhân Quả
Tương Quan (Patthanà), tâm hoàn toàn an trụ và máu trong cơ thể tuyệt đối
thanh tịnh, lúc ấy từ bên trong pháp thân Ngài phát tủa ra những ánh hào quang
xanh, vàng, đỏ, trắng, và màu cam, bao phủ châu thân Ngài.
10) Người thấm nhuần tâm Từ đến lúc
lìa đời cũng được an vui, vì trong lòng không chứa chấp tư tưởng sân hận. Sau
khi tắt thở, gương mặt tươi tỉnh ấy là phản ảnh của sự ra đi thanh bình an
lạc.
11) Chết an vui, người có tâm Từ sẽ
tái sanh vào cảnh giới nhàn lạc.
Nếu đã đắc Thiền (Jhàna),
người ấy sẽ tái sanh vào cảnh giới của chư Phạm Thiên.
Năng Lực Của Tâm Từ
(Mettà)
Ngoài những lợi ích có tánh cách vật
chất, tâm Từ còn có năng lực hấp dẫn mạnh mẽ phi thường. Tâm Từ có thể gieo
những ảnh hưởng tốt đẹp từ xa đến một người khác. Mọi người đều cảm thấy yên vui
khi ở gần người lành.
Một hôm, Ðức Phật đến chỗ nọ. Trong
hàng các thân hào đến đảnh lễ Ngài, có một trưởng giả tên Roja, trước kia là bạn
thân của Ðức nnanda. Thấy Roja, Ðại Ðức nnanda nói: "Sư lấy làm vui mà thấy Roja
hôm nay đến đây đảnh lễ ra mắt chào mừng Ðức Phật." Roja liền trả lời: "Thật ra
không phải tôi đến đây để tỏ lòng thành kính Ðức Phật. Sở dĩ tôi đến đây hôm nay
là vì chúng tôi đánh cuộc với nhau rằng người nào không đến đảnh lễ Ðức Phật sẽ
bị phạt năm trăm đồng vàng. Chính vì sợ mất tiền mà tôi đến."
Ðức nnanda lấy làm thất vọng, đến
bạch tự sự cho Ðức Phật rõ và xin Ngài tế độ người bạn thân của mình. Ðức Phật
liền rải tâm Từ đến Roja, rồi trở về tịnh thất.
Lúc ấy Roja thấy khắp châu thân mình
đượm nhuần một luồng cảm xúc mát mẻ lạ thường dường như từ Ðức Phật đưa đến. Bị
cảm kích quá mạnh, chàng không thể cưỡng kháng lại ý muốn gặp ngay Ðức Phật.
Không khác nào bò con chạy theo mẹ, Roja chạy vào chùa, từ tịnh thất nầy đến
tịnh thất kia, để tìm Ðức Phật. Ðược chỉ dẫn đến nơi, Roja gỏ cửa. Cửa vừa mở,
ông lật đật đảnh lễ Ðức Phật, rồi nghe Ðức Phật giảng Pháp và xin quy
y.
Ðó là một trường hợp cho thấy rằng
tâm Từ có sức hấp dẫn thật mạnh mà mỗi người đều có thể tu tập, tùy theo khả
năng của mình, vì cũng như các đức tánh khác trong Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ luôn
luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong mọi người.
Trong một tích chuyện khác, có người
muốn hại Ðức Phật, cho voi uống rượu đến say rồi lùa chạy ngay lại phía Ngài.
Con voi hung tợn cắm đầu chạy đến Ðức Phật, định làm dữ. Thản nhiên, Ðức Phật
rải tâm Từ đến voi và chế ngự trong khoảnh khắc.
Mẫu chuyện hứng thú sau đây có thể
được tường thuật nhằm cho thấy đến mức độ nào một vị Bồ Tát có thể rải tâm Từ vô
lượng đến người cha đã hạ lệnh giết Ngài. Mặc dầu trẻ tuổi Bồ Tát nghĩ như thế
nầy:
"Ðây là cơ hội quý báu để ta thực
hành tâm Từ. Ðứng trước đây là cha ta. Mẹ ta đang khóc than thê thảm. Kìa là đao
phủ sẵn sàng hành quyết ta, và ta đây là nạn nhân đang đứng ở giữa. Ta phải rải
tình thương đồng đều đến tất cả bốn người. Ngưỡng nguyện cha ta khỏi phải chịu
quả xấu do hành động hung ác nầy gây ra. Mong cầu cha ta, mẹ ta, tên đao phủ, và
ta, được hạnh phúc an vui, không đau khổ, không tật bệnh, không gây oan trái.
Nhờ năng lực tâm Từ nầy, ngưỡng nguyện rằng ngày kia ta sẽ thành
Phật."
Trong vô lượng tiền kiếp, một ngày
kia, khi Ðức Phật còn là Bồ Tát, đang hành Nhẫn Nhục Ba La Mật trong ngự uyển.
Hôm ấy nhà vua say rượu. Muốn thử xem hạnh nhẫn nhục của Ngài đến đâu, vua
truyền lệnh cắt tay và chân Ngài. Ngài vẫn điềm nhiên, lặng lẽ hành pháp nhẫn.
Vua lấy làm tức giận, dùng gót chân đá vào ngực Ngài. Ngài ngã gục trên vũng
máu, hoi hóp thở những hơi thở cuối cùng, nhưng lòng vẫn bảo lòng:
"Người như ta không bao giờ sân hận,
oán thù."
Một vị tỳ khưu xứng đáng phải có tâm
Từ rộng rãi bao la. Không đào đất, cũng không bảo người đào, vì sợ rủi ro làm
chết côn trùng. Vị tỳ khưu chân chánh cũng không uống nước chưa lọc. Lời dạy sau
đây của Ðức Phật cho ta một ý niệm thế nào là tâm Từ mà một vị tỳ khưu nên
có:
"Nếu có bọn cướp hung tợn dùng cưa
cưa con ra từng mảnh và nếu con sanh tâm tức giận hoặc căm thù kẻ cướp, chính
lúc ấy con đã không thực hành lời dạy của Như Lai."
Quả thật rất khó mà chịu đựng và nhẫn
nại đến mức ấy. Nhưng đó là mức sống lý tưởng mà Ðức Phật trông đợi hàng đệ tử
Ngài cố gắng thành đạt. Chính Ðức Phật đã nêu gương lành cao thượng. Ngài dạy
:
"Như đàn voi lâm trận không kể lằn
tên mũi đạn, ta phải can đảm chịu đựng những điều bất hạnh của đời. Phần lớn
nhân loại sống ngoài khuôn khổ giới luật. Ta phải có thái độ của đàn voi lâm
trận: mạnh tiến giữa rừng gươm đao giáo mác, bình tĩnh hứng lấy những nỗi chua
cay của đời, và thản nhiên vững bước trên đường phạm hạnh."
Chúng ta đang sống trong một thế gian
hỗn loạn, giữa những tình thế căng thẳng và luôn luôn lo sợ hiểm họa chiến
tranh. Các quốc gia ngày nay ráo riết võ trang chống đối lẫn nhau và nhân loại
không ngớt phập phồng chờ đợi một loại võ khí nguyên tử thình lình từ không
trung rơi xuống.
Trong giờ phút nầy, thế gian ắt đang
trông đợi một tâm đại từ đại bi cứu khổ để mỗi người được sống an lành trong
cảnh thái bình, thuận hòa trong tình huynh đệ.
Ta lại tự hỏi : "Trước sự hăm dọa của
bom đạn, trên thực tế có thế nào ta bình thản thực hành tâm Từ được không?" Một
người thường có thể làm gì để chống lại đám mưa bom? Trong tay không có một món
vũ khí, người dân thường có thể làm gì để chặn đứng lằn tên mũi đạn?
Trước cái chết sắp đến, tâm Từ của
Phật Giáo là một khí giới ôn hòa và hữu hiệu để ngăn ngừa bom đạn.
Nếu các quốc gia hiếu chiến khứng
chịu đem tâm Từ thay thế vũ khí để cai trị thế gian bằng công lý và tình thương,
thay vì bạo lực cường quyền, thì nhân loại ắt được an cư lạc nghiệp và hạnh phúc
lâu dài.
Gác qua một bên những vấn đề quan
trọng mà chính ta không thể giải quyết, ta nên quan tâm đến riêng phần ta và
phần còn lại của nhân loại bằng cách tận lực chuyên cần trau giồi và phát triển
phẩm hạnh từ ái (mettà) dịu hiền.
Thực Hành Tâm Từ (Mettà) Như Thế
Nào?
Sau đây là một vài chỉ dẫn thực tế để
thực hành tâm Từ.
Trước tiên hành giả phải gieo trồng
tâm Từ cho chính mình. Muốn vậy, phải rải khắp châu thân và tâm những tư tưởng
an vui hạnh phúc.
Hành giả tưởng niệm:
"Tâm tôi rất yên tĩnh, thân tôi rất
an vui. Tôi không bệnh hoạn, không phiền não, không lo âu, không sân hận. Tôi
thể hiện tâm Từ. Hào quang từ ái bao phủ chung quanh tôi dập tắt mọi tư tưởng
ích kỷ, mọi xúc động thù nghịch. Tôi không còn cảm xúc trước cơn xung nộ xấu xa
của kẻ khác. Tôi lấy tốt đáp xấu, lấy tâm Từ trả lại lòng sân hận."
Hằng ngày rèn luyện tinh thần như
thế, dần dần hành giả trở nên vô cùng quảng đại, quên tất cả những điều xấu xa
của kẻ khác và giữ tâm hoàn toàn trong sạch, không còn bợn nhơ sân hận, oán
thù.
ánh sáng hạnh phúc tủa ra khắp châu
thân, hành giả ban rải hạnh phúc ấy đến người khác bằng những tư tưởng an lành
và bằng những hành động vị tha, thể hiện tâm Từ trong cuộc sống hằng
ngày.
Khi tâm được an vui và không bị những
tư tưởng sân hận làm chao động, hành giả sẽ dễ dàng rải tâm Từ đến cho kẻ khác.
Ta không thể cho ai một vật mà chính ta không có. Trước khi muốn làm cho người
khác được an vui, chính hành giả phải được an vui, phải biết làm thế nào cho
mình được an vui.Hành giả rải tâm Từ đến thân bằng quyến thuộc, riêng từng
người, rồi đến toàn thể, và ước mong mọi người đều lánh xa phiền não, bệnh tật,
lo âu, sân hận.
Hành giả cũng rải tâm Từ đến bạn bè
và những người không quen biết và thành thật ước mong cho những người nầy, như
trước kia đã ước mong cho mình và thân bằng quyến thuộc mình được an vui, hạnh
phúc và lánh xa phiền não, bệnh tật, lo âu, và sân hận.
Sau cùng, mặc dầu là khó, hành giả
rải tâm Từ đến cho những người có ác ý với mình, nếu có. Rải tâm Từ đến những
người coi mình là thù nghịch, lấy thái độ ôn hòa đối lại những cử chỉ bất hòa là
hành động của bậc anh hùng quân tử, đáng được làm gương cho đời. Ðức Phật dạy:
"Hãy giữ tâm luôn luôn trong sạch giữa đám người đầy thù hận."
Hành giả rải tâm Từ đến tất cả chúng
sanh, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, màu da, hay nam nữ, không trừ bỏ một
loài cầm thú nhỏ nhen câm điếc nào. Hành giả tự đồng hóa với tất cả, tự mình
chan hòa trong toàn thể, thấy vạn vật và mình là một. Tâm không còn một điểm vị
kỷ, hành giả đã vượt lên khỏi mọi hình thức chia rẽ riêng tư. Không bị giam hảm
trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng của tinh thần đấu tranh giai
cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, hành giả có thể nhìn toàn thể thế gian là
nơi chôn nhau cắt rún và tất cả mọi người là bạn đồng hành trong đại trùng dương
mà ta gọi là đời sống của muôn loài vạn vật.
2. Tâm Bi
(Karunà)
Ðức tánh thứ nhì giúp con người trở
nên cao thượng là tâm Bi (karunà). Bi được định nghĩa là động lực làm cho
tâm người tốt rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, hay cái gì thoa dịu niềm
khổ đau sầu não của người. Ðặc tánh của tâm Bi là ý muốn giúp người khác thoát
khỏi một cảnh khổ.
Lòng người có tâm Bi thật là mềm dịu,
hơn cả những tai hoa. Ngày nào chưa cứu giúp được kẻ khác, tâm Bi không hề thỏa
mãn. Lắm khi, để làm êm dịu nỗi khổ đau của kẻ khác, người có tâm Bi không ngần
ngại hy sinh đến cả mạng sống mình. Sự tích Túc Sanh Truyện VyàghrÊ Jàtaka đã
nói lên gương lành của một vị Bồ Tát tự hiến thân để cứu một con cọp mẹ và bầy
con khỏi chết đói.
Chính do nhờ tâm Bi mà con người có
thể hoàn toàn vị tha trong khi phục vụ. Người có tâm Bi không sống riêng cho
mình, mà cũng sống cho kẻ khác và luôn luôn tìm cơ hội để giúp đời, nhưng không
bao giờ cầu mong được đền ơn đáp nghĩa.
Ai Cần Ðến Tâm Bi?
Nhiều người trong chúng ta đáng thọ
nhận lòng bi mẫn của ta. Những kẻ nghèo nàn đói rách, những người túng thiếu cơ
hàn, đau ốm, cô đơn, dốt nát, hư hèn, người có đời sống bẫn thỉu buông lung, là
hạng người cần đến tâm Bi của những tấm lòng trắc ẩn cao thượng, không luận nam
nữ, không phân chủng tộc, giai cấp hoặc tôn giáo.
Có nhiều quốc gia giàu về vật chất mà
nghèo về tinh thần. Cũng có những dân tộc khác, giàu về tinh thần mà nghèo về
vật chất. Chẳng luận tinh thần hay vật chất, bổn phận cao cả của người giàu là
giúp đỡ kẻ nghèo. Biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà, trẻ em, đang sống trong cảnh
cơ hàn, thiếu thốn đến cả những vật dụng cần thiết. Nếu các đại phú gia đem tiền
của dư dả ra giúp đỡ cho hạng người nầy, công tác từ thiện ấy chắc không đến nổi
làm tổn hại tài sản của họ.
Một lần nọ, có chàng sinh viên trẻ
tuổi về nhà xin phép mẹ gỡ bức màn treo trên cửa để cho một người nghèo khó, đói
rách. Chàng nói rằng không có bức màn nầy, cái cửa không đến nỗi phải chịu lạnh,
nhưng nếu thiếu quần áo che thân, chắc chắn người nghèo kia phải khổ sở vì lạnh.
Thái độ hảo tâm thương người của chàng sinh viên và của bà mẹ đáng là một gương
lành cao quý.
Nhân loại lấy làm vinh hạnh ghi nhận
rằng một vài quốc gia giàu có đã tổ hợp lại thành những cơ quan từ thiện nhằm
giúp đỡ những dân tộc kém mở mang bằng mọi cách, đặc biệt là ở á Châu. Trong hầu
hết các quốc gia, nhiều tổ chức từ thiện gồm đủ hạng -- nam, nữ và sinh viên --
đã hoạt động mạnh mẽ để mang lại cho hạng người nghèo đói và túng thiếu những sự
giúp đỡ cần thiết. Các đoàn thể tôn giáo, trong phạm vi khiêm tốn của mình, cũng
tận dụng khả năng để làm tròn phận sự. Các quốc gia kém mở mang đang cần trại
dưỡng lão, cô nhi viện và những tổ chức từ thiện tương tợ.
Trong vài quốc gia, nạn ăn xin vẫn
cần phải được giải quyết. ở những nơi nầy, ăn xin đã trở thành nghề sinh sống.
Vì lòng bi mẫn đối với hạng người bất hạnh nầy vấn đề phải được Chánh Quyền giải
quyết thỏa đáng vì đó là một sĩ nhục cho quốc thể.
Người giàu tiền của có bổn phận giúp
đỡ kẻ nghèo về vật chất. Cùng thế ấy, người giàu tinh thần đạo đức cũng có bổn
phận giúp đỡ kẻ thiếu kém về tinh thần, mặc dầu người ấy có thể là một đại phú
gia. Tiền rừng bạc bể riêng rẽ một mình, không đem lại chân hạnh phúc. Kho tàng
của báu không tạo an vui tinh thần. Tâm trạng an lạc thanh bình chỉ do kho tàng
đạo đức tạo nên. Nhiều người trong thế gian rất cần thức ăn tinh thần, nhưng
không dễ gì thành đạt chất dinh dưỡng tâm linh nầy, vì kể về lượng, số người
nghèo về tinh thần trội hơn nhiều, so với kẻ nghèo về vật chất. Lý do là vì
trong cả hai hạng người -- giàu và nghèo về vật chất -- đều có những người nghèo
về tinh thần.
Trong thế gian rộng lớn nầy số người
đau ốm bệnh hoạn đông hơn số người nghèo túng rất nhiều. Nhiều người bệnh về vật
chất, vài người bệnh về tinh thần. Khoa học cung cấp thuốc men công hiệu cho
hạng người trước nhưng không có cho hạng sau. Họ là những người đang mòn mỏi héo
tàn trong các bệnh viện tâm thần.
Có những nguyên nhân cho cả hai loại
bệnh. Người có tâm bi mẫn, dầu nam hay nữ, phải cố gắng tiêu trừ những nguyên
nhân ấy. Trong nhiều quốc gia khác nhau đã có những phương pháp để ngăn ngừa và
chữa trị chẳng những cho người mà còn cho thú.
Ðức Phật đã nêu gương lành cao quý
bằng cách tự tay chăm sóc người bệnh và khuyên dạy hàng đệ tử với những lời lẽ
đáng ghi nhớ như sau:
"Người nào chăm sóc người bệnh là
chăm sóc Như Lai."
Vài vị lương y vị tha hết lòng giúp
đỡ miễn phí cho những bệnh nhân nghèo để thoa dịu nỗi khổ đau của họ. Vài vị tận
dụng thời giờ và công phu để chăm sóc người bệnh, lắm khi nguy hại đến mạng sống
của chính mình.
Bệnh viện và những phòng thuốc miễn
phí là một phước lành cho nhân loại, nhưng đến nay vẫn còn chưa đủ cho số người
nghèo. Trong những quốc gia kém mở mang người nghèo còn phải chịu nhiều đau khổ
vì chưa có đủ phương tiện y khoa. Người bệnh còn phải được chở đi nhiều dặm
đường khó khăn để đến một bệnh viện hay phòng thuốc gần nhất. Nhiều khi bệnh
nhân chịu không nổi phải chết dọc đường. Riêng các bà mẹ thai nghén rất cần được
giúp đỡ. Bệnh viện, phòng thuốc, nhà bảo sanh v.v... là những nhu cầu vô cùng
thiết yếu trong các làng mạc xa xôi.
Hạng người thấp kém bần cùng đáng
được các bậc giàu có bi mẫn xót thương. Lắm khi người ăn kẻ ở trong nhà không
được thù lao đúng mức, không ăn đủ no, không mặc đủ ấm, và thường bị đối xử tồi
tệ. Tình trạng công bình không lan đến họ. Họ bị ruồng bỏ, họ sống không được
che chở vì không ai biện hộ cho. Trong vài trường hợp đặc biệt những hành động
rõ ràng hung ác vô nhân đạo như vậy được xem là tự nhiên. Phần lớn các trường
hợp tương tợ bị lờ đi, không được biết đến. Những kẻ bất hạnh ấy không còn cách
nào khác hơn là âm thầm chịu đựng những nỗi khổ đau, giống như Ðất Mẹ thầm lặng
nhận lấy tất cả những gì người ta vứt. Ðến khi không còn chịu nổi sầu muộn họ
chỉ còn quyên sinh cuộc sống trong cơn tuyệt vọng.
Hạng người phóng đảng tội lỗi và dốt
nát lại càng đáng được các bậc đạo đức cao thượng xót thương hơn, vì họ là những
người bệnh hoạn về tinh thần và đạo đức. Không nên kết tội và khinh rẻ hạng
người yếu đuối ấy vì họ đã bị lầm đường lạc nẻo, trái lại nên thương xót và dìu
dắt họ trở lại đường phải.
Dầu cha mẹ thương đồng đều các con
nhưng vẫn có thể đặc biệt tội nghiệp và chăm nom săn sóc những đứa ốm yếu bệnh
hoạn. Cũng dường thế ấy, tâm Bi của ta phải bao trùm tất cả chúng sanh đau khổ,
nhưng riêng đối với hạng người bệnh hoạn tinh thần, suy kém đạo đức, ta nên đặc
biệt thương xót và hết lòng dẫn dắt họ trở lại đường lành.
Như Ðức Phật xưa kia, hết lòng thương
hại và cứu độ Ambapàli, người phụ nữ lạc bước giang hồ và tận tâm tế độ
Angulimàla, tên sát nhân tàn ác, toan ám hại Ngài. Về sau cả hai đều theo Ngài
và hoàn toàn đổi tánh.
Ta phải hiểu biết rằng bên trong mỗi
người, dầu là người xấu xa thế nào, đều có tiềm ẩn ngủ ngầm những đức tánh tốt
đẹp. Ðôi khi chỉ một lời nói phải, đúng lúc, cũng có thể đổi hẳn con người từ dữ
ra lành.
Như vua Asoka trước kia, tàn bạo đến
đổi người đời bấy giờ gọi là "nsoka con người tội lỗi," thế mà khi nghe được
những lời nói phải của một thầy sa di trẻ tuổi -- "Ðức hạnh tận tụy chuyên cần
là con đường đưa đến trạng thái Vô Sanh" -- Ngài đổi hẳn tánh tình, mạnh tiến
trên đường tự giác, và trở nên "Asoka con người hiền đức," một đấng minh quân
(Dharmàsoka).
Ðức Phật khuyên nên xa lánh hạng
người cuồng si. Như vậy không có nghĩa là ta không thể đến gần để cảm hóa cùng
khuyến thiện họ. Có những bệnh nhân mắc phải chứng bệnh truyền nhiễm ngặt nghèo.
Mọi người đều sợ và lánh xa. Nhưng cũng có những vị lương y hết lòng thương hại,
đến gần săn sóc và chữa trị cho họ khỏi bệnh. Nếu không có các vị lương y giàu
tâm Bi kia, bệnh nhân ắt phải bỏ mạng. Cùng một thế ấy, hạng người xấu xa bệnh
hoạn về tinh thần ắt phải bị chìm đắm mãi mãi trong đêm tối của tội lỗi nếu
không ai có lòng quảng đại thương xót và ra tay tế độ.
Thế thường, Ðức Phật tìm đến những
hạng xấu xa hư hèn để cảm hóa, nhưng chính bậc đạo đức trong sạch thì lại tìm
đến Ngài. Cũng như tâm Từ (mettà). tâm Bi (karunà) vô lượng, vô
biên, vô hạn định, phải được rải đến cho tất cả những chúng sanh đau khổ, bơ vơ,
chí đến những loài cầm thú câm điếc, và những chúng sanh còn trong
trứng.
Phủ nhận quyền sống và những đặc
quyền làm người chỉ vì những người nầy sanh trưởng trong một giai cấp, một chủng
tộc, hay có màu da như thế nào, là vô nhân đạo và độc ác. Giết, hoặc sai bảo
người khác giết những con thú vô tội để bày tiệc linh đình, ăn uống hả hê, cũng
là hành động trái ngược với tâm Bi. Dùng bom đạn để tiêu diệt hằng triệu sanh
linh là hình thức xấu xa nhất của sự tàn bạo mà người si mê có thể
làm.
Ngày nay thế gian sống trong tình
trạng căm thù, sân hận, đã hy sinh vật sở hữu quý báu nhất là mạng sống, đặt
trước bàn thờ để tế thần bạo lực. Tâm Bi đã chạy trốn nơi nào?Thế gian ngày nay
cần những hạng người giàu lòng bi mẫn, nam và nữ, để tiêu trừ những hành động
độc ác và bạo tàn.
Cũng nên ghi nhận rằng tâm Bi của
Phật Giáo không phải là những giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương xót, bởi vì
kẻ thù gián tiếp của tâm Bi là âu sầu, phiền muộn (domanassa).
Tâm Bi bao trùm những chúng sanh đau
khổ trong khi tâm Từ bao gồm tất cả chúng sanh -- đau khổ và an
vui.
3. Tâm Hỷ
(Mudità)
Ðức tánh cao thượng thứ ba trong Tứ
Vô Lượng Tâm là Hỷ, vui, (Mudità). Mudita, Hỷ không phải là trạng thái
thỏa thích suông, cũng không phải cảm tình riêng đối với người nào mà là tâm
hoan hỷ, vui thích với hạnh phúc của người khác, trước sự thành công của một
chúng sanh. Tâm Hỷ có chiều hướng loại trừ lòng ganh tỵ, vốn là kẻ thù trực tiếp
của nó.
Một năng lực hùng mạnh có sức phá
hoại vô cùng nguy hiểm là lòng ganh tỵ. Rất thường có người lấy làm khó chịu khi
thấy hoặc nghe nói người khác thành tựu mỹ mãn một công trình.
Thấy người thất bại thì vui, mà không
thể chịu đựng sự thành công của kẻ khác. Thay vì vui mừng tán dương thắng lợi
của người, họ cố gắng phá hoại hoặc bóp méo sự thật để gièm pha hoặc chê bai.
Ðứng về một phương diện, chính người có tâm Hỷ trực tiếp hưởng nhiều lợi ích do
tâm ấy đem lại, hơn là người khác, vì tâm Hỷ không chấp chứa lòng ganh tỵ. Về
một phương diện khác, người thực hành tâm Hỷ luôn luôn giúp đỡ người khác vì
không bao giờ muốn làm trở ngại tiến bộ và phá rối tình trạng an lạc của
ai.
Cũng như tâm Từ, tâm Hỷ đối với thân
bằng quyến thuộc phát hiện rất dễ dàng nhưng khó bộc lộ trước sự thành công của
người thù nghịch. Thật vậy, con người bình thường chẳng những cảm thấy khó mà
còn không thể biểu lộ lòng hoan hỷ vui mừng trước cái vui của người thù. Họ tìm
thỏa thích trong sự cản ngăn, gây chướng ngại cho người thù thất bại.
Lòng ganh tỵ còn thúc đẩy đến mức
giết người bằng cách đầu độc, treo lên thánh giá, ám sát các bậc hiền lương đạo
đức. Socrates, nhà hiền triết Hy Lạp, bị bắt buộc phải quyên sinh bằng thuốc
độc. Chúa Christ (Ki Tô) bị đóng đinh trên thánh giá. Thánh Gandhi (Cam Ðịa) bị
ám sát.
Ðó là bẩm tánh tội lỗi của người thế
gian, đang miệt mài say đắm trong ảo mộng. Nếu so sánh với tâm Từ và tâm Bi, tâm
Hỷ lại càng khó thực hiện. Muốn phát triển tâm Hỷ phải có ý chí mạnh mẽ và phải
tận lực cố gắng.
Người phương Ðông có thành thật thỏa
thích với sự thịnh vượng của người phương Tây không? Người phương Tây có thành
thật thỏa thích với sự thịnh vượng của người phương Ðông không? Quốc gia nầy có
vui mừng thấy một quốc gia khác sung túc an lạc không? Chủng tộc nầy có hoan hỷ
ghi nhận rằng một chủng tộc khác đang vươn mình trưởng thành trong cảnh an cư
lạc nghiệp không? Mặc dầu mục đích của các tôn giáo là trau giồi tinh thần đạo
đức, giáo phái nầy có vui mà thấy ảnh hưởng tinh thần của một giáo phái khác
bành trướng mạnh mẽ không?
Tôn giáo nầy ganh tỵ với tôn giáo
khác. Phần bên nầy quả địa cầu ganh tỵ với phần bên kia. Tổ chức nầy ganh tỵ với
tổ chức kia. Hảng buôn nầy ganh tỵ với hảng buôn khác. Gia đình nầy ganh tỵ với
gia đình khác. Học trò ganh tỵ với học trò, chí đến anh chị em trong một nhà có
khi cũng ganh tỵ lẫn nhau.
Ðó là lý do tại sao mỗi cá nhân và
mỗi nhóm người, trong đời sống cá nhân cũng như trong cuộc sống tập thể, nên
thực hành tâm Hỷ để vươn mình tiến lên trong nếp sống thanh cao trong sạch và
tạo hoàn cảnh an lành hạnh phúc cho chính mình.
Ðặc tánh của tâm Hỷ là hoan hỷ với
người thành công, người lộc cao phúc hậu (anumodanà). Vui cười không phải
là đặc tánh của tâm Hỷ và ra vẻ hân hoan, giả làm ra tuồng thỏa thích, được coi
là kẻ thù gián tiếp của tâm Hỷ.
Tâm Hỷ (Mudità) bao trùm tất
cả chúng sanh thịnh vượng và hữu phúc, là phẩm hạnh thành thật chia vui, chung
cùng hoan hỷ với lòng ngợi khen. Tâm Hỷ có chiều hướng loại trừ mọi hình thức
bất mãn (arati), trước sự thành công của người khác.
4. Tâm Xả
(Upekkhà)
Upekkhà
(Xả) là đức tánh thứ tư trong Tứ Vô Lượng Tâm, khó thực
hành nhất, mà cũng cần thiết nhất trong bốn phẩm hạnh cao thượng nầy. Phạn ngữ
Upekkhà do hai căn "upa" và "ikkha" hợp thành. Upa là đúng đắn, chân
chánh, vô tư. Ikkha là trông thấy, nhận định, suy luận. Vậy Upekkhà là
trông thấy đúng đắn, nhận định chân chánh, hoặc suy luận vô tư, tức không luyến
ái cũng không ghét bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn. Không tham cũng không
sân.
Tâm Xả đặc biệt cần thiết cho người
tại gia cư sĩ, còn phải sống trong một thế gian kém quân bình giữa những hoàn
cảnh vô thường biến đổi.
Khinh rẻ, phỉ báng, nguyền rủa là
thường tình. Thế gian nầy là vậy, hạng người trong sạch đạo đức thường bị chỉ
trích bất công và bị khiển trách. Giữa cơn giông tố của trường đời, người trau
giồi tâm Xả cao thượng luôn luôn giữ tâm bình thản.
Ðược và thua, danh thơm và tiếng xấu,
tán dương và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ là tám pháp thế gian
(atthalokadhamma, bát phong: được và mất, vinh và nhục, khen và chê,
sướng và khổ) ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Phần lớn con người bị chao động
vì những trạng thái thuận lợi và bất thuận lợi ấy. Ðược tán dương ca tụng thì
vui thích, bị chê bai khiển trách thì buồn rầu.
Người trí tuệ minh mẫn, Ðức Phật dạy,
luôn luôn thản nhiên hành tâm Xả, vững chắc như tảng đá to sừng sựng giữa những
thăng trầm của thế sự.
Cuộc sống thăng bằng và luôn luôn
bình thản của Ðức Phật là gương lành cao quý về tâm Xả mà Ngài ban tặng cho thế
gian.
Chưa từng có vị giáo chủ hoặc một
nhân vật nào bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đả kích, sỉ nhục, hoặc bị lăng mạ
nhiều như Ðức Phật, nhưng cũng không có ai được tán dương, tôn kính và sùng bái
như Ðức Phật.
Ngày kia, trong khi Ðức Phật đi trì
bình khất thực, có một đạo sĩ Bà La Môn ngạo mạn kêu Ngài là cùng đinh và đối xử
hết sức vô lễ. Ðức Phật thản nhiên chịu đựng và ôn hòa giải thích cho đạo sĩ thế
nào là cùng đinh và vì sao chẳng nên khinh rẻ hạng người nầy. (Vasala
Sutta, Kinh Cùng Ðinh) Vị đạo sĩ lấy làm khâm phục và xin quy y với
Ngài.
Một lần khác có người thỉnh Ðức Phật
đến nhà trai tăng. Khi Ðức Phật đến, chủ nhà lại dùng lời vô lễ, đối xử với Ngài
một cách thậm tệ gọi Ngài là "heo," là "loài cầm thú, là "bò" v.v..." Nhưng Ðức
Phật không tức giận. Ngài không trả thù, ôn tồn hỏi chủ nhà: Nếu biết có khách
đến nhà thì Ông làm sao?
-- Tôi sẽ chuẩn bị, dọn một bữa cơm
để khoản đãi khách.
-- Tốt lắm, Ðức Phật nói, nhưng rồi
nếu khách không đến thì sao?
-- Thì tôi sẽ cùng với vợ và con chia
nhau bữa cơm.
-- Tốt lắm, nầy Ông, hôm nay Ông mời
Như Lai đến nhà để trai tăng. Ông đã dọn lên cho Như Lai những lời thô lỗ cộc
cằn.
Như Lai không nhận. Vậy xin Ông hãy
giữ lấy.
Những lời nói nầy đã làm đổi hẳn thái
độ của chủ nhà.
"Không nên trả thù. Khi bị nguyền
rủa, mắng chửi, phải biết làm câm như cái mõ bể. Ðược như vậy tức đã đứng trước
ngưỡng cửa Niết Bàn, mặc dầu trong thực tế chưa đắc Quả Niết Bàn."
Ðó là những lời vàng ngọc mà Ðức Phật
khuyên nên ghi nhớ hằng ngày trong kiếp sống vô thường biến đổi nầy.
Có lần nọ, một mệnh phụ phu nhân xúi
giục một người say rượu đến nhục mạ Ðức Phật thậm tệ đến đổi Ðại Ðức nnanda,
người thị giả thân tín, không thể chịu được, kính bạch Ðức Phật nên sang xứ
khác. Nhưng Ngài không xúc động.
Một người phụ nữ khác giả có mang để
vu oan Ðức Phật giữa công chúng. Một thiếu phụ khác nữa bị giết để vu cáo Ðức
Phật phạm tội sát nhân. Một người bà con vừa là đệ tử của Ðức Phật cũng manh tâm
lăn đá từ trên đồi cao, quyết sát hại Ngài. Trong hàng đệ tử của Ngài cũng có
người chỉ trích Ngài là ganh tỵ, thiên vị, bất công, v.v...
Ðàng khác, bao nhiêu người đã tán
dương công đức và ca tụng Ðức Phật. Bao nhiêu vua chúa đã kính cẩn khấu đầu lễ
bái dưới chân Ngài.
Như Ðất Mẹ, Ðức Phật nhận lãnh tất cả
với tâm Xả hoàn toàn.
"Vững như voi không run sợ trước
tiếng động, ta không nên để tâm rối loạn trước những lằn tên có tẩm thuốc độc
của miệng lằn lưỡi mối. Như gió thổi ngang màn lưới mà không vướng mắc trong
lưới, tuy sống giữa chợ người ta không nên say mê luyến ái những lạc thú huyền
ảo của thế gian vô thường biến đổi nầy. Như hoa sen không bị bùn dơ nước đục làm
nhơ bẩn, vượt lên khỏi bao nhiêu quyến rũ của thế gian, ta phải sống trong sạch,
luôn luôn tinh khiết, an lạc và thanh bình, không bị nhiễm ô."
Như trong trường hợp của ba phẩm hạnh
kia, người thù trực tiếp của tâm Xả là luyến ái (ràga) và kẻ thù gián tiếp là
trạng thái lãnh đạm, thái độ lạnh lùng, xây lưng với thế sự.
Upekkhà
(tâm Xả) lánh xa tham ái và bất mãn. Thái độ vô tư, thản
nhiên, an tĩnh, là đặc tánh chánh yếu của tâm Xả.
Người có tâm Xả không bị lạc thú trần
gian quyến rũ, không thích thú say mê trong hạnh phúc, cũng không bị những gì
nghịch ý làm bực tức buồn phiền hay bất mãn trong khổ đau.
Người có tâm Xả không thấy sự khác
biệt giữa người tội lỗi và bậc Thánh Nhân và đối xử đồng đều với tất
cả.
* * *
Tâm Từ bao trùm tất cả mọi chúng
sanh; tâm Bi, những chúng sanh đau khổ; tâm Hỷ, những chúng sanh hạnh phúc; tâm
Xả phủ khắp những gì tốt đẹp và những gì xấu xa, những điều khả ái và những điều
khả ố, những thích thú và những nghịch lòng.
Những ai có nguyện vọng trở thành bậc
Thánh Nhân trong chính kiếp sống nầy, có thể hằng ngày phát triển và trau giồi
bốn đức hạnh cao thượng trên, vốn luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong mọi
người.
Những ai có nguyện vọng trở nên toàn
thiện và bi mẫn gia công tạo an lành cho tất cả, trong khoảng thời gian còn
triền miên sanh tử theo vòng luân hồi, có thể kiên trì cố gắng, phát triển mười
pháp Ba La Mật (Pàramì), và cuối cùng, thành tựu Ðạo và Quả Chánh Ðẳng
Chánh Giác (Sammà Sambuddha), Chánh Biến Tri.
Những ai có nguyện vọng tận diệt mọi
khát vọng của mình và chấm dứt đau khổ bằng cách chứng ngộ Niết Bàn nhân cơ hội
sớm nhất, có thể chuyên cần noi theo Con Ðường Duy Nhất -- Bát Chánh Ðạo -- mà
đến nay vẫn còn được giữ nguyên vẹn tánh cách tinh túy nguyên thủy.
Ðức Phật kêu gọi :
"Nầy chư Tỳ Khưu, thí dụ như toàn thể
vùng đất mênh mông nầy trở thành nước, và người kia bỏ xuống nước một cái ách xe
bò, trên ách có một lỗ. Rồi có một cơn gió thổi, đẩy trôi cái ách từ Ðông sang
Tây, một cơn gió khác đẩy trôi cái ách từ Tây sang Ðông, rồi một cơn gió nữa đẩy
cái ách từ Bắc xuống Nam, và một cơn khác từ Nam lên Bắc. Và cứ như thế, cái ách
triền miên trôi giạt trên mặt nước. Trong khi ấy có một con rùa mù, mỗi trăm năm
nổi lên mặt nước một lần. Như vậy, có thế nào con rùa mù, sau một trăm năm, trồi
lên mặt nước và thọc đầu ngay vào cái lỗ duy nhất của cái ách được
không?
-- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật con
rùa mù khó làm như vậy.
-- Nầy chư Tỳ Khưu, cùng thế ấy, được
sanh vào cảnh người cũng khó như vậy. Cùng thế ấy, khó có một đấng Như Lai thị
hiện trên thế gian. Cùng thế ấy, Giáo Pháp (Dhamma) và Giới Luật
(Vinaya) mà một đấng Như Lai tuyên bố, được truyền bá trong thế gian quả
thật vô cùng hy hữu.
Nhưng nay, nầy chư Tỳ Khưu, quả thật
vậy, trạng thái làm người đã được thành đạt, một đấng Như Lai đã thị hiện trên
thế gian. Giáo Pháp và Giới Luật mà Ðức Như Lai tuyên bố đã được truyền bá trong
thế gian.
Vậy, nầy chư Tỳ Khưu, các con phải
kiên trì tinh tấn để chứng ngộ: Ðây là đau khổ, đây là nguyên nhân sanh đau khổ,
đây là sự chấm dứt đau khổ, đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ."
(Kindred Sayings, Tương Ưng, phần v, trang 334).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.9/11/2012 ).
|
No comments:
Post a Comment