Thursday 25 April 2013

Linh Ứng Quán Thế Âm.
                   



THOÁT NẠN NƯỚC CUỐN  
Nước trôi song bị chìm
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðược sống lâu thọ mạng
Nhờ Quán Âm thọ trì.
Hồi mới lên 6,7 tuổi, tôi và anh tôi cứ mỗi buổi trưa cuối tuần hay trốn mẹ ra sông để tắm. Một hôm gặp mùa mưa tháng tám, nước lớn từ trên nguồn tuôn về quá mạnh khiến con đê trong làng bị vỡ, nơi khúc sông cạn bỗng dưng nước ngập, xoáy sâu và chảy xiết. Cả hai anh em tôi đều bị cuốn theo dòng nước và vì sức yếu nên hai anh em chúng tôi không sao gượng nổi để vào bờ. Lúc bấy giờ tôi chỉ kịp nghe tiếng anh tôi nhắc: “ em ơi! đừng sợ, niệm Phật Quán Âm đi.”, rồi anh tôi mất dạng. Tôi cũng chìm ngập trong biển nước xoáy. Nhờ lời nhắc niệm Phật Quán Âm của anh tôi, nên trong ý thức của tôi lúc đó rất bình tĩnh, sáng suốt và tôi nói thầm trong miệng: “Phật Quán Âm ơi! cứu con với! con mệt lắm rồi…” tôi cứ lẩm bẩm trong miệng hoài như thế không biết bao nhiêu lần, cho đến khi không còn biết gì nữa. Tôi đã bị chết trôi? Không, tôi đã được đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu sống đến bây giờ. Năm nay tôi đã 57 tuổi, kể ra tôi cũng thọ mạng đấy chứ.
Trong cơn mê man của một giấc ngủ dài, tôi nghe tiếng một ông lão gọi bên tai tôi: “Này con, thức dậy để đi tìm anh con vể nhà. Mẹ, ba con, ông bà nội của con đang nóng lòng chờ hai anh em con về ăn cơm trưa đó.” Qua tiếng gọi, tôi đã tỉnh ngủ. Khi thức dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một cồn cát trắng, sát bên cạnh một vùng nước mênh mông. Nhìn quanh bốn phía chẳng thấy nhà cửa, chẳng thấy bóng dạng người qua lại. Nhìn vào thân thể, tôi bỗng thẹn thùng vì thấy mình trần trục, không có quần áo gì cả. Nhìn vào ngực, tôi bắt gặp cái tượng đức Quán Thế Âm 
Bồ Tát nhỏ mạ vàng mà mẹ tôi đã đeo trong cổ cho tôi ngay hồi tôi mới sinh được vài tháng. Tôi mĩm cười, cầm cái tượng vân vê trên tay, rồi nói: “Phật Quán Âm ơi! Anh của con đâu rổi? Nếu anh của con mà bị nước cuốn trôi thì mẹ , ba, ông bà nội, ông bà ngoại của con khóc đó. Con cũng không chịu mất đi anh của con đâu. Phật Quán Âm ơi! chỉ cho con biết anh của con đang ở đâu để con tới dẫn anh con về nhà kẻo mẹ lo. Mẹ thương hai anh em con lắm đó.”
Vừa réo gọi Phật Quan Âm vài tiếng, tôi ngẩng đầu nhìn ra phía sóng nước trùng khơi, tôi thấy một con đò nhỏ đang chạy thoăn thoắt đi về phía tôi. Tôi reo lên mừng rỡ, chờ đợi và nhảy ra con nước ôm lấy anh tôi khi con đò vừa đến. Anh tôi đã đến trên một con đò nhỏ với ông lão. “Ồ, Anh ơi! chiếc đò và ông lão đi đâu mất rồi? Sau phút chốc, tôi ôm anh tôi mừng, tủi tủi; tôi quay lại thì không thấy chiếc đò và ông lão đâu nữa. Anh tôi cũng ngạc nhiên như tôi, cả hai anh em trố mắt tìm kiếm. Nhưng, giữa cánh đồng con nước mênh mông, vẫn im lìm không một bong thuyền đò qua lại. Ông lão chèo đò biến dạng, chiếc đò cũng không còn.
Anh tôi thuật lại rằng khi cơn nước đẩy, anh tôi không nhìn thấy tôi đâu cả, nên anh tôi la lớn bảo tôi niệm Phật Bà Quán Âm để được Phật Bà giúp đỡ. Anh tôi biết mình sắp chết đuối và nhớ lời mẹ dặn là khi gặp tai nạn thì niệm Phật Bà Quán Âm. Lúc đó, anh tôi tin là có Phật Bà và nghĩ là Phật Bà rất linh thiêng, nên anh tôi không có lo sợ. Anh tôi nhắm mắt và thầm niệm: NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Anh tôi niệm tên của Phật Bà ước chừng được mười lần thì anh tôi chẳng còn hay biết gì cả. Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trên chiếc giường tre với bộ áo quần xanh mới, bên cạnh bếp lửa đang nấu nồi cháo trắng sôi sùng sục. Trong nhà chỉ có một mình ông lão tuổi chừng bảy mươi, tướng mạo rất đẹp, miệng luôn cười như Phật Di Lạc. Ông lão lấy cháo trộn với đường cát cho anh tôi ăn một tô lớn rồi ông khen anh tôi ngoan, giỏi, còn nhỏ mà biết tin Phật Bà Quán Âm. Anh tôi hỏi: “Bác có biết Phật Bà ở đâu không?” Ông lão cười và chỉ vào trái tim của anh tôi. Ý ông lão nói là Phật Bà ở trong tâm của anh tôi. Ăn cháo xong, ông lão nói với anh tôi là đi tìm tôi và sẽ đưa cả hai anh em về nhà. Anh tôi ngồi trên chiếc đò nhỏ và ông lão đưa anh tôi tới đây gặp tôi.
Tôi bảo anh tôi: “Như vậy ông lão đó chính là đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà anh em mình thường nghĩ và niệm bấy lâu nay.”
Anh tôi gật đầu thốt lên: “ừ hơ, ờ hơ, anh có cảm giác là ông lão này là lùng lắm, không phải là một người thường…” Mặt trời chiếu lên cao, anh tôi cởi chiếc áo đang bận trùm lên mình tôi. Hai anh em tôi dắt nhau về nhà một cách bình an.
Chuyện này xảy ra tại thôn Phường Sắn là một thôn nhỏ tại làng Long Hưng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nơi tôi ra đời và lớn lên.
Nguyễn Năng Diêu, anh hai tôi ghi lại chuyện này trong nhật ký của người. Tôi cung kính chép lại nơi đây để cống hiến đến quý thân hữu xa gần và mong bạn đọc cho anh tôi một lời cầu nguyện. Anh tôi đã qua đời năm 1961 vì chiến tranh và bom đạn vô tình.
CẦU SINH CON GÁI TOẠI Ý 
Quán Âm chuyên lễ niệm
Cầu con gái thỏa lòng
Ðược môn đăng rể quý
Cả nhà đều mừng vui.
Ông bà ngoại chúng tôi sinh liên tục ba người cậu, cả đại gia đình và dòng họ ai cũng đều lấy làm vui. Riêng ông ngoại có lúc ngồi một mình uống trà đăm chiêu, nghĩ ngợi và buồn rầu. Bà ngoại thấy vậy, gạn hỏi căn do nhiều lần, ông ngoại không dấu diếm được liền nói với bà ngoại rằng:
Tôi một mình tự ý hứa với Ngài chánh tổng trong làng là hễ trong nhà có sinh con gái thì sẽ kết nghĩa làm sui gia với bên họ Nguyễn. Thế nhưng đã hơn năm trôi qua mà thời gian hứa của tôi chưa thành sự thật. Bà đừng hiểu lầm là tôi trách bà nghe, chỉ là nhà ta thiếu phước nên chưa đủ duyên cùng làm người nhà với Ngài chánh tổng đó thôi.
Nghe ông ngoại nói xong, bà ngoại thấy thương chồng, sốt ruột và lại cũng đâm ra lo lắng. Bà ngoại dầu chưa bao giờ biết việc ông ngoại có hứa về vị chánh tổng nhà họ Nguyễn về việc ông ngoại âm thầm ước muốn trong nhà có một cô con gái cho nội ngoại đề huề, ấm áp gia phong. Ðồng tình, thuận ý như nhau, ông bà ngoại tôi đều nghĩ tới việc lên chùa cầu tự, xin Phật phù hộ được sinh con gái.
Hôm ấy nhằm tiết trung thu rằm tháng bảy, ông bà ngoại tôi về thăm chùa Sắc Tứ, tổ đình Quãng Trị cúng Phật và bày tỏ ý nguyện. Trong dịp ấy ông bà ngoại tôi được duyên may gặp tổ Bích Phong từ Huế ra giảng pháp, Ngài dạy ông bà ngoại tôi phát tâm mua ngói lợp lại ngôi Phật điện bị hư dột vì chiến tranh. Ông bà ngoại tôi lại được quy y với tổ và biết lễ niệm, phụng thờ Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát từ đó. Tổ Bích Phong căn dặn ông bà ngoại tôi là nên phát nguyện ăn chay, giữ giới thanh tịnh, trong sạch thân tâm thì mọi ý mong cầu đều được toại nguyện. Nhân đó tổ ban cho ông bà ngoại tôi một bài kệ văn bằng chữ Nôm như sau:
“Quán Âm Bồ Tát từ bi
Cứu người đau khổ lâm nguy ách nàn
Ăn chay giữ giới làm lành
Cầu chi được nấy toại nguyền hôm mai
Muốn cầu con gái con trai
Thành tâm lễ niệm gái trai phỉ nguyền.
Quán Âm niệm niệm tinh chuyên
Tham sân chừa bỏ lặng yên sóng cồn
Ngồi thiền đèn tuệ rạng chong
Sống vì tất cả mát dòng chân minh
Một đời chớ có sát sinh
Nguyện lòng chớ có trộm cắp dâm tà
Dối gian lường gạt tránh xa
Rượu say cờ bạc quyết từ bỏ đi.
Quán Âm cứu khổ từ bi
Thiết tha cầu khẩn thỏa lòng ước mơ.”
Bằng vào lời dạy của Tổ, ông bà ngoại tôi hết lòng phát nguyện tu tập, giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm; thỉnh tôn tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát để thờ phượng, lễ bái, xưng niệm, cầu nguyện rất chuyên cần và tha thiết. Một năm sau điều nguyện ước mong của ông bà ngoại tôi được thỏa mãn. Bà ngoại thọ thai, mẹ tôi ra đời, rồi kế đến là Dì Út ra đời. Ông cố ngoại đặt tên cho mẹ tôi là Trần Thị Vui, đặt tên cho Dì Út là Trần Thị Mừng, là niềm vui lớn tràn ngập cả nhà mong ước nguyện cầu sanh con gái được sanh con gái của ông bà ngoại tôi. Chính nhờ sự linh ứng cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm có hiệu nghiệm này mà trong đại gia đình ông ngoại và trong đại gia đình ông nội tôi, cùng bà con giòng họ xa gần, dân chúng thôn trên xóm dưới, ai ai cũng một lòng tín cẩn, phụng thờ chăm lòng lễ niệm và sống theo hạnh lành của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chuyện này được viết theo lời kể của ông Trần Hải và Trần Phước, hai người con của ông bà ngoại, cậu ruột của tôi hiện còn sống tại Long Hưng, quận Hải Làng, tỉnh Quảng Trị...
MẮT MÙ LẠI SÁNG 
Lúc53 tuổi, mắt của Dì Mão tự nhiên bị đỏ lói rồi sưng to. Sau đó không bao lâu thì hai mắt của Dì bị mù. Các thầy thuốc đông y, tây y đều tìm đến chữa trị, song không có hiệu quả. Tình trạng này kéo dài rất nhiều năm, khiến Dì rất đau khổ và khó khăn cho đời sống vô cùng. Có một lần Dì mò ra bờ ao hái rau muống, không may bị trượt chân té xuống hồ sâu ngập nước, suýt chết. May có người hàng xóm đi qua nhanh tay cứu Dì qua cơn tai nạn.
Gặp lúc bệnh khổ ụp tới, cùng đường bí lối, Dì Mão mới quay về Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu Ngài cứu khổ, cứu nạn. Cộng thêm sự huy động tinh thần và lời khuyên dạy của Hòa Thượng Phổ Phổ Thiên, Trụ trì chùa Phổ Ðà tại Ðà Nẵng. Dì Mão tăng phần tín nhiệm, tin tưởng vào thần lực của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ đó, Dì Mão bắt đầu chuyên niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và lễ bái chuyên cần sớm tối, tha thiết mong cầu được sớm lành mắt, tai qua nạn khỏi. Cứ sau mỗi lần lễ bái, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm được 108 lần, dì Mão lại đọc lời tác bạch trước tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát:
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Dì cứ lặp đi lặp lại 21 lần rồi nói: “con là người mê muội, chữ nghĩa không rành, lý đạo chẳng thông, nghiệp chướng sâu dày, mang nhiều nổi khổ. Nay hai mắt bị mù lòa, tâm thần rối loạn, sống mà cũng như chết. Lòng con không an, khổ lắm. Mong Ðức Phật Bà Quan Âm cứu giúp, chữa trị cho hai con mắt của con sáng lại. Con nguyện sau khi hai mắt của con được sáng, con xin trọn đời vào chùa làm công quả, chuyên làm việc lành, phụng sự Tam Bảo, không hề luống phí thời gian, chuốc thêm nghiệp xấu, phiền não. Xin Ðức Phật mười phương soi sáng, xin Ðức Bồ Tát Quán Âm chứng giám cho lời phát nguyện chân thật của con”.
Kỳ diệu và linh nghiệm thay, sau gần ba tháng chuyên tâm trì niệm hồng danh, lễ bái và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, đôi mắt của Dì Mão được sáng lại như xưa. Trước khi lành bệnh có chuyện xảy ra là một buổi sáng Dì Mão đang ngồi lần chuỗi, miệng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tại góc chuông chùa Vĩnh An, thuộc khuôn hội Phật Giáo tỉnh quảng Nam Ðà Nẵng thì bỗng có một người “khách lạ” nói giọng người con gái nhỏ nhẹ và tự xưng là học trò của Ðức Quán Thế Âm mang tới biếu người có lòng tin cậy, lễ niệm thuốc Phật Bà. Nói xong tự tay cô gái bỏ thuốc vào miệng cho Dì Mão và bảo là uống thuốc rồi chắc chắn sáng mai mắt sáng. Thì ra đó là giấc mơ của Dì Mão đã xảy ra đêm qua trước khi mắt dì được sáng lại. Dì nói giấc mơ rõ ràng như chuyện xảy ra ban ngày vậy.
Chuyện Dì Mão lành đôi mắt nhờ lễ niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát đã lan tràn khắp tỉnh và xóm làng. Khiến nhiều người chưa quy y, chưa biết gì về đạo Phật cũng đều phát tâm tín cẩn Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và đi thỉnh tôn tượng của Bồ Tát về thờ phượng, lễ bái.
Mắt mù khó sáng lại
Thuốc Ðông tây khó lành
Niệm Quán Âm lễ nguyện
Cảm ứng bất tư nghì.
Dì Mão là một thành viên rất thuần thành và hết sức tích cực trong việc hộ trì Tăng, Ni trẻ tu học thiếu điều kiện vật chất trong số đó có tôi. Từ khi Dì được Bồ Tát Quán Âm cứu khổ và điểm hóa, Dì Mão đã trở thành bà mẹ tình thương của rất nhiều trẻ thơ mồ côi, xấu số. Dì đã trải dài cuộc đời còn lại của mình để phụng sự Phật pháp và tình thương với nụ cười, đôi tay khoẻ trong trái tim giản dị, tươi mát, mộc mạc, hiền lành của Dì. Dì sống gần đến chin mươi mới qua đời. Nhà thơ Nguyễn Duy An đã từng thọ ơn của Dì Mão rất nhiều và có đọc tặng Dì bài thơ Bà Mẹ Tình Thương khi tiễn Dì lần cuối:
Dì không sinh con đẻ cháu
Mà con cháu đầy đàn
Tâm Dì hiền như Phật
Lòng Dì rộng thái không
Tình nào bằng tình mẹ
Tình Dì còn trội hơn
Một đời trong như ngọc
Lấy nụ cười hồn nhiên
Dùng đôi tay mềm nhẹ
Bên lời nói ngọt ngào
Với nghi biểu ngời sáng
Nuôi bé nghèo đơn côi
Dì tình mẹ cao vút
Nhớ hạnh Dì bao la
Lời không thể nói được
Kính thương Dì không nguôi.
Xin cầu Dì về bến
Cõi Cực Lạc Di Ðà
Sống an hòa tự tại
Hóa thân về thăm quê.
GIẢI NHẬP OAN KHIÊN  
Vong nhập người con gái
Thuốc khó chữa trị lành
Quán Âm thường lễ niệm
Giải oan khiên khó trừ.
Ở Ninh Hòa, cách tỉnh Nha Trang một giờ lái xe, có người con gái con một gia đình người tàu giàu có tên là A Thố. A Thố người to, tướng mạo đẹp, mạnh khỏe, phương phi như một nữ võ tướng. Tuy vậy tâm tánh của A Thố rất hiền lành, thích đến chùa làm công quả, tụng kinh, niệm Phật và may y phục cho quý thầy. Những mùa an cư, A Thố thường đến Phật học viện Hải Ðức ở Nha Trang phụ các dì nấu cơm, gánh nước cúng quý Thầy trong dịp lễ tự tứ, mãn ba tháng an cư kiết hạ. Nhờ biết tu tập, kính trọng chư Tăng, siêng năng làm việc, nói năng chất phác, vui vẽ nên từ trên Hòa Thượng Giám viện đến dưới đại chúng và các dì đều thương mến A Thố. Vì tìm được không khí an tịnh và niềm vui trong thời gian ở chùa làm công quả, nên A Thố có ý xin xuất gia làm đệ tử Ni sư Chánh Lượng ở chùa Hang, sau này gọi là chùa Hải Ấn, gần xóm Bóng, Nha Trang.
Khi biết con gái có ý định xuất gia, cha mẹ A Thố rất mừng, vì hai ông bà và cả nhà rất trọng đạo, tổ tiên nhiều đời tin Phật, quy y Tam Bảo. Nhưng ý định đi tu của A Thố không được suông sẻ, vì cha mẹ có hứa gả A Thố co một cậu con trai con một của ông bà Phú Hưng, một gia đình người Việt gốc tàu, làm tiệm thuốc bắc ở Ninh Hòa rất khá giả. Nữa lòng thì muốn xuất gia làm ni cô, nữa lòng thì muốn lấy chồng, giữ chữ tín cho cha mẹ đối với ông bà sui, cha mẹ chồng tương lai. Vì sự việc này, nguyện xuất gia của A Thố kéo dài ba năm mà chưa thành. Trong cái rủi lại gặp cái may, cậu con trai của ông bà Phú Hưng, người chồng tương lai của A Thố bị tai nạn qua đời nên việc chọn đường đi tu của A Thố trở nên dễ dàng. Chừ trong cái may lại phải gặp cái rủi. A Thố đến lúc sữa soạn vào chùa để thế phát xuất gia thì bỗng nhiên nàng bị lên cơn điên.
Bệnh điên của A Thố rất dễ sợ và khác thường. Mỗi khi A Thố lên cơn, nàng có đủ sức mạnh để lật ngược hay kéo lôi nổi một chiếc xe hơi đang chạy trên đường. A Thố rất thích và khoái chí làm việc này, nên cả nhà và ai biết tới, thấy đều kinh hoàng khiếp sợ. Vì vậy mà tay chân A Thố luôn luôn được trói bằng những sợi dây xích sắt to tướng. Thế nhưng mỗi khi A Thố lên cơn, nàng thét lên từng hồi, hai mắt đỏ ngầu như lửa, rồi nàng vùng vẫy một lúc. Cuối cùng các dây xích đều bị đứt từng khúc, tiếng kêu loảng xoảng hòa với tiếng cười vang như thách đố, ngạo nghễ vằ trêu chọc rồi nàng ném các đoạn dây xích bị đứt vào tận xa tít lên không. Cái sở thích khi A Thố lên cơn là nàng luôn giựt lấy các bóng đèn điện để ăn ngấu nghiến như nhai những ổ bánh mì nướng dòn. Những lúc đó, A Thố thường nổi cơn giận dữ, nghiến răng, dậm chân và thoát ra giọng the thé nơi cái miệng đầy máu me với âm thanh của một gã đàn ông: “Trời là kẻ đại gian ác, bất công. Trần gian là ngục tù là dày đặc bóng tối.” Câu nói này thường bị đứt quãng, vì uất nghẹn và bực tức.
Có điều lạ là A Thố đã lên cơn suốt gần ba tháng, không hề chịu ăn uống gì cả mà thân thể không hề bị sút giảm, sức mạnh của A Thố còn tăng gấp mấy chục lần đối với lúc bình thường. Các bác sĩ giỏi trong các bệnh viện đều bó tay vì họ khám nghiệm đủ cách mà không tìm ra bệnh lý của A Thố. Cùng đường, gia đình được người mách bảo, họ đã xiềng A Thố vào trong một chiếc xe bọc lưới sắt và đưa A Thố đến chùa Giác Hải ở làng Xuân Tự nhờ đại sư Viên Giác chữa trị bệnh vong nhập.
Ðại sư Viên Giác là thầy của chúng tôi, người chữa bệnh điên do tà nhập, quỷ ám rất thần diệu. Thấy A Thố bị trói xích sắt, tỏ vẻ hung hăng và giận dữ, thầy chúng tôi chỉ nhìn thẳng vào mặt A Thố rồi niệm chú lâm râm một hồi. AThố quy phục và cúi đầu xuống đất. Thầy chúng tôi bảo người nhà mở trói cho bệnh nhân. A Thố ngồi yên, không la hét, không chạy nhảy và không bạo động. Thầy chúng bèn nhẩm niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và trì ba biến chú Ðại bi vào trong chén nước trong đem cho A Thố uống. Vừa uống xong chén nước, tóc A Thố dựng ngược lên và xoay tròn như gió thổi mạnh vào một đám lau sậy. A Thố gục đầu xuống khóc rồi mở lời the thé của một vong thức đàn ông bằng tiếng Việt lơ lớ: “ta là một Anh linh ngoài vòng cương tỏa. Ai dám dùng danh nghĩa Quán Âm Bồ tát để hù ta, làm chướng ngại ước muốn của ta.”
Ðại sư Viên Giác lên tiếng: “Ta là tỳ kheo, tự Chiếu Nhiên, trú trì chùa Giác Hải. Ta nương vào thần lực của đức Hóa thân Quán Thế Âm Bồ tát để khai tâm, độ thoát cho nhà ngươi. Nhà ngươi mau mau nói rõ tên tuổi ra để ta điểm hóa cho, chớ si mê cố chấp theo ái kiến mà phải đọa lạc luân hồi, ác thú trong kiếp này và vô lượng kiếp về sau, khổ cực vô tận, khó nguôi.”
Vẫn một âm thanh the thé của đàn ông như khó thở vì bị thương tích từ cuống họng và bị dập tim gan: “Thưa sư phụ, con đây tên là T.M.H là vị hôn phu hụt của A Thố. Con chết vì tai nạn xe hơi khi đi chở hàng từ Sài Gòn ra Nha Trang, xe lật xuống chân núi vì mìn của lính Việt Cộng. Con chết quá đột ngột, không thể đi đầu thai được. Lại vì thương A Thố nên con đi theo A Thố để được sống bên nhau, đâu có ý làm hại A Thố.”
Ðại sư Viên Giác hạ giọng thương xót và giải khuyên: “Ta đây thật thông cảm nổi khổ đau của nhà ngươi. Thôi hãy chí thành quy y theo Phật và chí tâm sám hối, niệm Phật theo lời ta dạy để được sớm giải thoát, đi đầu thai làm người, xả sạch oán thù. Nhà ngươi hãy đọc theo lời ta: “lời hướng dẫn hằn chấn của đại sư Viên Giác: “Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài giúp con chuyển thế làm người. Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài lấy nước cam lồ rữa sạch cho con mọi oan khiên. “Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài độ cho A Thố chóng khôi phục sức khoẻ và chí tu học vững bền.”
Ðại sư tiếp tục dìu dắt vong linh:
“Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Phật.
Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Pháp.
Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Tăng.
Con đã quy y Phật rồi, không đọa vào địa ngục.
Con đã quy y Pháp rổi, không đọa vào ngạ quỷ.
Con đã quy y Tăng rồi, không đọa vào súc sanh.”
Khi đại sư Viên Giác, thầy của chúng tôi dẫn dắt vong linh kia lặp lại ba lần quy y Tam Bảo vừa xong, bỗng nhiên A Thố ngã lăn trên mặt đất chừng năm phút rồi tỉnh dậy như một giấc ngủ dài mê man. A Thố ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình. A Thố lành bệnh, sức khoẻ bình phục ngay lúc đó khiến cha mẹ và mọi người trong thân quyến A Thố hết sức vui mừng. Chùa Giác Hải nhiều người biết tới nhờ thầy chúng tôi niệm đức Quán Thế Âm chữa lành bệnh vong nhập cho A Thố. Gạo cơm chùa dư nuôi điệu chúng, vải vóc có đủ may mặc, vài căn nhà sinh hoạt được xây dựng khang trang, chính là nhờ sự phát tâm cúng dường tích cực của gia đình A Thố và bà con dòng họ của A Thố. Thầy chúng tôi có bài thơ tặng gia đình A Thố mà tôi đã nằm lòng sau đây:
Lễ Niệm Ðức Quán Thế Âm.
Hằng ngày lễ kính mẹ hiền
Quán Âm thường niệm vô biên linh mầu.
Gặp cơn rối rắm khổ đau
Quán Âm lễ niệm lệ sầu nhẹ vơi.
Sóng lòng dẫu có trùng khơi
Quán Âm lễ niệm đất trời chuyển rung
Muộn phiền oan nghiệp tương phùng
Quán Âm lễ niệm tâm không thoát nàn.
Mạng vong hồn phách cơ hàn
Quán Âm lễ niệm lạc bang hướng về.
Nguyện mau chứng quả bồ đề
Ta bà hóa hiện độ đời trầm luân.
NƯỚC CAM LỒ CHỮA NGƯỜI CÂM
Cam lồ trừ não nhiệt
Chữa lành người bị câm
Xuất gia cầu chí đạo
Ân nghĩa xin đền bồi.
Tỉnh Quy Nhơn, xã Phú Cát có anh Nguyên Lợi làm nghề thợ hồ. Sau khi xây mộ cho một gia đình ở Tu Bông gần Vạn Giả, tự nhiên hai hôm sau anh lên cơn sốt nói mê sảng và sau một tuần lễ chữa trị đủ thuốc mà không thuyên giảm. Thế rồi bị câm, thỉnh thoảng anh Nguyên Lợi lên cơn, cởi áo quần chạy khắp làng xóm. Có khi anh đến ngôi mộ anh xây ngồi yên lặng nhiều giờ, chốc chốc lại khóc và hú lên những tràn âm thanh dài ghê rợn, ai nghe cũng khiếp sợ, không dám lại gần. Ngày lại ngày, tay của anh mọc lông dài như lông heo rừng. Bà con anh cho đây là chuyện oan hồn,ma quái, âm linh trừng phạt anh vì có lẽ anh xây mộ cho người chết mà tâm anh bất chánh, hoặc có làm điều gì lầm lỗi với gia chủ và với vong thức người đã qua đời. Họ tin như thế, vì người nhà của anh Nguyên Lợi mỗi khi mua cau trầu, xôi, chuối đến khấn vái trước ngôi mộ anh ấy xây, cầu cho anh ta lành bệnh thì quả nhiên anh lành bệnh được ba hôm, sau đó tái phát trở lại và bệnh câm của anh kéo dài gần cả năm mà chưa chấm dứt.
Một hôm vợ anh Nguyên Lợi được người mach bảo là sư ông chùa Giác Hải, núi Ông Sư có điện Quán Âm Nam Hải, ngài chữa bệnh ma nhập, quỷ ám rất thần diệu, nên cả nhà gồm có hai người anh trai, một em gái và vợ anh Nguyên Lợi đưa anh vào chùa Giác Hải trình với sư ông tất cả tự sự. Sư ông sau khi hỏi tên tuổi người bệnh và tên tuổi người chết mà anh Nguyên Lợi đã xây mộ. Hỏi xong, sư ông hướng dẫn anh Nguyên Lợi và cả gia đình của anh lên điện Quán Âm cầu nguyện. Hồi đó, tôi còn là chú sa di nhỏ theo hầu sư ông, nhưng tôi rất để ý những chuyện sư ông cầu đức Quán Thế Âm để chữa các bệnh lạ, nhất là các bệnh có ảnh hưởng từ cõi âm, cõi của người đã qua đời.
Hôm ấy sư ông bảo tôi gõ mõ để đọc thần chú đại bi với sư ông. Tay sư ông cầm chén nước trong, bắt ấn cam lồ búng vào trong chén nước. Ðọc ba lần, rồi sư ông tiếp niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát khoảng trên một trăm lần. Kế đến sư ông đem cho anh Nguyên Lợi uống. Kỳ diệu thay, anh Lợi uống xong ly nước trong vừa được sư ông chú nguyện là anh Lợi khai khẩu được ngay, câu nói đầu tiên của anh Lợi là Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Anh tự một mình niệm ba lần như thế, sau đó sư ông ra hiệu cho mọi người cùng niệm danh hiệu bồ tát Quán Thế Âm để trợ hóa cho anh Nguyên Lợi. Trong tiếng niệm Quán Âm, tôi nghe xen lẫn tiếng khóc của người nhà anh Nguyên Lợi, vì họ quá xúc động về sự linh nghiệm và phép cứu khổ nhiệm mầu của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tôi thấy nhiều người khóc tự nhiên tôi cũng khóc. Tôi khóc vì không những xúc động khi thấy anh Nguyên Lợi bị câm cả năm bây giờ nói lại được, mà tôi khóc vì tôi thấy thầy tôi giao cảm được với Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát nên tôi rất bội phục, rất kính nể người. Tôi tự hỏi, tại sao Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát rất linh hiển, thầy tôi cầu nguyện cho ai cũng đều có linh nghiệm, mà tôi đứng ra cầu cho người có tai nạn thì không thấy có kết quả? Tôi nhớ ít nhất là có hai người bị bệnh bởi vong thức người chết nhập vào, gia đình dẫn người bệnh đến chùa Giác Hải nhờ cứu chữa. Vì sư ông đi vắng, tôi rất mừng là có cơ hội để thay thế sư ông cứu người cùng thử nghiệm “tài đức” cầu nguyện của mình, nhưng cả hai lần đều thất vọng nên tôi cảm thấy bị “mất mặt bầu cua” và phải đợi sư ông về mới trị được bệnh tình cho hai người kia.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.26/4/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

No comments:

Post a Comment