Hòa Thượng Thích Tinh Vân
Tôi rất hoan hỷ khi giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác, bộ thánh điển ứng dụng nhập thế của Phật giáo, trước các vị thính chúng.
Trước khi giảng vào nội dung, tôi xin thuật khái quát về bộ kinh này.
Tôi dự định sẽ giảng bộ kinh này trong mười buổi. Kinh tên là Bát Đại Nhân Giác, nội dung nói về tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Mỗi một điều tôi sẽ giảng trong một bài, nên phần chính tông sẽ có tám bài giảng. Còn tựa đề Kinh, dịch giả, phần tự tôi sẽ giảng một bài trong phần khái thuật. Phần lưu thông ở cuối Kinh văn là phần tổng kết, cũng giảng một bài. Như vậy, có tất cả là mười bài giảng. Vì thế giảng thuyết Kinh này, tôi gọi là Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác (Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh Thập Giảng).
hân duyên Phật nói kinh này
Phàm bất cứ một việc gì cũng có nhân duyên của nó. Đức Phật vì sao lại giảng Kinh này? Tất nhiên cũng có nhân duyên. Đó là lúc ngài ở tỉnh xá Kỳ Viên, một hôm trong Pháp hội, tôn giả An Na Luật thiên nhãn đệ nhất thưa với Phật rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, trong Tăng đoàn với tinh thần lục hòa, thì việc quên mình, xả bỏ tự ngã là điều chúng con có thể làm được; đối với chúng sinh phải tuyệt đối từ bi, tuyệt đối nhân ái, đây cũng là điều mà chúng con đã biết... Nhưng bạch đức Thế Tôn! Những Phật tử tại gia học đạo rất nhiều, đệ tử xuất gia tiếp cận xã hội hoằng Pháp lợi sinh cũng rất đông. Những vị như vậy làm thế nào để cầu được giác ngộ, tiến nhập Niết bàn? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi khai thị!
Đức Phật mỉm cười một cách an lành, hoan hỷ trả lời:
- Này A Na Luật, lời nói của ông rất đúng. Điều ông hỏi là vấn đề học hạnh Đại nhân (Bồ tát). Tôi sẽ vì ông mà nói tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, mà ai là đệ tử Phật đều nên ngày đêm chí tâm tụng niệm...
Đây chính là nhân duyên đức Phật giảng nói Kinh này.
Bố cục Kinh văn
Mở đầu tất cả Kinh Phật đều có câu: Ta nghe như vầy, một thuở Phật ở nơi đâu, cùng với ai, v.v... Đây gọi là sáu việc thành tựu. Vậy tại sao Kinh này lại không có? Đây là do Kinh này không phải đức Phật nói ra trong một Pháp hội, mà là trích đoạn những lời Phật dạy trong các Kinh khác, rồi biên tập lại, nên phần tự của Kinh không có những câu Ta nghe như vầy (như thị ngã văn), v.v... vì phần lưu thông ở sau cũng không có câu: Tin nhận vâng làm (tín thọ phụng hành.)
Sáu việc thành tựu: là chỉ đoạn văn ta nghe như vầy... thường có ở phần đầu của Kinh Phật. Đoạn văn này gồm có sáu việc (điều kiện) khiến cho nội dung Kinh này được thành tựu. Sáu việc đó là: 1. văn thành tựu. 2. tín thành tựu. 3. thời thành tựu. 4. chủ thành tựu. 5. xứ thành tựu. 6. chúng thành tựu. Ví dụ phần thông tự của Kinh A Di Đà nói: Ta nghe như vầy, một thuở đức Phật ở nước Xá Vệ, nơi vườn Kỳ Thọ và Cấp Cô Độc, cùng chúng Tỳ kheo một ngàn hai trăm và năm mươi vị. Ta nghe là văn thành tựu. Đây là chỉ ngài A Nan đích thân nghe Phật nói Pháp. Như vậy gọi là tín thành tựu. Như vầy là chỉ nội dung giáo Pháp mà đức Phật nói được ngài A Nan xác tín với đại chúng là mình nghe đúng như vâyh, không sai không khác. Một thuở là thời thành tựu, tức nói Pháp hội thuyết Kinh này vào thời gian nào, tuy không nói rõ, nhưng cho chúng ta biết đó là lúc thời tiết nhân duyên đầy đủ, chúng sinh mới có duyên nghe được Pháp này. Đức Phật là chủ là thành tựu. Phật là chủ thuyết pháp, nếu không có Phật nói thì Kinh này đương nhiên không có. Ở nước Xá Vệ v.v... là xứ thành tựu, tức ở địa điểm nào, cụ thể rõ ràng. Cùng chúng Tỳ kheo v.v... là chúng thành tựu, tức hội chúng nghe Kinh lúc đó gồm những ai.
Tóm lại, sáu việc thành tựu nếu dùng ngôn ngữ hiện đại nói, đó là sáu điều kiện để thành tựu một bộ Kinh. Đó là điều kiện thời gian, không gian, chủ thể, đối tượng, người chứng kiến thuật lại và nội dung chân thật của Kinh.
Bố cục của Kinh tuy không giống với các Kinh khác, song vẫn có đầu đuôi, điều mục rõ ràng, người học rất dễ dàng nắm được bản ý của Kinh văn.
Nội dung và giá trị
Trong Phật giáo, phần đông các vị Cao tăng Đại đức đều thừa nhận Kinh này rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia thọ trì. Chúng ta thường nghe người ta đề xướng khẩu hiệu: Phật giáo nhân ính, Phật giáo tại gia. Nhưng rốt cuộc làm thế nào để kiến lập Phật giáo nhân sinh? Như thế nào mới là Phật giáo tại gia? Điều này nhất định phải y cứ vào Thánh ngôn lượng để quyết đoán. Theo tôi nghĩ, Kinh này là một quyển bảo điển trân quí nhất, để chúng ta xây dựng Phật giáo nhân sinh, và tu học theo Phật giáo tại gia.
Phật giáo tuy có xuất gia, tại gia, song tín đồ tại gia lại chiếm đa số; Phật giáo dù phân nhập thế và xuất thế, nhưng nhập thế vẫn là tinh thần chủ yếu; Phật giáo lại có cuộc sống trong hiện tại và thọ sinh ở đời sau, nhưng trọng điểm vẫn là cuộc sống trong hiện tại.
Kinh Pháp Bảo Đàn nói:
Phật Pháp vốn tại thế gian
Trong đời giác ngộ, chớ màng đâu xa
Bồ đề, cuộc sống quanh ta
Bôn ba cầu ngộ, chỉ là uổng công.
Đại sư Thái Hư cũng nói: "Chỉ mong cầu quả Phật, song thành tựu hay không là ở nơi nhân cách; nhân cách thành tựu thì quả Phật thành tựu, đây chính là thực tế chân thật." Như vậy đủ thấy, Phật giáo nhân sinh và Phật giáo tại gia có địa vị quan trọng như thế nào!
Do đó, Kinh Bát Đại Nhân Giác, quyển sách quí ứng dụng trong cuộc đời này, lời văn tuy ngắn gọn chỉ vài trăm chữ mà giá trị lại vô cùng trọng yếu! Tám điều giác ngộ như la bàn của nhà đi biển, chỉ ra con đường phía trước cho nhân sinh! Tám điều giác ngộ như tiếng chuông vang vọng giữa đêm trường, đánh thức những ai đang còn mơ màng trong giấc mộng! Cho nên, đây là Thánh điển chỉ cho chúng sinh nhận rõ đường mêm, quay về nẻo giác, giúp người Phật tử tại gia cải thiện, thăng hoa cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn!
Giải thích đề kinh
Phiên âm:
Phật thuyết Đại Nhân Giác Kinh
Dịch nghĩa:
Phật thuyết Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân.
Giảng giải:
Đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni vốn là vương tử nước Ca Tỳ La vệ ở Ấn Độ. Vì muốn liễu sinh thoát tử, độ chúng sinh, nên vào năm mười chín tuổi ngài quyết tâm lìa bỏ ngôi vua, xuất gia học đạo. Năm ba mươi mốt tuổi ngài thành tự vô thượng chánh đẳng chánh giác dưới cội bồ đề. Sau bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sinh, ngài nhập niết bàn ở nước Câu Thi La, giữa hai cội cây Sala, khi vừa đúng tăm mươi tuổi. Tất cả tựa đề Kinh Phật đều có hai chữ Phật thuyết, có nghĩa tất cả Kinh điển đều do đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni nói ra. Kinh này đương nhiên cũng không ngoại lệ.
Khi giảng đề Kinh này, chúng ta trước phải hiểu ý nghĩa hai chữ Đại nhân. Vì Đại nhân ở đây không đồng nghĩa với từ đại nhân trong khái niệm đại nhân và tiểu nhân. Song nó cũng không phải chỉ người làm quan lớn, hay nhà kinh doanh buôn bán lớn, vì Kinh này không phải chỉ cách cho người ta thăng quan hay phát tài! Thực ra, Đại nhân ở đây là chỉ Bồ tát, người lo việc liễu sinh thoát tử và rộng độ chúng sinh!
Bồ tát là từ nói lược của Bồ đề tát đỏa (Bodhisattva), dịch ý là giác hữu tình, tức là người lo việc giác ngộ cho mình và người; hay Đại đạo tâm chúng sinh, tức chúng sinh phát đạo tâm lớn, trên càu thành Phật dưới độ chúng sinh.
Chúng tôi vừa nói đến Bồ tát, có người liền nghĩ đến Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Địa Tạng, v.v... Vâng, các vị đó đều là Bồ tát. Nhưng Bồ tát đại nhân ở đây chủ yếu là chỉ những người bước vào cửa Phật, phát tâm học đạo. Các vị nghe xong chắc muốn hỏi: Người sao lại có thể gọi là Bồ tát? Thực ra, Bồ tát không phải là tranh ảnh, cũng không phải là những pho tượng làm bằng đồng, xi măng, thạch cao... được bày ở điện Tam Bảo cho người ta cúng dường lễ bái! Bồ tát là tượng trưng cho những đức tính sống động trong nhân sinh. Ai có nhiệt tình vô hạn, bi nguyện vô lượng, có thể làm lợi ích cho mình, cho người, mới là Bồ tát sống chân chính! Thế gian chỉ cần thâm một vị phát tâm Bồ đề: Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, thì sẽ có thêm một vị Bồ tát!
Bồ tát vốn chia ra rất nhiều quả vị cao thấp khác nhau: Thập tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu giác, v.v... tất cả có năm mươi hai bậc. Các vị Bồ tát Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền đương nhiên đều là những vị Bồ tát từ quả vị thập địa trở lên. Nhưng nếu các vị là những người phát tâm gánh vác sự nghiệp lớn giải thoát sinh tử, hóa độ chúng sinh, thì cũng có thể gọi là Bồ tát. Song đây chẳng qua chỉ là Bồ tát mới phát tâm, hay Bồ tát mới khởi lòng tin. Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân, (Bát Đại Nhân Giác Kinh).
Nói đến sự giác ngộ của Bồ tát, là muốn đề cập vấn đề tâm yếu trong Phật giáo. Phật giáo là tôn giáo cốt đem lại sự giác ngộ cho chúng sinh. Đức Phật vì một nhân duyên lớn mà thị hiện ra đời, đó là khiến chúng sinh thể nhập tri kiến Phật; chỉ dẫn chúng sinh bước đi trên con đường giác ngộ. Ngược lại với giác là mê. Chúng sinh lang thang trong sinh tử, trôi lặn nơi sáu đường, quên mất bản lai diện mục của mình, nên gọi là mê. Nay biết luân hồi là khổ, sinh tử đáng sợ, nhận ra rằng phải dựa theo tám pháp môn mà Kinh này chỉ dạy để tu hành, hầu mong giác ngộ, giải thoát, gọi là giác.
Tập hợp tám ý nghĩa giúp chúng sinh giác ngộ lại, gọi là Kinh. Kinh có nghĩa là con đường thẳng. Noi theo con đường thẳng mà Phật chỉ dạy để đi, sẽ đạt đến mục đích liễu sinh thoát tử, tự tại an lạc. Phàm đạo lý mà có thể gọi là Kinh, thì trên phải kế hợp với chân lý muôn đời không thay đổi, dưới phải khế hợp với căn cơ chúng sinh muôn ngàn sai khác. Kinh này do đức Phật nói, là chỗ tu học của chúng sinh phát tâm Bồ đề, cho nên gọi là Phật Thuyết Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân. (Phật thuyết bát đại nhân giác kinh).
Khảo chứng về người dịch
Phiên âm: Hậu Hán, An Tức quốc, Sa môn An Thế Cao dịch.
Dịch nghĩa: Sa môn An Thế Cao, nước An Tức, đời Hậu Hán dịch.
Giảng giải: Tất cả Kinh điển Phật nói vốn được ghi chép bằng Phạn văn Ấn Độ, nên phải cần có dịch giả dịch sang chữ Hán. Người dịch Kinh này là Sa môn Pháp sư An Thế Cao đời Hậu Hán (25-220). Hậu Hán là tên triều đại, chính là nhà Hậu Hán Quang Vũ Trung Hưng của Trung Quốc. Nước An Tức là nước Ba Tư hiện nay. Sa môn là chỉ chung cho người học đạo. Người Hoa dịch nghĩa là cần tức, ý nói: Siêng tu giới định tuệ, dứt trừ tham sân si. Hậu Hán là chỉ thời đại An Thế Cao ra đời. Nước An Tức là chỉ quê quán, còn Sa môn là chỉ thân phận của ngài. An Thế Cao chính là dịch giả của Kinh này.
Pháp sư An Thế Cao còn gọi là An Thanh, vốn là vương tử nước An Tức. Vốn là người xem phú quí vinh hoa chỉ là vô thường, giả tạm, lại thêm chán cuộc sống vua chúa suốt ngày phải phiền phức bởi chuyện triều chính, không được tự tại, nê sau khi lên ngôi không bao lâu, ngài liền nhường ngôi lại cho chú, còn mình ra đi xuất gia, chỉ với bình bát, cà sa. Pháp sư bẩm sinh có thiên tài về ngôn ngữ, thông hiểu hơn ba mươi thứ tiếng, nhất là tinh thông Hán văn, xem khắp các Kinh, lại còn nghe hiểu được tiếng chim thú. Đời ngài sự tích thần dị rất nhiều, thế gian không sao lường hết chỗ cao thâm. Vào thời Hán Hoàn Đế (132-167), ngài từ nước An Tức đến Lạc Dương, phiên dịch Kinh điển tất cả hơn một trăm bộ, ngày nay còn truyền lại khoảng hơn ba mươi bộ. Kinh luận do Pháp sư phiên dịch nghĩa lý rõ ràng, văn từ xác đáng; từ ngữ không hoa mỹ mà văn chất lại chẳng quê mùa chút nào. Trong lịch sử phiên dịch Kinh luận thời kỳ đầu ở Trung Quốc, Pháp sư An Thế Cao được tán thán là vị đứng đầu. Qua đó có thể thấy, địa vị của ngài trong giới dịch thuật như thế nào.
Giảng về phần tựa
Phiên âm:
Vi Phật đệ tử, thường ư trú dạ, chí tâm tụng niệm, bát Đại nhân giác.
Dịch nghĩa:
Là người đệ tử Phật, ngày đêm nên chí tâm, thường tụng niệm tám điều giác ngộ của Đại nhân.
Giảng giải:
Pháp sư Đạo An đời Đông Tấn đã chia một bộ Kinh làm ba phần: Phần tự, phần chính tông và phần lưu thông. Lấy thân thể con người để tỉ dụ, phần tự như đầu, phần chính tông như thân và phần lưu thông như chân. Pháp sư Đạo An phân phán như thế, mọi người đều khen là: "Phân phán cao minh trùm thiên hạ, học giả xưa nay thảy tuân hành." Như vậy đủ thấy, tính chính xác, cao minh trong sự phân định của ngài như thế nào.
Kinh này tuy không phải đức Phật nói trong một Pháp hội, nhưng cũng có phần tự, phần chính tông, phần lưu thông một cách hoàn chỉnh như những Kinh điển khác. Đoạn Kinh ở trên, có thể được xem là phần tự, duyên khởi mở đầu cho bản Kinh này.
Là người đệ tử Phật sớm tối nên có công khóa tu trì nhất định. Trong các tự viện, phần lớn lấy Chú Lăng Nghiêm, Kinh Di Đà làm công khóa tu tập sớm tối. Thực ra, theo phần tự của bản Kinh này, muốn thực hành Phật giáo trong cuộc sống, muốn cải thiện khí chất thân tâm của con người, phải lấy Kinh Bát Đại Nhân Giác làm thời khóa tụng niệm sớm tối! Điều này thật vô cùng xác đáng.
Người Phật tử tại gia đương nhiên nên sớm tối thọ trì quyển Kinh này, song hàng đệ tử xuất gia còn cần phải thọ trì hơn nữa.
Đệ tử Phật không có phân biệt gái trai già trẻ, giàu nghèo sang hèn, xuất gia, tại gia, chỉ cần phát tâm tin Phật, quy y Tam Bảo, thực hành theo lời Phật dạy, đều gọi là đệ tử Phật.
Đệ tử Phật phải đem tâm chí thành chí thiết, không giả dối, tạp loạn, bốn mùa xuân hạ thu đông chẳng kể là sớm hay tối, đều phải luôn luôn ghi nhớ, miên mật quán niệm tám điều mà Bồ tát nên giác ngộ này. Hoặc lớn tiếng tụng đọc, hoặc niệm thàm trong tâm, đều là cách tu trì tốt nhất.
Đệ tử Phật có bảy chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Kinh này đặc biệt thích hợp co hàng Ưu bà tắc, Ưu bà di thọ trì hơn cả.
Chúng tôi nay đem tám điều giác ngộ trong Kinh Bát Đại Nhân Giác trình bày ở biểu đồ sau. Sau này chúng tôi sẽ dựa vào biểu đồ để giảng giải, mong rằng mọi người cùng chí tâm thọ trì.
Dịch thơ:
Kinh Tám Điều Giác Ngộ
Người con Phật phát tâm học đạo
Luôn ngày đêm y giáo phụng hành
Đại nhân giác ngộ đành rành
Tám điều ghi nhớ, chí thành niệm tu.
Biểu đồ I: Tóm tắt nội dung tám điều giác ngộ Kinh Bát Đại Nhân Giác
Tám Điều Giác Ngộ:
- Thế Gian Quan - Điều I:
- Khí thế gian: Cõi nước mong manh
- Hữu tình thế gian: Thế gian vô thường
- Ngũ uẩn thế gian: Tứ đại khổ không
- Nhân Sinh Quan:
- Đa dục là căn bản của luân hồi sinh tử - Điều II
- Tri túc là căn bản để vui nghèo giữ đạo - Điều III
- Tinh tấn là căn bản để hàng phục mang chướng - Điều IV
- Trí tuệ là căn bản để chuyển hóa ngu mê - Điều V
- Bố thí là căn bản để cứu độ chúng sinh - Điều VI
- Trì giới là căn bản để tiết chế dục vọng - Điều VII
- Kết Luận: Tâm Đại thừa là căn bản phổ độ chúng sinh - Điều VIII
Bài giảng thứ
II
Thế gian quan của Phật giáo
Phiên âm: Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biến dị, hư nguỵ vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tậu; như thị quán sát, tiệm ly sinh tử.
Phiên âm: Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biến dị, hư nguỵ vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tậu; như thị quán sát, tiệm ly sinh tử.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vố vô thường, cõi nước mong manh, bốn đại lại khổ không, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối không có chủ, tâm là nguồn việc ác, thân là rừng nghiệp tội; nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử.
Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vố vô thường, cõi nước mong manh, bốn đại lại khổ không, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối không có chủ, tâm là nguồn việc ác, thân là rừng nghiệp tội; nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử.
Giảng giải:
Đây là điều giác ngộ thứ nhất mà người tu học Bồ tát đạo, lo việc liễu sinh thoát tử cần phải có.
Đoạn kinh văn này có thể nói đã chỉ tổng quát thế gian quan của Phật giáo. Kinh văn nói: Thế gian vô thường, cõi nước mong manh là vô thường quán; bốn đại khổ không là khổ không quán; ngũ ấm vô ngã là vô ngã quán; tâm là nguồn ác, thân là rừng tôi là bất tịnh quán.
Đây là điều giác ngộ thứ nhất mà người tu học Bồ tát đạo, lo việc liễu sinh thoát tử cần phải có.
Đoạn kinh văn này có thể nói đã chỉ tổng quát thế gian quan của Phật giáo. Kinh văn nói: Thế gian vô thường, cõi nước mong manh là vô thường quán; bốn đại khổ không là khổ không quán; ngũ ấm vô ngã là vô ngã quán; tâm là nguồn ác, thân là rừng tôi là bất tịnh quán.
Trước hết tôi xin
giảng về thế gian vô thường quán. Thế gian là chỉ thời gian và không gian. Thế
là thời gian ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai; gian là không gian mười phương:
Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên, phương
dưới.
Thế gian cũng đồng
nghĩa với vũ trụ. Thời gian từ xưa đến nay gọi là vũ; không gian bốn phương
trên dưới gọi là trụ. Chúng ta sống trong không gian vô cùng và thời gian vô
tận tất phải có nhận thức về thế gian. Trong Phật giáo, thế gian không phải chỉ
là hiên tượng trong thế giới tự nhiên, mà tất cả vũ trụ và nhân sinh đều gọi
chung là thế gian. Vũ trụ quốc độ mà chúng sinh nương tựa gọi là khí thế gian;
sắc thân của chúng sinh do vô minh và nghiệp báo tạo thành phải chịu sinh tử là
hữu tình thế gian.
Anh thấy chăng?
Hoàng hà nước tự trời cao
Xuôi ra biển cả chẳng bao giờ về.
Anh thấy chăng?
Cha soi kính tóc bạc phơ
Sớm tơ tối tuyết, ngẫn ngơ chợt buồn!
(Tương Tiến Tửu - Lý Bạch)
Hoàng hà nước tự trời cao
Xuôi ra biển cả chẳng bao giờ về.
Anh thấy chăng?
Cha soi kính tóc bạc phơ
Sớm tơ tối tuyết, ngẫn ngơ chợt buồn!
(Tương Tiến Tửu - Lý Bạch)
Vì chúng ta không biết
thế gian vô thường, nên đã sinh ra nhận thức sai lầm, cho rằng mọi sự vật là
thật có, rồi khởi tâm tham luyến, chấp trước. Song cuối cùng nhìn lại, có mấy
ai thắng vượt được vô thường?
Kinh Kim Cương nói:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương sớm, điện chớp
Nên quán chiếu như vậy.
Đại Trí Độ Luận cũng nói:
Thế gian biết mấy vô thường!
Bóng trăng, thân chuối, giả nương hợp thành.
Phước dù đến tận trời xanh
Gió vô thường đến, hóa thành hư vô!
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương sớm, điện chớp
Nên quán chiếu như vậy.
Đại Trí Độ Luận cũng nói:
Thế gian biết mấy vô thường!
Bóng trăng, thân chuối, giả nương hợp thành.
Phước dù đến tận trời xanh
Gió vô thường đến, hóa thành hư vô!
Phú quí vinh hoa trong
đời khác chi giấc mộng giữa đêm. Ngay như tấm thân mà ta mỗi ngày tắm rửa, quí
tiếc, rốt cuộc sống được bao năm? Hoàn cảnh, thân thể, tâm lý đều đang hoạt
động, đang thay đổi từng phút từng giây, không ngừng lưu chuyển. Ruộng dây ngày
xưa nay đã trở thành biển cả; biển cả bây giờ rồi sẽ hóa ra ruộng dâu ở tương
lai! Cho nên tục ngữ bảo: Bãi bể nương dâu là vậy. Như thế, trong thế gian này
có cái gì là trường cửu? Có cái gì là chân thật đâu? Nếu bảo thế gian có cái
gì chân thật, thì đó chính là vô thường! Tất cả đều vô thường, huyễn hóa, như
áng mây trôi giữa trời cao, như bọt nước trên đầu ngọn sóng, như bóng hoa ảnh
hiện trong gương, như ánh trăng long lanh trên nước!
Thế gian đã vô thường,
thì cõi nước mong manh (nguy thúy) là điều tất nhiên không cần nói nữa. Cõi
nước không an gọi là nguy, chẳng thật gọi là thúy. Không nói chi xa, chỉ xem
động đất ở Đài Loan và Nhật Bản cũng đủ thấy. Mỗi lần động đất có biết bao tài
sản bị tổn thất, sinh mạng bị tử vong! Cõi nước như vậy, chẳng phải mong manh
là gì?
Ở trên đã giảng rõ thế
gian vô thường quán rồi, giờ lại giải thích tiếp tứ đại khổ không quán. Chúng
ta thường nghe người không thông hiểu Phật Pháp cũng biết nói câu tứ đại giai
không. Chẳng qua tứ đại giai không ở đây nói, không phải như người ta thường
hiểu lầm, cho rằng tứ đại là tửu, sắc, tài, khí và tứ đại giai không là không
tham luyến tửu, sắc, tài, khí. Thực ra, tứ đại khổ không mà đức Phật nói ở đây,
là thuyết minh về bản chất của hiện tượng nhân sinh và thế giới.
Nói tứ đại là chỉ bốn
nguyên tố tổng hợp thành vật thể. Nhỏ từ cánh hoa cọng cỏ, lớn đến thế giới,
nhân sinh, không một thứ nào là không do bốn nguyên tố này kết hợp tạo thành.
Bốn nguyên tố là đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong). Đất là chất mang
tính rắn chắc, nước là chất mang tính ẩm ướt, lửa là chất mang tính ấm nóng, gió
là chất mang tính lưu động. Tất cả hiện tượng trong vũ trụ không có thứ nào là
không do bốn chất này hợp thành. Ví dụ lấy con người nói, lông, tóc, móng,
răng, thịt, da, gân, xương... mang tính rắn chắc là địa đại; đàm, dãi, nước
tiểu... mang tính ẩm ướt là thủy đại; nhiệt độ trong người mang tính ấm nóng là
hỏa đại; hơi thở ra vào mang tính lưu động là phong đại.
Người ta sống là do
bốn đại hòa hợp. Nếu bốn đại không điều hòa sẽ sinh ra bệnh, bốn đại phân tán
sẽ đưa đến tử vong. Người đã như vậy, hoa cỏ cũng như vậy. Như một cây hoa cần
phải có đất để lấy chất dinh dưỡng (địa đại), cần có nước tưới thích nghi (thủy
đại), cần có ánh nắng của mặt trời sưởi ấm (hỏa đại), cần có không khí lưu động
(phong đại) mới mọc lên tươi tốt và đơm hoa kết nụ. Thiếu một trong bốn điều
kiện này, hoa không thể nào sống được.
Thân tứ đại hòa hợp
của con người sao lại nói là khổ không? Nhà triết học Lão Đam (Lão tử) nói: "Ta
sở dĩ có tai hoạn lớn là do ta có thân; nếu ta không có thân, làm gì có tai
hoạn!" Thân thể chúng ta chỉ là chỗ tích tụ của các khổ. Trong tâm thì có các
khổ phiền não: tham, sân si; trên thân thì có các khổ: già, bệnh, chết; ở gia
đình thì khổ vì lo ăn lo mặc, ân ái xa lìa; ngoài xã hội lại khổ do đấu tranh
phải trái, oán thù gặp gỡ; còn hoàn cảnh lại khổ vì bão lụt, động đất, chiến
tranh. Khổ cứ luôn đeo đẳng, khống chế chúng ta. Thật đúng là chúng sinh đang
sống trong biển khổ!
Có một số người mới
học Phật Pháp, nghe nói đến chữ khổ, liền cho học Phật chính là học chịu đựng
đau khổ, không chịu đựng được khổ, thì không thể nào học Phật! Thực ra, đây là
cách nói hoàn toàn sai lầm. Phật giáo là một tôn giáo an lạc hạnh phúc. Chúng
ta vì muốn lìa khổ được vui, nên mới tu học Phật Pháp. Người tu học Phật Pháp
trước hết phải nhận thức đúng đắn về khổ. Ý thức được khổ mới biết tìm cầu an
lạc. Nếu như sống trong khổ mà không cho là khổ, hoặc sống trong khổ mà lại cho
là vui, thì người như thế làm sao chịu học Phật Pháp?
Biết khổ chính là
cánh cửa bước vào đạo.
Thuở xưa, có đôi vợ
chồng sống trong một ngôi làng xa xôi hẻo lánh. Hai người cực khổ làm ăn, dành
dụm tài sản rất nhiều, nhưng tuy lớn tuổi mà vẫn hiếm muộn. Họ đi cầu cúng mọi
nơi, xin Phật trời ban cho đứa con, mà mãi vẫn không được như nguyện. Hai vợ
chồng già tha thiết muốn biết rõ nguyên nhân vì sao mình hiếm muộn, nhưng không
biết hỏi ai, vì trong làng không có người đạo hạnh. Ngày kia, có một vị mới
xuất gia đi du phương ghé ngang. Hai vợ chồng vừa trông thấy liền mừng rỡ, mời
vị ấy về nhà để cúng dường. Thọ trai xong, hai người mới thỉnh vị xuất gia
thuyết Pháp, khai thị về nguyên nhân không có con. Vị này vì mới xuất gia, chưa
biết thuyết Pháp, nên rất bối rối không biết nói như thế nào mới phải. Vợ chồng
ấy thành tâm thành ý quỳ trước ghế, phủ phục sát đất không ngước đầu lên. Vị
xuất gia thấy vậy trong ruột nóng như thiêu, nghĩ rằng mình là người xuất gia
không lẽ lại bảo là không hiểu Phật Pháp, không biết thuyết Pháp hay sao? Lúc
ấy vị đó mới cảm thấy làm người xuất gia quả thật rất khó, bất giác buột miệng
thốt lên: Quả thật là khó!
Hai vợ chồng quỳ dưới
đất nghe câu ấy, thấy nói trúng tâm trạng của mình. Họ cảm thấy câu khai thị
này thật là danh ngôn chí lý, cả hai người cầu xin chút con mà làm cách nào cũng
không cầu được, quả thật là khó! Hai người vô cùng cảm động vội đập đầu lễ bái
không ngừng!
Ngồi ở trên thấy đôi
vợ chồng đó chí thành như thế, vị này càng thêm bối rối, tiến thoái lưỡng nan,
thấp thỏm như ngồi trên bàn chông, mồ hôi ướt đẫm cả người, buột miệng than
rằng: Quả thật là khổ!
Câu này vừa thốt ra,
cả hai vợ chồng như nghe được tiếng chuông thức tỉnh, thấy rõ chân lý. Mình cao
tuổi như thế này mà ngay một đứa con cũng không có, quả thật là khổ! Cuộc đời
quả thật là khổ! Hai vợ chồng xúc động sâu xa, vừa quỳ vừa khóc, nước mắt đầm
đìa. Vị mới xuất gia thấy vậy không biết tính sao, ba mươi sáu kế, rút lui là
thượng sách!
Hai vợ chồng khóc lóc
hồi lâu, lại lắng nghe chờ khai thị tiếp nhưng không thấy nói gì, vội ngước lên
nhìn thì vị xuất gia ấy đã đi mất tự bao giờ! Hai người cho rằng đây chính là
Phật Bồ tát thị hiện, chỉ cho họ biết cuộc đời là đau khổ. Từ đó họ trở nên
người Phật tử thuần thành, tin sâu Phật Pháp, tinh tấn tu học, cuối cùng được
giải thoát khỏi não phiền.
Cho nên, ý thức được
khổ mới biết cầu giải thoát; khổ cũng chính là tăng thượng duyên cho người học
đạo.
Sao lại nói: Bốn đại khổ không? Trong thế gian, từ thân thể con người cho đến mọi vật đều do tứ đại hợp thành. Vì nó do nhân duyên hòa hợp, nên giả tạm, như huyễn, không chân thật. Trong cái hư giả ấy, con người lại phải chịu hành hạ bởi tám thứ khổ: Sinh, già, bệnh, chết, ân ái chia lìa, oán thù gặp gỡ, ước muốn không thành, thân tâm đều khổ. Cho nên nói: Bốn đại khổ không là vậy.
Sao lại nói: Bốn đại khổ không? Trong thế gian, từ thân thể con người cho đến mọi vật đều do tứ đại hợp thành. Vì nó do nhân duyên hòa hợp, nên giả tạm, như huyễn, không chân thật. Trong cái hư giả ấy, con người lại phải chịu hành hạ bởi tám thứ khổ: Sinh, già, bệnh, chết, ân ái chia lìa, oán thù gặp gỡ, ước muốn không thành, thân tâm đều khổ. Cho nên nói: Bốn đại khổ không là vậy.
Câu Năm ấm vô ngã là
vô ngã quán trong Phật giáo. Năm ấm là gì? Năm ấm chính là đại danh từ của cái
ta (ngã). Năm ấm gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ta là một hợp thể giữa
vật chất và tinh thần. Trong Phật Pháp, vật chất là sắc; tinh thần là thọ,
tưởng, hành, thức.
Sắc có nghĩa
biến ngại. Đây là nói tất cả vật thể hữu hình đều biến đổi vô thường và có sự
chướng ngại. Giữa vạn vật, cái này với cái kia nếu tính chất hợp nhau thì có
chiều hướng kết hợp lại; còn như tính chất trái nghịch nhau sẽ có chiều hướng
tan rã. Kết hợp là tạo thành, tan rã là hoại diệt.
Thọ có nghĩa
lãnh nạp. Cảm giác khổ đau là khổ thọ, cảm giác vui sướng là lạc thọ; khi không
đau khổ, không vui sướng gọi là bất khổ bất lạc thọ.
Tưởng có nghĩa
nắm bắt hình tượng. Phan duyên ngoại cảnh, nhớ việc đã qua, mơ tưởng tương lai
đều gọi là tưởng.
Hành có nghĩa
tạo tác. Do nắm bắt hình tướng mà có hành động tạo tác, có khi làm thiện, có
khi làm ác. Đây là sức mạnh của hành.
Thức có nghĩa
phân biệt rõ ràng. Như mắt có thể phân biệt rõ các màu xanh, vàng, trắng, đen;
tai có thể phân biệt rõ âm thanh hay dở; mũi có thể phân biệt rõ các mùi thơm
hôi; lưỡi có thể phân biệt rõ các vị chua, ngọt, cay, đắng; thân có thể phân
biệt rõ cảm giác nóng, lạnh, cứng, mềm.
Sắc thân do nghiệp báo
hình thành của chúng ta sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh, chính là cái ngã ngũ
ấm này. Ấm có nghĩa là che ngăn. Ý nói năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức ngăn
che Phật tánh chân như là bản lai diện mục của chúng ta. Chúng sinh sở dĩ
trầm luân trong biển khổ, là do mê lầm chấp trước, cho rằng cái ngã ngũ ấm này
là thật có.
Năm ấm vô ngã chính
cùng một ý với Tâm Kinh Bát Nhã nói: "Bồ tát Quán Tự Tại khi thực hành Bát Nhã
Ba La Mật thâm sâu, sáng soi thấy năm uẩn, đều cùng một tánh không, vượt qua
vòng khổ ách." Năm uẩn cũng chính là năm ấm. Quán chiếu thấy được năm uẩn đều
không, là thể nhận được năm ấm vô ngã.
Hiện nay thân ngũ ấm hòa hợp của chúng ta rõ ràng là chân thật. Thân này hành động tự do, muốn làm gì thì làm, cảm thọ khổ vui cũng hết sức cụ thể, vậy tại sao lại nói là năm ấm vố ngã?
Hiện nay thân ngũ ấm hòa hợp của chúng ta rõ ràng là chân thật. Thân này hành động tự do, muốn làm gì thì làm, cảm thọ khổ vui cũng hết sức cụ thể, vậy tại sao lại nói là năm ấm vố ngã?
Thì ra, cái ngã năm ấm
xét kỹ lại chẳng qua là do nhân duyên tạm thời hòa hợp, không thể thường tồn,
không có tự thể, cho nên nói vô ngã.
Vừa nghe nói đến không
có cái ta (vô ngã), người ta nói chung đều giật mình lo sợ! Hai chữ vô ngã như
tiếng bom nguyên tử phát nổ, phá tan tính kiến ngã chấp của chúng sinh, không
còn lưu lại chút dấu vết! Cho nên, người ta đối với lý vô ngã Đại thừa này, làm
sao mà không e sợ! Thực ra, nếu chúng ta không thể quán chiếu thấy được cái ngã
năm ấm là không, thì không sao hiển lộ được cái ngã chân thật của Phật tánh. Hư
vọng đã dứt trừ, cái chân thật tự nhiên sẽ hiển hiện, như mây mù tan hết, mới
thấy được cảnh trời xanh trong sáng.
Người học đạo lâu năm
do không thể quán chiếu thấy được năm ấm là vô ngã, nên không cách nào giải
thoát, vẫn bị giam cầm trong thế gian hư giả!
Vào triều Tống, Thiền
sư Phật Ấn ở núi Kim Sơn khi giảng Kinh trên pháp tòa, tứ chúng nghe chật cả
pháp đường thì có cư sĩ Tô Đông Pha làm quan Đại Học Sĩ vừa đến nghe Pháp.
Thiền sư liền dùng cơ ngữ nhà Thiền nói với ông:
- Nơi đây không có chỗ
ngồi của Học sĩ!
Tô Đông Pha cũng là
một vị tham thiền học Phật lâu năm, nghe qua liền dùng thiền ngữ đáp lại:
- Sao không mượn tạm
thân tứ đại của thiền sư làm tòa ngồi!
- Này Học sĩ, ông đã
muốn lấy thân tứ đại của lão tăng làm tòa, lão tăng có câu hỏi này, ông nếu đáp
được, thì sẽ đem thân cho ông ngồi. Còn như ông không đáp được, xin đem đai
ngọc để lại chỗ này làm vật trấn sơn môn.
- Được, được, xin ngài
cứ hỏi!
- Phật Pháp nói: Bốn đại vốn không, năm ấm vô ngã. Vậy xin hỏi Học sĩ lấy cái gì làm tòa?
- Phật Pháp nói: Bốn đại vốn không, năm ấm vô ngã. Vậy xin hỏi Học sĩ lấy cái gì làm tòa?
Học sĩ Tô Đông Pha
kinh luận nằm lòng, thế mà bị thiền sư hỏi một câu này cũng đành ngậm miệng,
không biết làm sao đối đáp. Mãi đến ngày nay, Chùa Giang Thiên ở núi Kim Sơn
vẫn còn lưu giữ đai ngọc của Tô Đông Pha, trở thành vật cổ giá trị liên thành
hiếm có!
Kinh này nói năm ấm vô
ngã, cách giải thích tốt nhất vẫn là lấy văn của Kinh này để giải thích. Vì sao
nói năm ấm vô ngã? Đó là do sinh diệt biến đổi, giả dối không có chủ tể.
Ở trên chúng tôi đã
giảng qua thân người do nhân duyên hòa hợp gọi là sinh, nhân duyên ly tán gọi là
diệt, thân tâm loài hữu tình thay đổi không ngừng, khi này khi khác. Cái ta ngũ
uẩn này thực ra là giả dối không thật, không có tự do, không thể tự tại, không
có chủ tể (vô chủ).
Đã giảng qua thế gian
vô thường quá, tứ đại khổ không quán, ngũ ấm vô ngã quán, sau hết tất nhiên sẽ
giảng đến bất tịnh quán, tức câu: Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội.
Lương tâm! Lương
tâm! Tuy mọi nười lớn tiếng kêu gọi làm người phải có lương tâm, nhưng rốt cuộc
kẻ thiếu lương tâm vẫn nhan nhản trong xã hội!
Thân phạm tội gian
dâm, tay phạm tội trộm cướp, miệng phạm tội ác khẩu đều do tâm sai sử, tâm làm
chủ! Những tội ác đau thường đến cùng cực, như tạt acid phá hủy nhan sắc người
mình từng thương yêu; giết hại bạn thân lâu năm rồi phân thây, xóa mất dấu
vết... đều không phải bắt nguồn từ tâm của con người hay sao?
Con người vì lòng ích
kỷ cá nhân nên bản tính quang minh bị che mất. Lòng ích kỷ cá nhân quá nặng thì
đâu còn kể gì đến đạo nghĩa, nhân tình, chuyện hại người lợi mình nào cũng dám
làm cả. Trên đời này, từ việc nhỏ như thị phi, nhân ngã trong gia đình, cho đến
việc lớn như đấu tranh ngoài xã hội và chiến tranh giữa các quốc gia, đều do tâm
tự tư tự lợi này mà ra cả.
Xã hội hiện nay đề
xướng việc phát minh khoa học, khích lệ sự tiến bộ nghệ thuật, đều không ngoài
mục đích đem lại an lạc hạnh phúc cho nhân sinh. Nhưng đây vẫn là biện pháp
tương đối, tạm thời, vì khoa học, nghệ thuật không thể hoàn toàn ngăn được nhân
loại phạm tội. Vì vậy, sau khoa học và nghệ thuật, phải cần phát dương Phật
Pháp là phuog pháp trị tận gốc khổ đau, giúp con người khai mở lương tri, chấm
dứt nguồn tâm tự tư tạo tội, khiến tâm không còn phan duyên nơi cảnh huyễn.
Được như vậy, xã hội sẽ an ninh, thế giới sẽ hòa bình và nhân loại mới được hạnh
phúc chân thật!
Cái mà người đời yêu
quý nhất là thân thể xinh đẹp, quan tâm nhất là tài sản dồi dào. Nhưng đến phút
cuối của cuộc đời, thân thể, tài sản tất cả đều không mang theo được! Khi còn
sống, thứ mà người ta ít quan tâm nhất đó là tâm, nhưng đến khi giả biệt cuộc
đời, chỉ có nó mới đi theo chúng ta!
Người vì thân bận rộn
nhọc nhằn thì nhiều, người vì tâm mà thanh tịnh tu niệm lại ít! Thảo nào thế
gian có biết bao nhiêu điều lầm lỗi thiếu sót! Thân thể, tài sản không phải là
của chúng ta, tâm mới là ông chủ của mình!
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Tâm như hoạ sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Cảnh ngũ ấm thế gian
Không pháp nào chẳng tạo.
Tâm như hoạ sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Cảnh ngũ ấm thế gian
Không pháp nào chẳng tạo.
Lại nói:
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Tâm là nguồn ác, nhưng
tâm cũng là nguồn thiện! Thiện hay ác chỉ trong một niệm của chúng ta mà thôi.
Vì tâm dễ tạo ác, nên thân hữu vi do tâm tạo nghiệp chiêu cảm ra này cũng giống
như một thùng rác, chứa đầy đồ nhơ uế! Giả sử đổi ác làm thiện, tuy có thân
thể, ngay đó đã thanh tịnh giải thoát.
Ai có thể quán tưởng, phản tỉnh, quán sát những đạo lý trên, thì sẽ lần lần lìa được biển khổ sinh tử! Nên Kinh văn trong phần tiểu kết ở điều giác ngộ thứ nhất nói: Nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử.
Ở trên đã giảng qua điều giác ngộ thứ nhất trong Kinh Bát Đại Nhân Giác. Nay tóm yếu nghĩa lý của điều giác ngộ này lại như sau: Người gánh vác sự nghiệp lớn, học Bồ tát đạo, liễu sinh thoát tử, rộng độ chúng sinh, trước hết cần phải giác ngộ: Nhân sinh và vũ trụ vốn vô thường, thế gian nơi đâu cũng bất an chẳng thật. Cái ta do nhân duyên tứ đại, ngũ ấm hòa hợp này chính thật là khổ, không, vô ngã, sinh diệt, biến đổi, giả dối, không có chủ tể. Vọng tâm chấp trước là cội nguồn của tội ác; sắc thân huyễn hiện là nơi chốn của nghiệp tội. Ai có thể hiểu được đạo lý này thường thường tư duy quán xét, sẽ lần lần thoát khỏi đau khổ, phiền não của sinh tử luân hồi.
Dịch thơ:
Điều thứ nhất tâm luôn giác biết
Cõi thế gian quả thiệt vô thường
Đổi dời sinh tử tang thương
Cõi nước tuy lớn cũng dường mỏng manh!
Thân tứ đại sinh thành tử hoại
Già bệnh đeo khổ ải, giả không
Hòa hợp năm ấm lửa vòng
Chỉ là ảo ảnh, ngã không thể tìm.
Thế mới biết thế gian hư huyễn
Diệt lại sinh biến chuyển vô thường
Chúng sinh mê đắm chấp nương
Vô ngã chấp ngã vào đường khổ đau.
Tâm là cội nguồn bao nghiệp ác
Thân nghe theo tạo tác tội khiên
Xuống lên sinh tử triền miên
Tội kia đầy dẫy như miền rừng hoang.
Người con Phật phải toan quán sát
Đạo lý này bao quát đường tu
Đó là thiền quán công phu
Dứt mê, chuyển nghiệp, khỏi tù tử sinh.
Điều giác ngộ thứ nhất, được thuyết minh qua biểu đồ ở trang sau.
Ai có thể quán tưởng, phản tỉnh, quán sát những đạo lý trên, thì sẽ lần lần lìa được biển khổ sinh tử! Nên Kinh văn trong phần tiểu kết ở điều giác ngộ thứ nhất nói: Nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử.
Ở trên đã giảng qua điều giác ngộ thứ nhất trong Kinh Bát Đại Nhân Giác. Nay tóm yếu nghĩa lý của điều giác ngộ này lại như sau: Người gánh vác sự nghiệp lớn, học Bồ tát đạo, liễu sinh thoát tử, rộng độ chúng sinh, trước hết cần phải giác ngộ: Nhân sinh và vũ trụ vốn vô thường, thế gian nơi đâu cũng bất an chẳng thật. Cái ta do nhân duyên tứ đại, ngũ ấm hòa hợp này chính thật là khổ, không, vô ngã, sinh diệt, biến đổi, giả dối, không có chủ tể. Vọng tâm chấp trước là cội nguồn của tội ác; sắc thân huyễn hiện là nơi chốn của nghiệp tội. Ai có thể hiểu được đạo lý này thường thường tư duy quán xét, sẽ lần lần thoát khỏi đau khổ, phiền não của sinh tử luân hồi.
Dịch thơ:
Điều thứ nhất tâm luôn giác biết
Cõi thế gian quả thiệt vô thường
Đổi dời sinh tử tang thương
Cõi nước tuy lớn cũng dường mỏng manh!
Thân tứ đại sinh thành tử hoại
Già bệnh đeo khổ ải, giả không
Hòa hợp năm ấm lửa vòng
Chỉ là ảo ảnh, ngã không thể tìm.
Thế mới biết thế gian hư huyễn
Diệt lại sinh biến chuyển vô thường
Chúng sinh mê đắm chấp nương
Vô ngã chấp ngã vào đường khổ đau.
Tâm là cội nguồn bao nghiệp ác
Thân nghe theo tạo tác tội khiên
Xuống lên sinh tử triền miên
Tội kia đầy dẫy như miền rừng hoang.
Người con Phật phải toan quán sát
Đạo lý này bao quát đường tu
Đó là thiền quán công phu
Dứt mê, chuyển nghiệp, khỏi tù tử sinh.
Điều giác ngộ thứ nhất, được thuyết minh qua biểu đồ ở trang sau.
Biểu đồ thứ 2: Tóm
tắt nội dung điều giác ngộ thứ I
Điều giác ngộ thứ nhất:
- Vô thường quán
- Khí thế gian - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ
- Hữu tình thế gian - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ
- Khổ không quán
- Tứ đại - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ - tâm là nguồn ác
- Vô ngã quán
- Ngũ ấm - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ - tâm là nguồn ác - thân là rừng tội
- Bất tịnh quán
- Thân hình - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ - tâm là nguồn ác - thân là rừng tội
Điều giác ngộ thứ nhất:
- Vô thường quán
- Khí thế gian - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ
- Hữu tình thế gian - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ
- Khổ không quán
- Tứ đại - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ - tâm là nguồn ác
- Vô ngã quán
- Ngũ ấm - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ - tâm là nguồn ác - thân là rừng tội
- Bất tịnh quán
- Thân hình - sinh diệt biến đổi - giả dối không chủ - tâm là nguồn ác - thân là rừng tội
Bài giảng thứ
III
Đa dục là căn bản của sinh tử luân hồi
Phiên âm:
Đệ nhị giác tri: Đa dục vi khổ, sinh tử bì lao, tùng tham dục khởi; thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ hai: Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục ra; nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại.
Điều giác ngộ thứ hai: Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục ra; nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại.
Giảng giải:
Điều giác ngộ thứ nhất trong Kinh Bát Đại Nhân Giác nói đến thế gian quan của
Phật giáo. Từ điều giác ngộ thứ hai đến điều giác ngộ thứ bảy là nói về nhân
sinh quan của Phật giáo.
Phật giáo nói đến thời
gian, thì chia làm ba: quá khứ, hiện tại, vị lai; còn thuyết minh không gian,
lại có thế giới này, thế giới khác, mười phương vô lượng thế giới; nói đến hữu
tình, chia làm mười pháp giới: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, trời, người,
a tu la, ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục. Đạo lý Phật giáo tuy có phạm trù rộng
lớn, nhưng vẫn lấy vấn đề nhân sinh làm trọng tâm.
Nói đến nhân sinh,
người ta liền liên tưởng đến những vấn đề mà con người cần thiết như ăn mặc, dục
lạc, hôn nhân, v.v... Thực ra, những vấn đề này tuy quan trọng, nhưng quan trọng
hơn cả vẫn là vấn đề sinh tử.
Giới văn hóa ngày nay rất đông, ai cũng nêu cao khẩu hiệu mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng khoa học phát đạt, nghệ thuật xương minh, văn học ưu mỹ, chính trị tiến bộ cũng không thể giải trừ hoàn toàn đau khổ cho nhân loại. Khoa học, nghệ thuật, văn học, chính trị tuy có công năng cải thiện cuộc sống, nhưng không thể giải thoát sinh tử cho con người.
Giới văn hóa ngày nay rất đông, ai cũng nêu cao khẩu hiệu mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng khoa học phát đạt, nghệ thuật xương minh, văn học ưu mỹ, chính trị tiến bộ cũng không thể giải trừ hoàn toàn đau khổ cho nhân loại. Khoa học, nghệ thuật, văn học, chính trị tuy có công năng cải thiện cuộc sống, nhưng không thể giải thoát sinh tử cho con người.
Chúng sinh luân hồi
trong ba cõi sáu đường, sinh rồi lại tử, tử rồi là sinh, gánh chịu biết bao đau
khổ, đều do tham dục dẫn khởi mà ra. Học thuật tiến bộ, văn minh vật chất đều
không giúp con người thiểu dục tri túc. Dục vọng càng nhiều thì khổ não tự
nhiên cũng nhiều.
Tô Đông Pha nói: "Lòng
dục của con người không cùng, song vật có thể làm thỏa mãn lòng dục của ta lại
có hạn." Các ngành học thuật một mặt cải thiện cuộc sống của nhân sinh, song
mặt khác cũng lại làm tăng thêm dục vọng của con người. Cho nên khoa học, nghệ
thuật, văn học, chính trị đối với nhân loại công và tội gần bằng nhau. Nó đem
lại hạnh phúc cho nhân loại, song đồng thời cũng đào sâu biển khổ cho con người!
Túi tham của con người
không đáy, khó đầy. Mọi người đều tranh nhau tìm cầu dục lạc do tài lợi, thanh
sắc, đem đến. Song trong dục lạc đã sẵn mầm đau khổ, mà họ lại không biết e
sợ! Đây là do chúng sinh mê mất bản tính, lấy khổ làm vui trong sinh tử luân
hồi. Một khi đã dấn sâu vào đó, thì khó ai biết quay đầu trở lại, suốt ngày làm
nô lệ cho dục vọng, không biết hướng đến Phật Pháp tìm cầu giải thoát.
Trong Kinh có ghi lại
một câu chuyện như sau:
Bên bờ sông Hằng
nước Ấn, có một nhóm phụ nữ mang những giỏ cá từ chợ về nhà. Giữa đường họ gặp
một trận mưa to, trời cũng vừa tối mà cách nhà còn đến năm sáu dặm đường. Trong
lúc bối rối chưa biết tính sao, các cô may mắn gặp được một vị chủ cửa hàng hoa,
mời lưu lại nhà mình qua đêm. Trong phòng toàn là hoa, mùi hương sực nức cả
nhà. Suốt ngày mệt nhọc, nhưng các cô nằm xuống vẫn trằn trọc không sao ngủ
được. Mùi hương hoa làm mọi người không quen cảm thấy khó chịu, cho đến gà gáy
báo sáng mà mọi người vẫn còn trằn trọc không yên. Trong đó có một cô thông
minh, liền đem giỏ cá đặt nơi đầu giường. Mùi tanh lấn át mùi hương, các cô mới
nhắm mắt ngủ được một lát.
Chúng sinh bị tham dục
cầm tù, ô uế tanh hôi, nhưng mọi người ở lâu trong đó trở lại cho là khoái lạc!
Đa dục là khổ, người có từng trải mới có thể hiểu được. Tuy nhiên dục không
nhất định hoàn toàn là xấu. Kinh nói dục có tạp nhiễm dục và thiện pháp dục.
Nội tâm bất tịnh, tham đắm danh lợi thanh sắc bên ngoài là dục. Mang lý tưởng
giúp đời, làm công tác phúc lợi xã hội cũng là dục. Vì vậy, chúng ta nên tăng
trưởng thiện pháp dục và giảm thiểu tạp nhiễm dục.
Đại đa số người chỉ lo
tham cầu tạp nhiễm dục, mà không biết hướng đến thiện pháp dục. Vì thế đức Phật
khi thuyết Pháp thường quở trách lòng dục. Dục vọng mà mọi người muốn thỏa mãn
nếu không phải lòng dục về quyến thuộc đông đầy, thì cũng là lòng dục về tiền
của dồi dào; nếu không phải lòng dục về thăng quan tiến chức, thì cũng là lòng
dục về sống lâu không già. Song những dục vọng này có thể thực sự đem lại an
vui cho con người không? Lòng dục về quyến thuộc: cha con, mẹ con, thầy trò, họ
hàng, chồng vợ, anh em, bè bạn, tôi tớ cho dù được thỏa mãn đầy đủ, song cũng có
khi lại biến thành oan gia oán thù! Tục ngữ bảo: "Chẳng phải oan gia chẳng gặp
nhau." Anh em giành của, cha con trở mặt, chồng vợ ly hôn, tôi tớ hại chủ...
quyến thuộc yêu thương một phen trở mặt còn tệ hại hơn người dưng! Cho nên
người thông minh đâu cần nhất định phải thỏa mãn lòng dục về quyến thuộc!
Ở Đài Loan, một trong
những vấn đề lớn của xã hội là vấn đề con gái nuôi. Có rất nhiều con gái nuôi
thưa kiện cha mẹ nuôi của mình ở tòa án hay sở cảnh sát. Đây chính là do lòng
dục về quyến thuộc làm hại!
Ngoài lòng dục về
quyến thuộc ra, lòng dục về của cải cũng rất mãnh liệt. Người ta không những
mong muốn việc ăn mặc được đầy đủ, chỗ ở được rộng rãi, thoải mái, mà còn muốn
đất đai, vàng bạc, càng lúc càn nhiều. Ai cũng hy vọng mình mỗi ngày một sở hữu
càng nhiều của cải, vật chất. Thực ra, những của cải này có khi lại gây ra lắm
điều phiền luỵ! Cổ nhân từng bảo: "Người vì của mà chết, chim vì ăn mất mạng."
Cho nên, có biết bao mạng sống, nhân cách của con người bị chôn vùi dưới đống
của cải! Thấy vàng bạc, của cải trước mắt, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa bạn
bè, chẳng kể chi đến đạo đức lương tâm, con người tự đánh mất chất người của
mình!
Ngoài lòng dục về
quyến thuộc, của cải ra, còn có lòng dục về thân thể. Ai cũng muốn nhan sắc
mình được trẻ đẹp, sức khoẻ mình được lâu dài. Nhưng thế gian vốn vô thường,
tuổi xanh đi qua mau, trẻ đẹp có bao lâu? Ngay điều mà cổ nhân gọi là tam bất
hủ: lập công, lập đức, lập ngôn, để xây dựng nên công nghiệp hiển hách, cũng
phải chịu không biết bao nhiêu đắng cay, khổ não!
Xét cho cùng, người
lòng dục nhiều chừng nào thì khổ não cũng càng lắm chừng đó. Tham tài, tiền tài
không nhất định đem đến an vui, song người mất mạng vì tiền của lại không ít;
tham danh, danh không nhất định mang lại an lạc, song người lụy vì danh lại rất
đông; tham, sắc, sắc không nhất định đem đến hạnh phúc, song có biết bao người
đau khổ vì sắc đẹp! Do đó có thể thấy, câu Kinh: Đa dục phải là khổ, quả thật
là tiếng đại hồng chung ban sớm, đánh thức người đời tỉnh khỏi giấc mộng lợi
danh!
Cổ nhân nói: Người đạt
đến chỗ vô cầu, tự nhiên phẩm cách cao thượng. Cảnh giới vô cầu cũng chính là
cảnh giới vô dục. Người mà vô dục thì phẩm cách tự nhiên sẽ cao thượng, và khổ
não tự nhiên sẽ giảm thiểu. Hãy nhìn xem, những kẻ trong trường danh lợi, những
người đầu cơ buôn bán, cúi luồn nịnh hót, hoa ngôn xảo ngữ, làm nô lệ cho dục
vọng lại cho là khoái lạc, thật đáng thương biết chừng nào!
Đương nhiên, Phật giáo
không phải dạy chúng ta tuyệt đối cấm dục, song cũng không tán thành việc phóng
túng lòng dục. Phật giáo dạy chúng ta có thái độ trung đạo. Đối với các dục về
quyến thuộc, của cải, thân thể cố nhiên không thể phóng túng, nhưng cũng không
cách nào hoàn toàn thoát ly. Cần phải dùng trí tuệ để chuyển hóa tình cảm, thực
hiện thiện pháp dục mà xa lìa phiền não dục. Giở lại lịch sử Ấn Độ, xã hội khi
Phật còn tại thế có một nhóm người chủ trương hưởng thụ dục lạc, phóng túng lòng
dục. Họ quan niệm: Hôm nay có rượu, hôm nay say, còn chuyện ngày mai lo làm gì,
nên tìm đủ cách hưởng thụ dục lạc, ăn chơi xa hoa trong cuộc sống hiện tại. Lại
có một nhóm người tu khổ hạnh theo ngoại đạo, chủ trương tuyệt đối cấm dục. Nhà
khổ hạnh không những đoạn tuyệt lòng dục về nam nữ, mà còn sống hết sức khắc khổ
trong cái ăn, cái mặc, cái ở để tu luyện. Họ chỉ ăn rong rêu, hoặc rễ cỏ, vỏ
cây, hoa quả cho đỡ đói. Họ không mặc y phục, suốt ngày thân thể để trần. Có
người ngồi trên gai góc, hay bên bờ vực thẳm; có người nằm sát bên đống lửa.
Những khổ hạnh vô ích này, chỉ làm khổ cho mình, hoàn toàn không thể nhờ cái khổ
đó mà được giải thoát. Họ tuy xa lìa được lòng dục về lạc hạnh, song lại bị
lòng dục về khổ hạnh trói buộc, rốt cuộc vẫn không phải là pháp giải thoát. Cho
nên đức Phật sau khi thành đạo, đã tuyên bố chân lý trung đạo, dạy người học đạo
phải xa lìa hai cực đoan là tham đắm dục lạc (túng dục) và cố chấp khổ hạnh (cấm
dục), nên y theo Bát chánh đạo để tinh tiến tu tập.
Chúng ta phải hãy dùng
lòng từ bi thay thế tham dục, dùng trí tuệ hóa giải tình cảm, không để lòng mình
sinh khởi tạp nhiễm dục, tự nhiên sẽ tránh được vấn đề đa dục là khổ!
Người ta thường nói:
Người không nhiều dục vọng thì không có thất vọng; người dục vọng càng nhiều thì
đau khổ càng nhiều. Kinh Di Giáo cũng nói: "Người biết tri túc, tuy nằm trên
đất vẫn thấy an lạc; người không tri túc, dù ở thiên đường, cũng không vừa ý."
Đệ tử Phật là Tôn giả Ca Diếp, chuyên tu nơi gò mả mà giải thoát, an lạc; học
trò Khổng Tử là Nhan Hồi, sống trong ngõ hẻm tồi tàn vẫn thanh thản, an vui.
Đây là những hình ảnh sống động, nhằm chứng minh ý thức xác thực của đoạn Kinh
trên. Qua đó ta thấy, khổ là do nhiều lòng dục mà có; nhiều lòng dục là nguồn
gốc của khổ.
Kinh văn nói: "Bao
sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục ra." Chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo, tử
rồi lại sinh, sinh rồi lại tử, những nhọc mệt khổ đau này, không phải đều từ
tham dục mà ra sao? Lấy cuộc sống hiện thực mà nói, chúng ta suốt ngày tìm cầu,
tham lam chiếm hữu, làm trâu ngựa cho cuộc sống, lúc nào cũng lo được lo mất,
bối rối bất an, đều từ tham dục mà ra cả.
Tham dục thật là đáng
sợ! Kẻ táng thân mất mạng trong đời thường là do nơi tham dục. Các vị hãy xem
con thiêu thân lao vào lửa, con cá mắc phải lưới câu, chẳng phải đều do lòng
tham dục xui nên hay sao? Những phạm nhân trong tù, người thì phạm tội trộm
cướp, kẻ thì phạm tội gian dâm, chẳng phải đều bị lòng dục làm hại đó sao? Thuở
xưa có hai người họ Trương và họ Vương cùng nhau đi du lịch nơi xa. Giữa đường
họ nhặt được một khối vàng ròng. Cả hai mừng quá bèn bàn nhau chia đôi. Trên
đường đi, anh họ Trương nói với anh họ Vương:
-
-
Khối vàng này chúng
ta nhặt được là do Thành hoàng nơi đây có mắt, cho chúng ta cơ hội phát tài.
Chúng ta nên mua một ít rượu thịt đến trước Thành hoàng cúng bái để tạ ơn.
- Được lắm, anh đi mua đồ, tôi ở trước miễu Thành hoàng đợi.
- Được lắm, anh đi mua đồ, tôi ở trước miễu Thành hoàng đợi.
Anh họ Trương hoan hỷ
đồng ý. Nhưng ngay sau đó trong lòng hai người liền nảy sinh ý niệm tham lam,
muốn một mình chiếm hữu.
Anh họ Trương nghĩ:
Khối vàng ròng này nếu chia đôi, chỉ còn phân nửa, thì tiêu xài không được bao
lâu.
Anh họ Vương cũng
nghĩ: Khối vàng ròng này nếu chia đôi thật là uổng, chi bằng ta tìm cách hưởng
hết một mình.
Tầm tham dục vừa khởi,
điều ác đã đến nơi. Anh họ Trương mua thuốc độc lén bỏ vào rượu và thức ăn để
giết hại anh họ Vương. Anh họ Vương thấy trong miếu Thành hoàng không có ai,
cũng chuẩn bị một cây búa để đập chết anh họ Trương. Hai người thầm đắc ý với
diệu kế của mình, cho rằng đối phương quyết không hay biết.
Anh họ Trương mua rượu
và thức ăn về, khi đang lạy cúng Thành hoàng, không ngờ bị anh họ Vương đập một
búa vào đầu, ngã lăn ra chết.
Anh họ Vương giết xong
anh họ Trương lấy làm đắc ý, vừa định lấy vàng đào tẩu thì cảm thấy bụng đói cồn
cào. Anh nghĩ: Mình hãy ăn uống no say đã, rồi trốn đi, đâu có vội gì? Anh
liền bày rượu thịt ra ăn uống một mình. Đang ăn, bổng cảm thấy trời đất xoay
chuyển, thuốc độc phát tác, anh ta cũng ngã lăn ra chết!
Hai người họ Trương,
họ Vương lòng tham quá lớn, vì muốn một mình hưởng trọn khối vàng, có tâm hại
người nên trở lại tự hại lấy mình! Đây là nhân quả hiện tiền, cũng là nói tất
cả tội ác đều từ tham dục sinh ra.
Trung Quốc có câu tục
ngữ rất hay: Của hoạnh tài không làm giàu được kẻ số nghèo. Giàu có vốn không
phải do tham dục mà được. Làm giàu phải có phước, không phước mà cầu giàu sang
để thỏa mãn lòng dục, thì kết quả vô cùng bi thảm!
Có phước giàu sang là
nhờ bố thí để tích chứa phước đức, mà không phải là do tham dục. Tham muốn
nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn đều từ tham dục ra. Vậy chúng ta làm thế
nào để đối trị đây? Kinh nói: "Nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại."
Chúng tôi đã giảng qua
ở trên, dục không phải nhất định là hoàn toàn tội lỗi. Người vì xã hội lo việc
phước lợi, thiện pháp dục này không những không bị người ta phản đối mà còn được
rất nhiều người tán dương. Chẳng qua, lòng dục về danh lợi tài sắc nếu kiêu xa
quá đáng, thì dư luận xã hội cũng không đồng tình. Đối với lòng dục về tiếng
khen, tài lợi, nam nữ, ẩm thực, v.v... Kinh điển không phải bắt các vị hoàn toàn
đoạn tuyệt. Thực ra, trong thực tế cũng không cách gì đoạn tuyệt được tất cả.
Trong Kinh chỉ dạy chúng ta giảm thiểu lòng dục, sống đời thanh thản, không
vướng bận, não phiền (vô vi). Người lòng dục nhiều thì phiền não tất nhiên cũng
nhiều; người lòng dục ít thì phiền não tự nhiên cũng ít.
Người ít dục vọng thì
tâm không dua nịnh, không mong cầu vô lý. Tâm không tham dục sẽ trở nên cương
trực, thẳng thắn. Người ít muốn vô vi sẽ không bị các căn mắt tai mũi lưỡi thân
ý của mình và sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp bên ngoài trói buộc. Thân
tâm của vị đó tự nhiên được tự tại, giải thoát.
Nhan sắc diễm lệ,
giọng ca ngọt ngào, điệu múa uyển chuyển, vị ngon ăn uống, tiếng tăm lừng lẫy...
đều có sức mạnh mê hoặc lòng người rất lớn. Nó khiến người ta phóng đãng dục
tình, cùn nhụt ý chí, đắm đuối tìm cầu. Danh lợi tài sắc rõ ràng là biển dục
khiến người ta phải trầm luân nơi nguy hiểm. Con người như một chiếc thuyền con
đang lặn ngụp, trôi giạt giữa biển khổ sóng to, gió cả!
Người đời lặn ngụp
trong biển dục, thì thân tâm làm sao có thể tự tại an lạc!
Cách tốt nhất là phải
xa lìa biển dục phiền não, không mạo hiểm trong biển dục, luôn đề cao cảnh giác
không bị nó dẫn dụ, làm mê hoặc. Người Phật tử nên dùng sức thiền định, trí tuệ
để phụng hành giới học mà đức Phật đã dạy, tuy ăn uống song không vì tham lam vị
ngon mà sát sinh; tuy giữ của, song không phải vì tham lam mà dùng thủ đoạn để
bòn rút, cướp đoạt; tuy có vợ có chồng, mà không tà dâm gây ra việc tình ái lăng
nhăng; tuy nói năng mà không vọng ngữ, thêu dệt... Nếu thế gian có thái độ ít
muốn vô vi như vậy, thì thân tâm chắc chắn sẽ được tự tại, thanh thản và nhân
loại cũng không có tranh chấp, hơn thua!
Dịch thơ:
Điều thư hai phải nên giác ngộ
Ham muốn nhiều, luỵ khổ càng sâu
Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu
Đều do tham dục dẫn dầu gây nên.
Tâm ít muốn, giữ bền đạo nghiệp
Hạnh vô vi, không tiếp nghiệp duyên
Tự nhiên sẽ hết não phiền
An vui tự tại giữa miền nhân gian.
Điều thư hai phải nên giác ngộ
Ham muốn nhiều, luỵ khổ càng sâu
Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu
Đều do tham dục dẫn dầu gây nên.
Tâm ít muốn, giữ bền đạo nghiệp
Hạnh vô vi, không tiếp nghiệp duyên
Tự nhiên sẽ hết não phiền
An vui tự tại giữa miền nhân gian.
Biểu đồ 3: Tóm tắt
nội dung điều giác ngộ thứ II
Điều giác ngộ thứ hai:
- Phàm phu:
- Đa dục (từ tham dục khởi) - Nhân - Bệnh hoạn
- Là khổ (sinh tử nhọc mệt) -- Quả - Bệnh hoạn
- Bồ tát
- Thiểu dục vô vi (giới học) - Nhân - Phương thuốc
- Thân tâm tự tại (giải thoát) -Quả - Phương thuốc
Điều giác ngộ thứ hai:
- Phàm phu:
- Đa dục (từ tham dục khởi) - Nhân - Bệnh hoạn
- Là khổ (sinh tử nhọc mệt) -- Quả - Bệnh hoạn
- Bồ tát
- Thiểu dục vô vi (giới học) - Nhân - Phương thuốc
- Thân tâm tự tại (giải thoát) -Quả - Phương thuốc
Bài giảng thứ
IV
Tri túc là căn
bản để gìn giữ đạo nghiệp
Phiên âm:
Đệ tam giác tri: Tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác. Bồ tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Đệ tam giác tri: Tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác. Bồ tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ ba: Tâm nếu không biết đủ, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác. Bồ tát không như vậy, thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp.
Điều giác ngộ thứ ba: Tâm nếu không biết đủ, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác. Bồ tát không như vậy, thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp.
Giảng giải:
Điều giác ngộ thứ hai: Đa dục là căn bản của sinh tử. Còn điều giác ngộ thứ ba: Tri túc là căn bản để gìn giữ đạo nghiệp. Muốn lìa sinh tử, đầu tiên phải trừ dục; muốn tu chính đạo, trước hết phải tri túc. Người không tri túc, cho dù tu hành bao lâu năm, vẫn không có ngày thành tựu.
Điều giác ngộ thứ hai: Đa dục là căn bản của sinh tử. Còn điều giác ngộ thứ ba: Tri túc là căn bản để gìn giữ đạo nghiệp. Muốn lìa sinh tử, đầu tiên phải trừ dục; muốn tu chính đạo, trước hết phải tri túc. Người không tri túc, cho dù tu hành bao lâu năm, vẫn không có ngày thành tựu.
Tâm của chúng sinh
không bao giờ thấy thỏa mãn đối với những gì mình đã có được. Tiền bạc có một
trăm lại nghĩ đến một ngàn, được một ngàn lại đòi lên một vạn! Quan vị là quận
trưởng mong làm tỉnh trưởng, lên tỉnh trưởng lại muốn làm bộ trưởng!
Có một bài ca nói thật
đúng cái tâm không biết đủ của con người:
Suốt ngày bận rộng
cũng chỉ vì
Lo ăn, lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ:
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì!
Vợ đẹp, hầu non đều đủ cả
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
Lại lo ruộng ít, khó thu chi!
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
Sợ không quan chức bị ngươi khi!
Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm, thất phẩm có ra gì.
Nhất phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại muốn làm vau, chắc có khi?
Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ!
Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
Vô thường chợt đến, ôm hận đi!
Lo ăn, lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ:
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì!
Vợ đẹp, hầu non đều đủ cả
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
Lại lo ruộng ít, khó thu chi!
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
Sợ không quan chức bị ngươi khi!
Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm, thất phẩm có ra gì.
Nhất phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại muốn làm vau, chắc có khi?
Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ!
Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
Vô thường chợt đến, ôm hận đi!
Đây là nói về một
người sống trong dục vọng, không bao giờ biết đủ về giàu sang, công danh, để
kiếp người đáng quí trôi qua trong phiền não khổ đau.
Tai hoạ trên thế gian,
tội ác trong cuộc sống đều do tâm không biết đủ này mà ra. Mọi người ai cũng
biết:
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần!
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần!
Đằng sau gia tài đồ sộ
kia, không biết che dấu biết bao tội ác! Bên trong địa vị cao sang đó, ai hay
ẩn chứa thật lắm âm mưu! Những tham cầu trái với chánh pháp, làm tăng thêm tội
lỗi, tóm lại có mấy điểm như sau:
1. Lấy trộm tài vật
của người: Ví dụ như ăn trộm, ăn cướp, làm thổ phỉ chuyên cướp đoạt tài vật của
người để sống.
2. Chối bỏ trách nhiệm: Như mượn đồ vật của ai, đến kỳ không trả, lại chối nói không có, hay đổ thừa, hại người lợi mình.
3. Nuốt lời gửi gắm: Ví dụ có người bận việc đi xa, gửi đồ cho mình trông coi hộ. Đến khi họ trở về lấy lại, mình phủ nhận, rồi chiếm làm của riêng.
4. Dối lấy của chung: Ví dụ hai người cùng hùn vốn làm ăn, khi có lợi nhuận đáng lẽ phải chia đều, mà mình vì muốn hưởng nhiều hơn, nên số lời nhuận đúng ra là mười triệu mà chỉ nói có năm triệu.
5. Thừa cơ chiếm dụng: Ví dụ biển thủ của công, giảm bớt giờ làm, ăn xén vật liệu, mượn của công làm việc tư, v.v...
6. Cậy thế lực lấy của người: Ví dụ như tham ôn, dùng thủ đoạn qua mặt pháp luật, mượn thế lực chèn ép, cưỡng đoạt của người ta, khiến cho họ không dám kêu ca.
7. Kinh doanh trái với chánh pháp: Như mở quán rượu, vũ trường hay giết heo mổ trâu, hoặc buôn bán các dụng cụ sát sinh.
2. Chối bỏ trách nhiệm: Như mượn đồ vật của ai, đến kỳ không trả, lại chối nói không có, hay đổ thừa, hại người lợi mình.
3. Nuốt lời gửi gắm: Ví dụ có người bận việc đi xa, gửi đồ cho mình trông coi hộ. Đến khi họ trở về lấy lại, mình phủ nhận, rồi chiếm làm của riêng.
4. Dối lấy của chung: Ví dụ hai người cùng hùn vốn làm ăn, khi có lợi nhuận đáng lẽ phải chia đều, mà mình vì muốn hưởng nhiều hơn, nên số lời nhuận đúng ra là mười triệu mà chỉ nói có năm triệu.
5. Thừa cơ chiếm dụng: Ví dụ biển thủ của công, giảm bớt giờ làm, ăn xén vật liệu, mượn của công làm việc tư, v.v...
6. Cậy thế lực lấy của người: Ví dụ như tham ôn, dùng thủ đoạn qua mặt pháp luật, mượn thế lực chèn ép, cưỡng đoạt của người ta, khiến cho họ không dám kêu ca.
7. Kinh doanh trái với chánh pháp: Như mở quán rượu, vũ trường hay giết heo mổ trâu, hoặc buôn bán các dụng cụ sát sinh.
Lòng người không biết
nhàm đủ, nên việc tham cầu trái với chánh pháp là điều không thể tránh khỏi.
Thực ra, y phục vốn là để che thân và ngăn gió lạnh, nhưng người có tiền lại đòi
hỏi quần là áo lụa, nhung gấm hoa hoè; cơm ăn vốn cho khỏi đói, nhưng người có
tiền lại muốn mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị; chỗ ở vốn để tránh gió che mưa,
nhưng người có tiền lại muốn nhà cao cửa rộng, trang hoàng lộng lẫy; về mặt giải
trí thì núi sông hoa cảnh trong thiên nhiên người ta không cho là đủ, lại còn
rượu chè, khiêu vũ, bài bạc đủ thứ. Vật chất hữu hạn mà dục vọng con người lại
vô cùng thì làm sao thỏa mãn cho được? Do đó con người cứ chạy theo lòng dục,
luôn mãi tìm cầu, bất kể thủ đoạn, hại người lợi mình, gây ra vô số tội ác.
Phàm phu trong vòng
điên đảo do tâm không biết đủ nên tham cầu nhiều điều trái với chánh pháp.
Nhưng bậc Bồ tát tu hành lại thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy
tuệ làm sự nghiệp. Pháp sư Đạo An đời Tấn là vị công thần bậc nhất trong lịch
sử Trung Quốc. Một hôm có cư sĩ là Khích Siêu sai người dâng ngài một ngàn hộc
gạo trắng để cúng vào ngôi Tam Bảo. Trong chùa không có kho lương thực lớn nào
có thể chứa đủ số lượng nhiều như thế. Ngài Đạo An phải dành ra ba ngôi nhà lầu
mới để hết một ngàn hộc gạo. Nhân đó ngài viết thư trả lời cư sĩ Khích Siêu,
trong đó có đoạn viết: "Nhờ ông cúng cho chúng tôi một ngàn hộc gạo, nhưng cũng
vì thế mà tăng thêm phiền hà cho việc chứa cất!"
Bất cứ ai cũng hiềm
của cải ít, mà Đạo An lại hiềm của cải nhiều! Đây là tâm lượng của bậc thánh
giả, là thái độ của Bồ tát đối với thế gian.
Bậc tu đạo giác ngộ
đối với vật dục thế gian cho rằng: Tham cầu nhiều, kết quả sẽ bần cùng; hoan hỷ
xả bỏ, sẽ giàu có hạnh phúc. Của cải nhiều thì tâm làm tôi mọi cho hình hài,
cuộc sống không sao an tĩnh được!
Một người không biết
tri túc, tâm đam mê ngoại cảnh, hễ tham tài lợi thì sinh mạng nằm trong tay của
tài lợi; hễ tham sắc đẹp thì sinh mạng nằm trong tay của sắc đẹp! Người tham
lam cần phải biết, ngay thân mình còn không giữ được, huống chi của cải là những
thứ bên ngoài? Như các tay cự phú bao đời mà nay có còn đâu? Nếu biết tri túc
thì sinh mệnh mới an định, cuộc sống mới thực sự an lạc.
Thuở xưa có một người
cưỡi la ra ngoài dạo chơi, gặp một người cưỡi ngựa đi phía trước, trong lòng rất
ưa thích, mong ước có được con ngựa cao to như thế để cưỡi. Nhưng liền đó anh
ta quay đầu lại nhìn thấy một người đang cực nhọc đẩy xe mồ hôi như tắm. Anh
suy nghĩ chu đáo, tâm tham muốn liền lắng dịu, rồi cảm khái thốt lên bài thơ:
Người khác cưỡi ngựa,
mình cưỡi la
Tủi thân sao lại kém người ta?
Quay đầu chợt gặp ông xe đẩy
Mới thấy vẫn còn hơn người xa.
Tủi thân sao lại kém người ta?
Quay đầu chợt gặp ông xe đẩy
Mới thấy vẫn còn hơn người xa.
Điều này cho thấy, nếu
chúng ta nhìn người giàu sang hơn mình, sẽ bất bình, sinh tâm không biết đủ.
Nhưng nếu ta so với người nghèo hèn hơn, sẽ tự nhiên không còn tham cầu, không
tạo nghiệp xấu. Câu biết đủ thường an lạc thật đáng cho người học đạo chúng ta
ghi lòng tạc dạ!
Người giác ngộ luôn
luôn là người tri túc nên không tham cầu phi pháp, Bồ tát giác ngộ không phải là
không cần tiền, mà là khéo biết dùng tiền. Tiền bạc tích trữ thì không phải
thuộc về mình, tiền bạc dùng vào việc có ích mới thuộc về mình. Cho nên cách
người giác ngộ xử lý tiền bạc như sau:
Mười phần tiền của
kiếm được, hai phần dùng vào việc phước thiện, bố thí cúng dường; hai phần chi
dụng trong cuộc sống hàng ngày; hai phần để dành phòng khi già cả, yếu đau, và
lúc cần gấp. Còn lại bốn phần dùng vào việc kinh doanh để phát triển gia
nghiệp.
Phật Pháp nói tiền bạc là sở hữu chung của năm nhà:
Phật Pháp nói tiền bạc là sở hữu chung của năm nhà:
1. Nhà vua quan: Bọn
tham quan ô lại có thể dựa vào quyền thế để tước đoạt của cải chúng ta.
2. Nhà lửa nước: Tai nạn lũ lụt, hỏa hoạn có thể cuốn trôi, đốt sạch của cải chúng ta trong một buổi.
3. Nhà trộm cướp: Trộm cướp lén lấy trộm hay ngang nhiên cướp đoạt của cải chúng ta.
4. Nhà chiến tranh: Gặp lúc chiến tranh khói lửa, nhà cửa ly tán, của cải càng nhiều càng lo sợ, nguy hiểm.
5. Nhà con cái: Gặp con cái bất hiếu, phá tán gia tài, khiến tan nhà nát cửa.
2. Nhà lửa nước: Tai nạn lũ lụt, hỏa hoạn có thể cuốn trôi, đốt sạch của cải chúng ta trong một buổi.
3. Nhà trộm cướp: Trộm cướp lén lấy trộm hay ngang nhiên cướp đoạt của cải chúng ta.
4. Nhà chiến tranh: Gặp lúc chiến tranh khói lửa, nhà cửa ly tán, của cải càng nhiều càng lo sợ, nguy hiểm.
5. Nhà con cái: Gặp con cái bất hiếu, phá tán gia tài, khiến tan nhà nát cửa.
Tiền của chính thuộc
về năm nhà này. Người tri túc vì biết: Người ta ăn thì còn, còn mình ăn thì
hết, nên không chỉ cất chứa, hưởng thụ riêng cho mình, mà còn biết bố thí cúng
dường để vun trồng cội phước và làm những việc lợi ích. Của cải đó mới là chân
thật của mình.
Thời Chiến Quốc vua Tề
Tuyên Vương muốn bái Nhan Xúc làm thầy, nên nói với ông rằng:
- Chỉ cần ngài nhận
tôi làm đệ tử, sống chung với tôi, thì mỗi ngày sẽ ăn cao lương mỹ vị, mặc toàn
lụa là gấm vóc, ra ngoài có kiệu xe đưa rước, lại thêm có mỹ nhân hầu hạ.
Nhan Xúc thản nhiên
đáp:
- Cảm ơn lòng tốt của
ngài, nhưng tôi không mong làm thầy của vua. Tôi chỉ mong được thảnh thơi ăn
cơm, thì ngon đồng như ăn thịt; ra đường từ từ dạo bước, nào khác với việc đi
xe; an phận giữ mình, không làm điều sai quấy, thì đó là tôn quí; đời sống thanh
tịnh, phàm làm việc gì đều không trái với đạo lý, thì đó là an lạc, hạnh phúc.
Tri túc như Nhan Xúc
mới không bị thế gian làm nhục. Người tu hạnh Bồ tát có thể sống yên vui trong
cảnh nghèo vẫn giữ đạo thanh tịnh, lấy việc cầu trí tuệ giải thoát làm sự nghiệp
cả đời mình. Đại sư Huệ Năng giã gạo chuyên cần. Thiền sư Bách Trượng một ngày
không làm, một ngày không ăn. Luật sư Hoằng Nhất mấy mươi năm mặc một chiếc áo
bông. Hòa thượng Hư Vân lúc ở chùa Chân Như chỉa uống nước thay cơm mà không
khuất phục trước thế lực ác. Học được tinh thần vui nghèo giữ đạo của các vị đó
mới có thể thực sự thấu hiểu được cuộc sống, tận dụng được cuộc sống!
Bồ tát tu học Phật
Pháp không nhất thiết phải nghèo khổ mới gọi là thanh cao. Trong Phật giáo có
rất nhiều vị trưởng giả giàu có. Nếu bên trong tham dục không trừ, bề ngoài làm
ra vẻ khổ hạnh, đây là điều cần phải tránh!
Trong Phật giáo, cũng
không phải dạy chúng ta không cần tiền, mà dạy chúng ta nên có tiền của chính
đáng, dùng vào chỗ chính đáng. Nếu tiền của có được và sử dụng một cách chính
đáng, thì có càng nhiều lại càng tốt! Nếu là tiền của không chính đáng, dầu một
đồng xu cũng không lấy.
Thuở Phật còn tại thế,
một hôm ngài và A Nan cùng đi trên đường, gặp một khối vàng không biết là của ai
đánh rơi. Đức Phật thấy rồi quay sang A Nan bảo:
- Này A Nan, ông có
thấy không? Rắn độc đó!
A Nan đáp:
- Bạch Phật con có thấy. Quả là rắn độc!
- Bạch Phật con có thấy. Quả là rắn độc!
Đức Phật và A Nan đi
khỏi, hai cha con nông dân đang làm ruộng nghe nói rắn độc, bèn hiếu kỳ bước lại
xem thử, song không ngờ đó lại là một khối vàng! Hai người hết sức vui mừng,
cười thầm thầy trò đức Phật thấy của quí mà không biết. Họ bèn mang khối vàng về
nhà, cho rằng nay mai sẽ phát tài. Không bao lâu, nhà vau biết vàng bạc trong
kho có người trộm mất nên ra lệnh điều tra. Đội điều tra tìm thấy trong nhà hai
cha con có khối vàng ròng, thật không cách gì chối khỏi tội trộm, khi chứng cứ
đã rành rành. Do đó họ bị bắt giam vào ngục, khép vào tử tội. Hai cha con nông
dân thấy mình thật oan uổng, mới nhớ lại lời đức Phật nói với A Nan quả không
sai. Người cha bèn đóng vai đức Phật, nói với con rằng:
- Này A Nan, ông có
thấy không? Rắn độc đó!
Người con đáp:
- Bạch đức Phật, con có thấy. Quả là rắn độc!
- Bạch đức Phật, con có thấy. Quả là rắn độc!
Quan coi ngục nghe hai
cha con hỏi đáp rất lấy làm kỳ lạ, nên cho thẩm vấn lại, điều tra kỹ lưỡng mới
biết họ bị oan.
Hai cha con người đó
vì cất chứa vàng bạc mà làm hại mình. Họ lại nhờ nhớ được lời Phật và A Nan đối
đáp về đạo lý vui nghèo giữ đạo mới được cứu thoát. Qua đó ta thấy, của cải
không phải phần mình không nên lấy, vui nghèo giữ đạo mới là cách sống an ổn
chân chính.
Tiền bạc là rắn độc,
nhưng sống không thể thiếu tiền bạc. Cho nên tiền bạc cũng là tư lương của
người học đạo. Đây chỉ là vấn đề sử dụng tiền bạc đúng hay không đúng mà thôi!
Dùng tiền bạc để lo sự nghiệp xây dựng hạnh phúc cho mọi người; dùng tiền bạc để
hộ trì việc tu học, bồi dưỡng giới thân tuệ mạng của tăng ni, thì tiền bạc không
phải là rắn độc mà là tịnh tài!
Bậc Thánh giả vui
nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, thì không nên cất chứa rắn độc, song
nên biết dùng tịnh tài để lo việc Phật sự.
Dịch thơ:
Điều thứ ba biết tâm rong ruổi
Luôn tìm cầu, đeo đuổi chẳng nhàm
Không sao thỏa được lòng tham
Tội kia theo đó, càng làm càng sâu
Bậc Bồ tát vô cầu, biết đủ
Vui phận nghèo, qui củ tu hành
Trau dồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, cắt mành vô minh.
Luôn tìm cầu, đeo đuổi chẳng nhàm
Không sao thỏa được lòng tham
Tội kia theo đó, càng làm càng sâu
Bậc Bồ tát vô cầu, biết đủ
Vui phận nghèo, qui củ tu hành
Trau dồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, cắt mành vô minh.
Biểu đồ 4: Tóm tắt
nội dung điều giác ngộ thứ III
Điều giác ngộ thứ ba:
- Phàm phu
- Tầm không biết đủ - Tăng trưởng tội ác
- Chỉ lo tham cầu - Tăng trưởng tội ác
- Bồ tát
- Thường nhớ tri túc - Tuệ là sự nghiệp
- Vui nghèo giữ đạo - Tuệ là sự nghiệp
Điều giác ngộ thứ ba:
- Phàm phu
- Tầm không biết đủ - Tăng trưởng tội ác
- Chỉ lo tham cầu - Tăng trưởng tội ác
- Bồ tát
- Thường nhớ tri túc - Tuệ là sự nghiệp
- Vui nghèo giữ đạo - Tuệ là sự nghiệp
Bài giảng thứ
V
inh tấn là căn bản để hàng phục ma chướng
Phiên âm:
Đệ tứ giác tri: Giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Đệ tứ giác tri: Giải đãi trụy lạc, thường hành tinh tấn, phá phiền não ác, tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ tư: Giải đãi phải sa đọa, nên thường hành tinh tấn, để phá phiền não ác, chiết phục cả bốn ma, ra khỏi ngục ấm giới.
Điều giác ngộ thứ tư: Giải đãi phải sa đọa, nên thường hành tinh tấn, để phá phiền não ác, chiết phục cả bốn ma, ra khỏi ngục ấm giới.
Giảng giải:
Tròng đời này, không luận làm việc gì cũng cần phải có tinh thần đại hùng, đại lực, đại vô úy mới có thể thành công. Chúng ta dù xây dựng sự nghiệp trong xã hội, hay tu học đạo nghiệp trong Phật Pháp, đều gặp không ít chướng ngại hay ma nạn. Nếu ta do dự không tiến tới, hoặc có chút ít giải đãi, sẽ không thành tựu được một việc gì cả! Nên trong đoạn Kinh này, chúng tôi sẽ giảng đến đề tài: Tinh tấn là căn bản để hàng phục ma chướng. Giải đãi là chỉ sự không hết lòng, hết sức trong việc đoạn ác tu thiện. Giải là căn thân mệt mỏi; đãi là tâm thức phóng túng. Giải đãi là căn bệnh chung của chúng sinh, mà thuốc trị nó chính là tinh tấn.
Tròng đời này, không luận làm việc gì cũng cần phải có tinh thần đại hùng, đại lực, đại vô úy mới có thể thành công. Chúng ta dù xây dựng sự nghiệp trong xã hội, hay tu học đạo nghiệp trong Phật Pháp, đều gặp không ít chướng ngại hay ma nạn. Nếu ta do dự không tiến tới, hoặc có chút ít giải đãi, sẽ không thành tựu được một việc gì cả! Nên trong đoạn Kinh này, chúng tôi sẽ giảng đến đề tài: Tinh tấn là căn bản để hàng phục ma chướng. Giải đãi là chỉ sự không hết lòng, hết sức trong việc đoạn ác tu thiện. Giải là căn thân mệt mỏi; đãi là tâm thức phóng túng. Giải đãi là căn bệnh chung của chúng sinh, mà thuốc trị nó chính là tinh tấn.
Tinh tấn có nghĩa: Tâm
thiện của chúng ta chưa phát sinh, thì nỗ lực khiến cho sớm phát sinh; tâm thiện
đã sinh, thì nỗ lực làm cho được tăng trưởng; niệm ác chưa sinh thì cố gắng giữ
đừng cho sinh; niệm ác đã sinh, thì cố gắng sớm dứt trừ. Thế gian này là cảnh
giới ma. Tinh tấn có thể thành Phật, giải đãi sẽ đọa vào ma giới.
Xem lại các bậc Thánh
hiền thành tựu đạo nghiệp thuở trước, không ai là chẳng trải qua một phen dùng
tử công phu. Chúng tôi sẽ nói về ngài A Na Luật, đương cơ của Kinh này.
Một hôm trong Pháp hội của Phật, Tôn giả A Na Luật bỗng bị hôn trầm, giải đãi che lấp tâm tính nên ngủ gục. Đức Phật thấy đệ tử giải đãi không tinh tấn như vậy liền gọi ngài tỉnh dậy, quở rằng:
Một hôm trong Pháp hội của Phật, Tôn giả A Na Luật bỗng bị hôn trầm, giải đãi che lấp tâm tính nên ngủ gục. Đức Phật thấy đệ tử giải đãi không tinh tấn như vậy liền gọi ngài tỉnh dậy, quở rằng:
Than ôi ông ham ngủ
Như sò ốc trong vỏ
Ngủ một giấc ngàn năm
Không nghe danh hiệu Phật!
Như sò ốc trong vỏ
Ngủ một giấc ngàn năm
Không nghe danh hiệu Phật!
A Na Luật nghe xong,
trong lòng rất hổ thẹn bèn phát nguyện từ nay về sau không ngủ nữa, mỗi ngày nếu
không kinh hành thì tụng Kinh. Một hai ngày không ngủ cũng không sao. Nhưng A
Na Luật thức liên tiếp nhiều ngày đã ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và nhất là con
mắt, song ngài vẫn quyết chí tinh tấn tu tập như vậy. Một thời gian sau, ngài
trở nên mù lòa.
Đức Phật thấy ngài vì
quá tinh tấn mà phải mù lòa nên rất thương, mới dạy ngài tu tập môn Kim Cương
Chiếu Minh Tam Muội. Chẳng bao lâu ngài chứng được thiên nhãn thông.
A Na Luật chỉ nghe
Phật dạy một câu mà tinh tấn như thế. Người ta nếu không bị tình dục làm mê
hoặc, sẽ không bị tà ma làm nhiễu loạn. Người học Phật nghe học Kinh Pháp, liễu
tri thật tướng vạn hữu, đây là được đại trí của Bồ tát Văn Thù. Nhưng lại phải
tinh tấn thực hành trí Bát nhã đó, mới có thể khế hợp với đại hạnh của Bồ tát
Phổ Hiền.
Tập khí của chúng sinh
là ưa nhàn nhã, thích hưởng thụ nên khó phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu đạo.
Đức Phật trong nhân tu quá khứ, từng xả thân cho cọp, cắt thịt cho chim ưng.
Đây là tâm tinh tấn, hy sinh, làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn.
Những kẻ phê bình Phật giáo là tiêu cực, làm sao có thể tưởng tượng hay thể hội
được điều này?
Bồ tát Quán Thế Âm
với:
Ba mươi hai tướng, hiện Ta bà
Độ khắp muôn loài, kiếp hằng sa.
Ngàn chỗ nguyện cầu, ngàn chỗ ứng
Thuyền từ biển khổ, độ người ra.
Ba mươi hai tướng, hiện Ta bà
Độ khắp muôn loài, kiếp hằng sa.
Ngàn chỗ nguyện cầu, ngàn chỗ ứng
Thuyền từ biển khổ, độ người ra.
Nếu người học Phật
không có tinh thần tinh tấn, làm sao làm được như vậy?
Bồ tát Địa Tạng với
lời nguyện:
Địa ngục chưa hết
Thề chưa thành Phật
Chúng sinh độ tận
Mới chứng Bồ Đề.
Thề chưa thành Phật
Chúng sinh độ tận
Mới chứng Bồ Đề.
Đây không phải là tinh
thần tinh tấn của bậc đại nhân, đại trí hay sao?
Thời nay người ta rủ
mình cờ bạc ăn tiền, nếu mình không theo, họ sẽ cho mình là tiêu cực! Mời mình
chè chén, khiêu vũ, mình không nhận lời, họ cho mình là thụ động! Bậc Thánh gải
tu học Bồ tát đạo, tinh tấn liễu thoát sinh tử, rộng độ chúng sinh. Tinh thần
tích cực này là điều mà người bình thường khó mà hiểu được!
Đại sư Huyền Tráng đi
Thiên Trúcc thỉnh Kinh, trải qua tám trăm dặm sa mạc, giữa đường thiếu nước cơ
hồ bỏ mình nơi haong mạc, song ngài vẫn nguyện: Thà đi về hướng Tây một bước
mà chết, quyết không quay về hướng Đông một bước mà sống! Nếu không phải là
người có nhiệt tình tôn giáo, tâm tinh tấn vì đạo, thì làm sao có thể làm được
việc như vậy?
Đại sư Tuệ Khả đến
tham bái Tổ sư Đạt Ma, đứng ngoài tuyết lạnh, chặt tay cầu Pháp mà vẫn không
thoái thất tâm tốt ban đầu. Thử hỏi, nếu không có tâm tinh tấn cầu Pháp, thì
làm sao có thể làm được như vậy? Trong Phật Pháp, Lục độ lấy tinh tấn làm chủ
yếu. Không luận bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, nếu không có
tinh tấn, thì không cách nào thành tựu Ba la mật.
Trong Kinh nói tinh
tấn có mười điều lợi ích:
1. Không bị lực lượng bên ngoài chiết phục.
2. Được chư Phật nhiếp thọ.
3. Chúng trời người kính ngưỡng.
4. Nghe được Chánh Pháp không quên.
5. Tìm biết được những điều chưa biết.
6. Tăng trưởng vô ngại biện tài.
7. Được an trú trong thiền định.
8. Ít bệnh, ít não, ít hoạn.
9. Ăn uống dễ dàng tiêu hóa.
10. Như hoa ưu đàm nở.
1. Không bị lực lượng bên ngoài chiết phục.
2. Được chư Phật nhiếp thọ.
3. Chúng trời người kính ngưỡng.
4. Nghe được Chánh Pháp không quên.
5. Tìm biết được những điều chưa biết.
6. Tăng trưởng vô ngại biện tài.
7. Được an trú trong thiền định.
8. Ít bệnh, ít não, ít hoạn.
9. Ăn uống dễ dàng tiêu hóa.
10. Như hoa ưu đàm nở.
Tinh tấn như cọ xát
cây lấy lửa, không thể dừng nghỉ giữa chừng. Tâm Bồ đề đã phát nếu không có sức
tinh tấn thường hằng thì khó mà duy trì được. Không luận làm điều gì, nếu không
có hằng tâm, tinh tấn, nghị lực, giữa chừng bỏ dở, thì chắc chắn không thu được
ích lợi, thành tựu được kết quả. Người ta gọi là: nhiệt tình lửa rơm.
Người không có tâm
tinh tấn thường hằng, làm việc với tâm thái nhiệt tình lửa rơm như vậy, thì làm
sao có thể thành công? Muốn tâm tinh tấn được lâu bền, phải có tinh thần như
Khổng Minh: Dốc lòng hết sức, đến chết mới thôi. Và thái độ: Chỉ lo cày bừa,
không nghĩ thu hoạch. Nếu người có tâm mong mau chóng thành tựu, hay cầu cái
lợi trước mắt, thì khi vừa gặp thất bại đã bỏ cuộc, mới bị thử thách liền nản
lòng. Người làm việc có đầu không đuôi, có thủy không có chung như vậy, là
không có tinh thần tinh tấn, không ngại gian lao, không nài khó nhọc.
Trong Kinh có thể một
đoạn ngụ ngôn:
Có một con chim anh vũ, thấy một khu núi rừng bị lửa thiêu cháy, thế lửa rất mạnh.
Có một con chim anh vũ, thấy một khu núi rừng bị lửa thiêu cháy, thế lửa rất mạnh.
Nó cảm thấy hết sức
đau lòng, thương cho các loài sinh vật trong đó, liền bay đến bờ sông dùng miệng
ngậm nước để cứu lửa. Việc làm này giống như đem nước một chén mà cứu lửa cả
xe, đương nhiên không giải quyết được vấn đề. Nhưng chim vẫn quyết tâm không từ
bỏ việc cứu lửa.
Lúc đó vị thần lửa trên trời biết được, liền hiện xuống nói với chim:
Lúc đó vị thần lửa trên trời biết được, liền hiện xuống nói với chim:
- Này chim anh vũ, thế
lửa lớn dường ấy mà ngươi chỉ dùng vài giọt nước ngậm trong miệng để dập tắt,
thì làm sao mà có kết quả? Đây không phải là việc tốn công vô ích hay sao?
Chim anh vũ đáp rằng:
Chim anh vũ đáp rằng:
- Cứu lửa đó là điều
mọi người nên làm hết trách nhiệm. Tuy sức tôi rất nhỏ, nhưng không thể không
tận tâm, tận lực.
Lời nói của chim anh
vũ rất bình thường, nhưng tráng chí của nó thật vĩ đại. Tinh thần dũng mãnh,
thấy khó khăn không lui bước này đã khiến thần lửa cảm động sâu xa, nên đã dập
tắt đám cháy đó giùm chim anh vũ.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị
Chương có tất cả sáu chương nói về người học đạo nên tinh tấn như thế nào.
Tinh tấn được chia làm
ba loại:
1. Phi giáp tinh tấn.
2. Nhiếp thiện pháp tinh tấn.
3. Lợi lạc hữu tình tinh tấn.
1. Phi giáp tinh tấn.
2. Nhiếp thiện pháp tinh tấn.
3. Lợi lạc hữu tình tinh tấn.
Sao gọi là phi giáp
(mặc áo giáp) tinh tấn? Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: Người học đạo như kẻ chiến
đấu với vạn người, mặc áo giáp ra trận, nếu ý khiếp nhược sẽ giữa đường thoái
lui, hoặc bị địch nhân giết chết; nếu tinh tấn dũng mãnh, không sợ gươm đao, thì
dấn thân vào chỗ chết để tìm ra đường sống, phá diệt các ma, mà được đạo quả.
Cho nên, mặc áo giáp tinh tấn là nói người tu phải có tinh thần chiến đấu với
các ác pháp.
Thế nào là nhiếp thiện
pháp tinh tấn?
Mặc áo giáp tinh tấn
là trừ ác, nhưng tinh tấn còn phải hoàn thành thiện pháp, đây gọi là nhiếp thiện
pháp tinh tấn. Không luận người xuất gia hay tại gia, khi tu tập thiện pháp
không nên quá gấp, cũng không nên quá chậm, cốt yếu vừa chừng là tốt. Gấp quá
thì bị sức phản động mà lui sụt. Chậm quá thì do giải đãi mà thoái đọa. Như
gảy đàn, dây đàn chùng thì âm thanh không vang đúng mức, dâng căng quá sẽ dễ
đứt. Vì vậy, việc tu thiện pháp không nên quá chậm, cũng không nên quá gấp.
Gấp hay châm đều là sai lầm, đệ nhất nghĩa trong Phật Pháp chính là trung đạo!
Thế nào là lợi lạc hữu
tình tinh tấn?
Người học Phật phải
phát tâm đại từ bi, độ khắp chúng sinh. Nhưng chúng sinh trong tam giới vô
lượng vô số, nếu không tinh tấn làm sao thực hiện được chí nguyện độ sinh? Ta
phải có tâm từ bi vô hạn, có chí độ sinh vô cùng, thì mới có thể tinh tấn không
thoái lui.
Chúng ta trên bước
đường tu học, thường hay mắc phải chứng bệnh: Căn thân mệt mỏi, tâm thức phóng
túng! Đây là do chưa nhận thức rõ thời gian và sinh mệnh trân quí biết chừng
nào. Chúng ta sống trong dòng thời gian, nghĩ rằng: Ngày nay trôi qua vẫn còn
ngày mai; năm nay không làm, còn có năm sau; tuổi trẻ không tu, hãy còn lúc già,
vì vậy mới luống qua thời gian, dần dà hết kiếp! Không ngờ, kết quả do thói
quen giải đãi, ỷ lại này, khiến ta phải chịu đoạ lạc, khổ đau!
Chúng ta nếu biết sinh
mệnh là trân quí, thời gian qua rồi không trở lại, thì phải luôn khắc ghi trong
tâm hai chữ vô thường, không một giây phút chần chờ, không một ý niệm xao lãng,
trực tâm hướng về chính đạo.
Thuở xưa, đức Phật hỏi
các đệ tử:
- Mạng người trong bao lâu?
- Mạng người trong bao lâu?
Một đệ tử đáp:
- Trong vài ngày!
Đức Phật lắc đầu bảo:
- Ông chưa hiểu đạo.
Ngài lại hỏi một vị
khác:
- Mạng người trong bao
lâu?
- Mạng người trong khoảng bữa ăn.
- Mạng người trong khoảng bữa ăn.
Phật cũng lắc đầu bảo:
- Ông chưa hiểu đạo!
Rồi ngài lại hỏi một
vị khác:
- Mạng người trong bao lâu?
- Mạng người trong bao lâu?
Vị này đáp:
- Mạng người trong hơi thở!
- Mạng người trong hơi thở!
Đức Phật vô cùng hoan
hỉ, khen rằng:
- Lành thay! Ông hiểu
được đạo!
Người biết giác ngộ
mạng sống trong khoảng hơi thở, thì đối với việc tu đạo, hành thiện sao dám giải
đãi? Đối với việc tu đạo hành thiện, nếu không nỗ lực tinh tấn, làm sao có thể
thành tựu? Tinh là chuyên ròng không tạp; tấn là tiến mãi không lui. Mục đích
của tinh tấn là phá phiền não ác, hàng phục bốn ma, ra ngục ấm giới.
Trời đất lâu dài có
lúc hoại, phiền não miên man không tận cùng! Phiền não vô minh vốn câu sinh với
ta, nằm sẵn trong tâm, khiến chúng sinh không thoát khỏi luân hồi, sinh tử. Học
Phật, việc lớn nhất là phá phiền não ác. Phiền não là chỉ phiền tâm và não
thân. Phiền não còn nguy hiểm hơn oán tặc, cường đạo, thổ phỉ. Cổ nhân bảo:
Bắt giặc trong núi dễ, dẹp giặc trong lòng khó. Cuộc sống bất an, đau khổ, đều
do phiền não gây ra cả!
Phật Pháp có tám muôn
bốn ngàn Pháp môn là để đối trị tám muôn bốn ngàn phiền não. Lấy bất tịnh quán
để đối trị tham dục, lấy từ bi đối trị sân hận, lấy vô ngã đối trị kiêu mạn, lấy
chánh tín đối trị nghi hoặc, lấy chánh kiến đối trị tà kiến. Phiền não tóm lại
có sáu loại căn bản: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ngoài sáu loại căn bản
phiền não này ra, còn có hai mươi loại tuỳ phiền não.
Căn bản phiền não như
rễ cây, nó là gốc rễ của tất cả phiền não. Trong hai mươi tùy phiền não, lại
chia ra có mười tiểu phiền não, hai trung phiền não và tám đại phiền não. Mười
tiểu phiền não là: phẫn nộ, cừu hận, kết oán, giả dối, gian trá, siểm khúc, ngạo
mạn, bạch hại, tật đố, tự tư.
Hai trung phiền não là: Vô tàm, vô quí.
Hai trung phiền não là: Vô tàm, vô quí.
Tám đại phiền não là:
bất tín, giải đãi, phóng dật, hôn trầm, trạo cử, thất niệm, tán loạn, bất chánh
tri.
Chúng ta sở dĩ không nhận ra được bản tính chân như của mình, là do phiền não che lấp ánh sáng tâm thể. Chúng ta sống trong nguy hiểm, lo sợ, là do phiền não nhiễu loạn. Cội gốc của tất cả phiền não chính là ngã chấp. Chúng sinh do chấp ngã nên tất cả phiền não mới dấy khởi. Cho nên cổ đức nói: Muốn học Phật Pháp, trước hết hãy vô ngã. Tu chứng được cảnh giới vô ngã, cũng chính là đạt được cảnh giới không còn phiền não.
Chúng ta sở dĩ không nhận ra được bản tính chân như của mình, là do phiền não che lấp ánh sáng tâm thể. Chúng ta sống trong nguy hiểm, lo sợ, là do phiền não nhiễu loạn. Cội gốc của tất cả phiền não chính là ngã chấp. Chúng sinh do chấp ngã nên tất cả phiền não mới dấy khởi. Cho nên cổ đức nói: Muốn học Phật Pháp, trước hết hãy vô ngã. Tu chứng được cảnh giới vô ngã, cũng chính là đạt được cảnh giới không còn phiền não.
Ngã chấp đây là căn
bản của phiền não sinh tử. Vô ngã là điều khó thực hiện biết bao! Ngã chấp
không trừ, thì phiền não ác không thể phá được. Cách phá phiền não ác là trước
phải tu tập ba môn vô lậu học: giới - định - tuệ, kế nữa là niệm Thánh hiệu Phật
A Di Đà thì phiền não ác sẽ từ từ được phá trừ, bản lai diện mục của chúng ta
dần dần được hiển lộ.
Phiền não phá rồi lại
còn phải hàng ma. Những gì có thể làm hư hoại thiện căn, dứt mất tuệ mạng của
chúng sinh, đều gọi là ma. Những chướng ngại, nhiễu loạn, phá hoại, dụ hoặc hay
cướp đoạt tuệ mạng đều gọi là ma. Ngoại cảnh có ma: sắc thanh danh lợi; trong
tâm có ma: tham sân phiền não. Không có tinh thần hàng phục ma thì không thể tu
đạo. Ma có mặt khắp mọi nơi, nhưng nguy hiểm nhất lại là ma ẩn tàng ngay trong
tâm chúng ta! Trong các tu viện lớn, tượng Bồ tát Vi Đà tay cầm chày hàng ma
đứng mặt ngó vào mình, cho thấy hàng phục nội ma quan trọng hơn hàng phục ngoại
ma!
Phật giáo suy vi,
những vị mang tâm niệm tiếp nối làm hưng thịnh hạt giống Phật, khiến Chánh Pháp
cửu trụ Ta bà, thật hiếm có người! Còn hạng mặc áo Phật, ăn cơm Phật, mượn danh
là đệ tử Phật để mua bán Như Lai, thì ma con, ma cháu rất đông. Làm người con
Phật chân chánh, ngày nay phải có tinh thần khiêu chiến với ma! Thời mạt Pháp,
cách Thánh lâu xa thì Phật cao một thước, ma cao một trượng! Mong rằng đệ tử
chánh tín của Phật thời nay phải học theo Bồ tát Vi Đà, tay cầm chày hàng ma,
tuân theo lời dạy Kinh này để hàng phục tất cả ma quỷ chướng đạo!
Kinh văn nói: Hàng
phục bốn ma. Bốn ma đó là:
1. Phiền não ma: Đây
là chỉ tập khí tham sân si v.v... làm não hại thân tâm.
2. Ngũ ấm ma: Đây là chỉ năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra tất cả đau khổ.
3. Tử ma: Đây là chỉ sự chấm dứt mạng căn sinh tồn của chúng sinh.
4. Thiên ma: Đây chỉ thiên ma ngoại đạo làm hư hoại thiện căn của chúng sinh, như ma vương ở cõi trời Tự tại dục giới.
2. Ngũ ấm ma: Đây là chỉ năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra tất cả đau khổ.
3. Tử ma: Đây là chỉ sự chấm dứt mạng căn sinh tồn của chúng sinh.
4. Thiên ma: Đây chỉ thiên ma ngoại đạo làm hư hoại thiện căn của chúng sinh, như ma vương ở cõi trời Tự tại dục giới.
Trong Tiểu Chỉ Quán và
Khởi Tín Sớ v.v... đều nói cách hàng phục bốn ma là trì niệm Thánh hiệu đức Phật
A Di Đà, hay xưng niệm tam quy, ngũ giới, hoặc tụng Bát Nhã Tâm Kinh. Đức Phật
Thích Ca khi ngồi trên tòa kim cương dưới cội Bồ đề, trước phải hàng phục ma,
rồi sau mới thành đạo!
Phiền não khiến chúng
ta gây tạo tội ác đã phá trừ; ma chướng làm nhiễu loạn đạo nghiệp của chúng ta
đã hàng phục, thì có thể ra khỏi luân hồi sinh tử, giải thoát lao tù ngũ ấm, tam
giới!
Ngũ ấm là chỉ sắc thân
do ngũ uẩn hòa hợp của loài hữu tình. Ấm có nghĩa là che ngăn, vì sắc thọ tưởng
hành thức thường ngăn che chân như Phật tánh của chúng hữu tình. Tam giới chỉ
dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Ngũ ấm như chỗ tụ họp
của các khổ, ba cõi như ngôi nhà đang bốc chá. Thân tâm, thế giới đều vô thường
không thật, như lao ngục không thể nương cậy. Phải phá phiền não ác, hàng phục
bốn ma, mới có thể ra khỏi ngục ấm giới!
Chúng sinh phải tinh
tấn tu đạo, không được giải đãi, buông xả thân năm ấm, ra khỏi nhà ngục tam
giới, chứng đắc pháp thân thường trú, an nhiên tự tại, mới là cảnh giới an ổn,
giải thoát, quang minh!
Dịch thơ:
Điều thứ tư phải luôn ghi nhớ
Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm
Quen theo thói tục lạc lầm
Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau.
Nên thường phải dồi trau tinh tấn
Dũng mãnh tu phá những não phiền
Bốn ma hàng phục bình yên
Khỏi ngục ấm giới về miền chân như.
Điều thứ tư phải luôn ghi nhớ
Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm
Quen theo thói tục lạc lầm
Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau.
Nên thường phải dồi trau tinh tấn
Dũng mãnh tu phá những não phiền
Bốn ma hàng phục bình yên
Khỏi ngục ấm giới về miền chân như.
Biểu đồ 5: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ IV
Điều giác ngộ thứ tư:
- Phàm phu -- Giải đãi -- Đọa lạc -- Sinh tử luân hồi.
- Bồ tát
- Tinh tấn -- Phá phiền não ác -- Khỏi ngục ấm giới.
- Hàng phục bốn ma -- Phá phiền não ác - Khỏi ngục ấm giới.
Bài giảng thứ
VI
Trí tuệ là căn bản để chuyển hóa ngu mê
Phiên
âm:
Đệ ngũ giác ngộ: Ngu si sinh tử, Bồ tát thường niệm: Quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hoá nhất thiết, tất dĩ đại lạc.
Đệ ngũ giác ngộ: Ngu si sinh tử, Bồ tát thường niệm: Quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hoá nhất thiết, tất dĩ đại lạc.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ năm: Ngu si phải sinh tử, nên Bồ tát thường nhớ: Luôn học rộng nghe nhiều, để tăng trưởng trí tuệ, và thành tựu biện tài, rồi đem niềm vui lớn, giáo hóa cho tất cả.
Điều giác ngộ thứ năm: Ngu si phải sinh tử, nên Bồ tát thường nhớ: Luôn học rộng nghe nhiều, để tăng trưởng trí tuệ, và thành tựu biện tài, rồi đem niềm vui lớn, giáo hóa cho tất cả.
Giảng giải:
Điều thứ năm mà bậc Đại nhân tu học Bồ tát đạo, lo sự nghiệp liễu sinh thoát tử cần phải giác ngộ là: Do ngu si mới lưu chuyển trong sinh tử. Để đối trị ngu si, cần phải tăng trưởng trí tuệ. Ở đây, nên nói qua quan điểm của Phật giáo về tri thức như thế nào.
Điều thứ năm mà bậc Đại nhân tu học Bồ tát đạo, lo sự nghiệp liễu sinh thoát tử cần phải giác ngộ là: Do ngu si mới lưu chuyển trong sinh tử. Để đối trị ngu si, cần phải tăng trưởng trí tuệ. Ở đây, nên nói qua quan điểm của Phật giáo về tri thức như thế nào.
Phật giáo không phải
là tôn giáo không coi trọng lý luận. Phật giáo là tôn giáo tri thức và đức
hạnh. Trong xã hội, học vấn, kỹ năng được xem là điều cần thiết cho cuộc sống,
nó có thể giải quyết được những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng người có
học vấn, có kỹ năng không nhất định có được cuộc sống hạnh phúc. Cho là thông
đạt được tất cả khoa học, triết học, văn học trong thế gian, cũng chỉ là hiểu
biết ngọn ngành; đối với vũ trụ, nhân sinh vẫn không thể hiểu biết một cách
triệt để.
Tri thức thế gian là
hữu lậu học, Phật Pháp mới là vô lậu học. Tri thức thế gian lợi và hại ngang
nhau, như khoa học một mặt tạo phước cho nhân loại, mặt khác lại làm hại cho
nhân loại, như vũ khí hạt nhân, hóa học, vi trùng, v.v... đều là sản phẩm của
tri thức khoa học. Phật giáo cũng có tri thức, nhưng tri thức Phật giáo tuyệt
đối có ích mà không có hại. Tri thức Phật giáo là trí tuệ Bát nhã. Trí tuệ Bát
nhã là tri thức do trừ bỏ lòng ích kỷ, tự tư, nghiệm chứng được trí tuệ trong
tâm; không như tri thức thế gian, do tìm hiểu hiện tượng bên ngoài mà có. Theo
Phật giáo, người ta sở dĩ không thể liễu sinh thoát tử, đều do ngu si mà ra.
Ngu si cũng không phải
là hoàn toàn không có tri thức. Chúng ta tìm hiểu chữ si trong chữ ngu si sẽ
thấy: Chữ si vốn có chữ tri trong chữ tri thức. Nhưng trên chữ si này lại có bộ
nạch bệnh tật. Ý nói tri thức bệnh hoạn là ngu si.
Ngu si thì tâm tánh ám
muội, không có trí tuệ để thấu hiểu sự lý, nên cũng gọi là vô minh. Do nơi ngu
si nên khởi hoặc tạo nghiệp, luân hồi sinh tử, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, không
thể giải thoát, không nhận thức được mình, đều do ngu si mà ra.
Ngu si có ngu si về
kiến giải (kiến hoặc) và ngu si về tư tưởng (tư hoặc).
Ngu si về kiến giải có
năm loại:
1. Thân kiến, 2. Biên kiến, 3. Tà kiến, 4. Giới thủ kiến, 5. Kiến thủ kiến.
Ngu si về tư tưởng cũng có năm loại, chính là năm căn bản phiền não mà văn trên đã giảng:
1. Tham dục, 2. Sân hận, 3. Ngu si, 4. Kiêu mạn, 5. Nghi hoặc.
1. Thân kiến, 2. Biên kiến, 3. Tà kiến, 4. Giới thủ kiến, 5. Kiến thủ kiến.
Ngu si về tư tưởng cũng có năm loại, chính là năm căn bản phiền não mà văn trên đã giảng:
1. Tham dục, 2. Sân hận, 3. Ngu si, 4. Kiêu mạn, 5. Nghi hoặc.
Trước hết sẽ giải
thích ngu si về kiến giải của chúng sinh.
Người ta ai cũng ái
chấp năm uẩn của mình là ngã; vật ngoài thân là sở hữu cả ngã. Họ không biết
rằng thân mình là do nhân duyên bốn đại, năm uẩn hòa hợp mà thành; vật ngoài
thân cũng là huyễn cảnh, vô thường chẳng thể bền lâu. Thân và vật rõ ràng là do
nhân duyên hòa hợp mà giả có, chúng sinh lại lấy giả dối làm chân thật, đó gọi
là thân kiến.
Có người cho rằng chết
là hết, tất cả sẽ không còn, người chết như đèn tắt. Có người cho rằng người
chết rồi vẫn còn là linh hồn người; trâu ngựa heo dê sau khi chết vẫn còn linh
hồn trâu ngựa heo dê. Những kiến giải chấp thường, chấp đoạn, thiên lệch một
bên như thế, gọi là biên kiến.
Lại có một số người
thấy mặt trời, trăng sao vận chuyển, gió mưa, điện chớp đúng thời, liền nghĩ
rằng: Nhất định phải có đấng thượng đế toàn năng điều khiển. Tin vào thượng đế
vạn năng, bài báng không có nhân quả, không hiểu được các pháp duyên khởi, đây
gọi là tà kiến.
Lại có một số người
chấp giữ những giới điều phi lý, cho rằng đây là cách sinh lên cõi trời để hưởng
thụ an lạc. Như một số ngoại đạo tu học khổ hạnh vô ích, hay giết hại sinh vật
để cúng tế. Đây gọi là giới thủ kiến.
Chấp trước một hay
nhiều kiến giải như trên, lầm tưởng mê vọng cho là chân lý cứu cánh, đây gọi là
kiến thủ kiến.
Kế đây sẽ giải thích
ngu si về tư tưởng.
Gặp được những gì mình
yêu thích liền khởi tâm tham trước. Nhân tâm tham ái mà sinh tâm keo kiệt. Do
tâm có tham lam về ngã (ngã tham), ái luyến về ngã (ngã ái) nên hình thành tâm
tự tư, đây gọi là tham dục.
Gặp chuyện trái ngang
liền sinh tâm sân hận. Phàm không biết nhẫn nại, sinh ra tranh cãi, hơn thua
với người, hoặc âm mưu làm hại, oán trời trách người, đều gọi là sân hận.
Không biết thức tỉnh,
sáng suốt suy xét, lung lòng mặc ý chạy theo vật dục, không thích nghe điều
thiện, lại ham làm việc ác. Như ta khuyên người tu học, làm phước, họ lại cho
là mê tín, vô ích; còn kẻ rủ rê họ rượu chè, bài bạc, thì lại được khen là có
giao tình! Mê muội, điên đảo như vậy gọi là ngu si.
Thấy mình hơn người, ỷ
mình lấn hiếp người khác, có bảy loại tất cả: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã
mạn, tăng thượng mạn, ti mạn, tà mạn,... đều gọi là kiêu mạn. Đối với sự lý
chân thật còn do dự không quyết định, đối với chân lý không khởi chánh tín, đem
phàm tình so lường Thánh trí, đó là nghi hoặc.
Chúng sinh vì có ngu
si về kiến giải, ngu si về tư tưởng như trên, nên phải chịu luân hồi sinh tử.
Sinh tử cũng có chia ra phần đoạn sinh tử và biến dị sinh tử. Sinh tử trong sáu
nẻo luân hồi, do nghiệp thiện ác hữu lậu chiêu cảm ra thân quả báo, khi này khi
khác.
------------------------------
Mạn có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 43; Câu Xá Luận quyển 19 nói mạn có bảy loại: 1. Mạn: Đối với người kém hơn, cho rằng mình hơn họ; đối với người bằng mình, cho rằng mình bằng họ, nên khởi tâm cao mạn. 2. Quá mạn: Đối với người bằng mình, lại cho là mình hơn họ; đối với người hơn mình, lại cho mình bằng họ. 3. Mạn quá mạn: Đối với người hơn mình, lại cho rằng mình hơn họ. 4. Ngã mạn: Đây là cái mạn căn bản của bảy loại mạn. Đó là đối với thân do năm uẩn hòa hợp, do chấp trước ngã, ngã sở, ỷ vào cái ngã này nên khởi lòng cao mạn. Bên trong chấp ngã, nên cho rằng tất cả đều không bằng ta; bên ngoài chấp ngã sở (cái của ta), nên phàm cái của ta bao giờ cũng hơn cái của người. 5. Tăng thượng mạn: Đối với những quả vị hay đức hạnh mà mình chưa chứng đắc, lại cho rằng mình đã chứng. 6. Ti mạn: Đối với người vượt hơn mình rất xa, lại cho rằng chỉ hơn mình không bao nhiêu; hay tuy thừa nhận người đó hơn mình xa, mình rất kém cõi, song không chịu khiêm tốn học hỏi. 7. Tà mạn: Không có đức độ, mà lại cho rằng mình có đức độ.
---------------------------
------------------------------
Mạn có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 43; Câu Xá Luận quyển 19 nói mạn có bảy loại: 1. Mạn: Đối với người kém hơn, cho rằng mình hơn họ; đối với người bằng mình, cho rằng mình bằng họ, nên khởi tâm cao mạn. 2. Quá mạn: Đối với người bằng mình, lại cho là mình hơn họ; đối với người hơn mình, lại cho mình bằng họ. 3. Mạn quá mạn: Đối với người hơn mình, lại cho rằng mình hơn họ. 4. Ngã mạn: Đây là cái mạn căn bản của bảy loại mạn. Đó là đối với thân do năm uẩn hòa hợp, do chấp trước ngã, ngã sở, ỷ vào cái ngã này nên khởi lòng cao mạn. Bên trong chấp ngã, nên cho rằng tất cả đều không bằng ta; bên ngoài chấp ngã sở (cái của ta), nên phàm cái của ta bao giờ cũng hơn cái của người. 5. Tăng thượng mạn: Đối với những quả vị hay đức hạnh mà mình chưa chứng đắc, lại cho rằng mình đã chứng. 6. Ti mạn: Đối với người vượt hơn mình rất xa, lại cho rằng chỉ hơn mình không bao nhiêu; hay tuy thừa nhận người đó hơn mình xa, mình rất kém cõi, song không chịu khiêm tốn học hỏi. 7. Tà mạn: Không có đức độ, mà lại cho rằng mình có đức độ.
---------------------------
Đó gọi là phần đoạn
sinh tử. Các bậc Thánh giả tuy hết phần đoạn sinh tử, song khi chưa chứng được
quả Phật cứu cánh, vẫn còn biến dịch sinh tử. Sinh tử này không có hình sắc đẹp
xấu, cũng không có thọ mạng dài ngắn, mà chỉ là sự chấm dứt mê tưởng, chứng ngộ
pháp thân trong từng giai đoạn. Sự thay đổi từng giai đoạn từ mê đến ngộ này,
gọi là biến dị sinh tử.
Bồ tát giác ngộ nhất
định phải tìm cách chấm dứt ngu si và sinh tử. Bồ tát mong mỏi học rộng pháp
thế gian và xuất thế gian, nghe nhiều Thánh giáo, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu
vô ngại biện tài, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho mọi người đều được hạnh
phúc, đem niềm hoan hỷ chan hòa khắp trong cuộc đời.
Trong Kinh nói đến ngu
si liền đem bóng tối ra ví dụ, và trí tuệ được biểu trưng bằng ánh sáng. Bồ tát
học rộng nghe nhiều thì ánh sáng trí tuệ lần lần tăng trưởng, đẩy lui bóng tối
ngu si. Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói: "Phàm người thấy đạo như cầm đuốc đi vào
phòng tối, bóng tối liền tan, chỉ còn ánh sáng; cũng vậy, học đạo thấy được chân
lý, vô mình liền diệt mà tuệ giác còn mãi." Cho nên, trí tuệ là con thuyền kiên
cố, vượt qua biển cả sinh già bệnh chết; là ngọn đèn sáng lớn, phá tan bóng tối
vô minh; là phương thuốc hay, trị lành tất cả tâm bệnh; là chiếc búa bén, đốn
ngã cội cây phiền não. Vì vậy, nói Phật học, có nghĩa là tuệ học.
Ba môn vô lậu học của
Phật giáo là giới định tuệ. Tuệ có ba loại: Trí tuệ do nghe Pháp thành
tựu (văn sở thành tuệ), trí tuệ do tư duy thành tựu (tư sở thành
tuệ), trí tuệ do tu tập thành tựu (tư sở thành tuệ, tu sở thành tuệ).
Thái Hư đại sư từng nói: Từ trí tuệ do nghe Pháp thành tựu mà xây dựng lòng tin;
từ trí tuệ do tư duy thành tựu mà nghiêm trì cấm giới; từ trí tuệ do tu tập
thành tựu mà tương ưng định tâm.
Tại sao nói: Từ trí tuệ do nghe Pháp thành tựu mà xây dựng lòng tin?
Tại sao nói: Từ trí tuệ do nghe Pháp thành tựu mà xây dựng lòng tin?
Vì nhờ nghe Phật Pháp,
mới khai mở trí tuệ, hiểu rõ Chánh Pháp; nhờ hiểu rõ nên sinh lòng kiêu cố. Cho
nên cổ đức nói: "Phật Pháp như biển cả, chỉ có lòng tin mới có thể vào được."
Đến với Phật giáo, bước trước nhất phải có lòng tin. Lòng tin này nhất định
phải được xây dựng trên sự nghe hiểu Phật Pháp. Nếu chưa nghe hiểu Phật Pháp,
chưa nghiên cứu Kinh luận, chưa thông hiểu đạo lý căn bản trong đó, thì không
thể nào có lòng tin chân chánh được.
Vì sao nói: Từ trí tuệ
do tư duy thành tựu mà nghiêm trì cấm giới?
Nhờ nghe Phật Pháp mà
sinh khởi lòng tin, rồi từ lòng tin mà có sự tư duy, tìm hiểu Chánh Pháp, nhận
thấy đúng đắn, có ích lợi, nên tuân thủ, làm theo. Lấy trí tuệ do nghe thành
tựu để thể nghiệm hành vi của mình trong khi khởi tâm động niệm; cũng lấy đó làm
tiêu chuẩn để phân định thiện ác, đúng sai, rồi lần lần sửa đổi những tư duy sai
lạc, những thói quen không tốt trong cuộc sống. Như thế, đối với Chánh Pháp,
càng lúc càng thể nghiệm, liễu tri sâu sắc hơn, đó gọi là trí tuệ do tư duy
thành hợp nhất. Trí tuệ do nghe thành tựu là trí tuệ tri hành hợp nhất, hạnh
giải tương ưng; là trí tuệ đoạn trừ hết mọi việc ác, thực hiện tất cả điều lành,
có thể hoàn thành giới hạnh. Cho nên nói: Từ trí tuệ do tư duy thành tựu mà
nghiêm trì cấm giới.
Vì sao nói: Từ trí tuệ
do tu tập thành tựu mà tương ưng định tâm?
Trí tuệ do nghe thành
tựu là tin hiểu (tín giải); trí tuệ do hành trì thành tựu là hành trì. Dựa trên
cơ sở đó tu tập, rèn luyện tâm ý đến mức độ thành thục, sẽ được định tâm. Khi
thân tâm an trú ở thiền định sẽ cảm thấy vô cùng khinh an, vắng lặng, đoạn tận
mọi phiền não. Đây chính là: Từ trí tuệ do tu tập thành tựu mà tương ưng định
tâm.
Hàng Bồ tát sơ học
muốn tăng trưởng trí tuệ, trước hết phải học rộng nghe nhiều. Học rộng nghĩa là
rộng tu học giới, định, tuệ, không nên có thành kiến môn bộ, hay cậy mình chê
người. Ngày nay có một số người tu học Phật Pháp, nếu là người niệm Phật thì
bảo ngoài Kinh A Di Đà ra không cần phải xem các Kinh khác; người tham thiền lại
bảo không cần niệm Phật làm gì! Đây thật là trái ý chỉ Bồ tát học rộng quá xa!
Bình thường tôi đi
hành cước các nơi cũng thường nghe người ta hỏi tôi tu học theo tông nào. Vấn
đề này tôi thật khó trả lời. Phật Pháp đâu cần nhất định phải nhìn bằng con mắt
tông phái! Phật Pháp là toàn thể, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, cần gì phải
phân tôn, lập phái, để rồi tự tôn tự đắc!
Bồ tát không những phải học rộng Kinh Luật Luận ra, lại còn phải nghe nhiều Chánh Pháp. Nghe nhiều (đa văn) là dựa vào nhĩ căn. Trong các căn, nhĩ căn thông lợi hơn cả. Kinh Lăng Nghiêm nói Bồ tát Quán Âm có nhĩ căn viên thông, do vì tai hơn hẳn mắt. Tai có ba món chân thật:
Bồ tát không những phải học rộng Kinh Luật Luận ra, lại còn phải nghe nhiều Chánh Pháp. Nghe nhiều (đa văn) là dựa vào nhĩ căn. Trong các căn, nhĩ căn thông lợi hơn cả. Kinh Lăng Nghiêm nói Bồ tát Quán Âm có nhĩ căn viên thông, do vì tai hơn hẳn mắt. Tai có ba món chân thật:
1. Thông chân thật:
Đây là nói mắt có chướng ngại thì không thể thấy, còn tai có chướng ngại thì vẫn
có thể nghe được âm thanh.
2. Viên chân thật: Đây là nói mắt chỉ có thể xem một hướng phía trước, còn tai có thể đồng thời nghe âm thanh mười phương truyền đến.
3. Thường chân thật: Từ quá khứ truyền đến hiện tại, từ hiện tại truyền đến vị lai, đều nhờ sự nghe biết của nhĩ căn.
2. Viên chân thật: Đây là nói mắt chỉ có thể xem một hướng phía trước, còn tai có thể đồng thời nghe âm thanh mười phương truyền đến.
3. Thường chân thật: Từ quá khứ truyền đến hiện tại, từ hiện tại truyền đến vị lai, đều nhờ sự nghe biết của nhĩ căn.
Tu học Phật Pháp, học
rộng là điều vô cùng quan trọng, mà nghe nhiều, huân tập Chánh Pháp cũng là việc
hết sức cần thiết. Một vị Bồ tát học rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệ, mục
đích không phải chỉ vì giải thoát cho mình, mà còn vì thành tựu biện tài, giáo
hóa tất cả, khiến mọi loài chúng sinh đều được đại an lạc.
Muốn thuyết pháp độ sinh, chủ yếu phải có vô ngại biện tài. Biện tài không phải là biện luận, không phải là thế trí biện thông. Biện luận hay thế trí biện thông chẳng qua là dùng xảo biện để chiết phục đối phương; còn biện tài của Bồ tát là từ trong trí tuệ văn tư tu hun đúc mà lưu xuất ra.
Muốn thuyết pháp độ sinh, chủ yếu phải có vô ngại biện tài. Biện tài không phải là biện luận, không phải là thế trí biện thông. Biện luận hay thế trí biện thông chẳng qua là dùng xảo biện để chiết phục đối phương; còn biện tài của Bồ tát là từ trong trí tuệ văn tư tu hun đúc mà lưu xuất ra.
Nói đến biện tài chúng
ta không nên cho rằng nói thao thao bất tuyệt là vô ngại biện tài. Có khi ta
nói càng nhiều, lại càng làm cho người nghe đã không hoan hỉ, lại còn chán ghét!
Đại triết gia Socrates
dạy phương pháp diễn giảng cho thanh niên. Học phí mỗi người là mười đồng. Một
hôm, có một thanh niên đến ghi danh. Sau khi đóng học phí, anh ta nói với
Socrates đủ thứ chuyện, nào là vì sao anh ta phải học diễn giảng, cho đến học
tập diễn giảng có lợi ích gì, v.v... Đợi một hồi lâu, đến lúc anh ta nói xong,
Socrates lại đòi thêm mười đồng học phí nữa. Anh ta rất không vừa lòng hỏi:
- Người khác đến học
diễn giảng, thầy đều lấy có mười đồng học phí, tại sao lại đòi em thêm mười
đồng?
Socrates thong thả trả lời:
Socrates thong thả trả lời:
- Người khác trả mười
đồng học phí, vì tôi chỉ dạy cho họ cách diễn giảng. Nay sở dĩ thu học phí anh
gấp đôi, vì tôi chẳng những dạy anh biết cách ăn nói, mà còn phải dạy anh biết
cách im lặng!
Không có chuyện gì mà
lải nhải nói mãi, khiến người ta phát chán, bắt họ phải bị nghe, thật là việc
rất khổ não!
Trong Kinh Duy Ma ghi:
Cư sĩ Duy Ma thị hiện bệnh tật, có rất nhiều Bồ tát, La hán đến thăm bệnh ông.
Trước giường bệnh, các vị cùng bàn luận về pháp môn bất nhị. Thế nào là pháp
môn bất nhị?
Sau khi ba mươi mốt vị Bồ tát trình bày qua ý kiến của mình, ngài Duy Ma hỏi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:
Sau khi ba mươi mốt vị Bồ tát trình bày qua ý kiến của mình, ngài Duy Ma hỏi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:
- Thế nào là Bồ tát
nhập Pháp môn bất nhị?
Bồ tát Văn Thù đáp:
- Theo ý tôi, đối với
tất cả pháp không ngôn ngữ, không thuyết minh, không chỉ bày, không phân biệt,
lìa các vấn đáp, đó là nhập Pháp môn bất nhị.
Kế đó Bồ tát Văn Thù
lại hỏi cư sĩ Duy Ma:
- Chúng tôi ai nấy đã
nói rồi, xin nhân giả nói thế nào là Bồ tát nhập Pháp môn bất nhị?
Lúc đó, Duy Ma im lặng
không nói.
Văn Thù Sư Lợi liền
khen ngợi:
- Lành thay! Lành
thay! Cho đến không có văn tự, ngữ ngôn, mới thực sự nhập Pháp môn bất nhị!
Chỗ này thật sinh động biết bao! Khéo léo biết bao! Dùng vô ngôn mà nói, vô ngại biện tài đến như vậy thật vô cùng tuyệt diệu! Qua đó có thể thấy, thuyết pháp không phải ở nói nhiều.
Chỗ này thật sinh động biết bao! Khéo léo biết bao! Dùng vô ngôn mà nói, vô ngại biện tài đến như vậy thật vô cùng tuyệt diệu! Qua đó có thể thấy, thuyết pháp không phải ở nói nhiều.
Đương nhiên, vô ngôn
biện tài là cảnh giới cao nhất của ngôn ngữ. Trong Kinh Đại Bát Nhã ghi lại:
Tôn giả Tu Bồ Đề là vị khéo nói nghĩa không, một hôm đang ngồi yên trong núi
rừng, bổng thấy rất nhiều chư thiên đang rải hoa cúng dường giữa hư không.
Những đóa hoa trời ngũ sắc rơi đầy bên mình, tôn giả thấy vậy hỏi:
- Ai đang rải hoa thế?
- Thưa tôn giả, tôi là
trời Đế Thích. Vì ngài khéo nói lý không Bát Nhã nên tôi mang hoa đến rải cúng
dường.
Tu Bồ Đề đáp:
- Tôi ngồi yên vốn không có nói.
- Ngài đã không nói, tôi cũng không nghe.
- Thế tại sao lại rải hoa cúng dường?
- Không nói, không nghe mới là Bát Nhã chân thật!
- Tôi ngồi yên vốn không có nói.
- Ngài đã không nói, tôi cũng không nghe.
- Thế tại sao lại rải hoa cúng dường?
- Không nói, không nghe mới là Bát Nhã chân thật!
Qua đó chúng ta có thể
thấy, thánh giả Bồ tát thành tựu biện tài, không phải là suốt ngày nói đến ăn mà
bụng lại đói; đếm châu báu, song là của người khác, còn mình thực sự không được
chút lợi ích nào! Như Tu Bồ Đề không có mở miệng mà trời Đế Thích khen ngài
thuyết Bát Nhã hay quá. Không nói mà nói, đây mới là biện tài chân chính!
Biện tài được chia làm
bốn loại:
1. Pháp vô ngại biện tài: Là thông suốt không ngăn ngại đối với ngôn ngữ, văn tự trong giáo pháp.
2. Nghĩa vô ngại biện tài: Là thông suốt không ngăn ngại đối với nghĩa lý chứa đựng trong giáo pháp.
3. Từ vô ngại biện tài: Là tinh thông, lưu loát đối với các ngôn ngữ, văn tự.
4. Nhạo thuyết vô ngại biện tài: Là có trí tuệ về ba loại biện tài trên, nên có thể thuyết pháp một cách an lạc, tự tại, khiến chúng sinh được giác ngộ, hạnh phúc.
Biểu đồ 6: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ V
Điều giác ngộ thứ năm
- Phàm phu - Ngu si nên sinh tử
- Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến
- Tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, nghi hoặc
- Bồ tát
- Tự lợi - Đều cho niềm vui lớn.
- Cầu giải thoát: Học rộng Giới Định Tuệ
- Khai trí tuệ: Nghe nhiều Văn Tư Tu
- Lợi tha - Đều cho niềm vui lớn.
- Thuyết pháp: Thành tựu biện tài: Pháp, nghĩa, từ, lạc thuyết vô ngại.
- Độ sinh: Giáo hóa tất cả: Chúng sinh trong chín cõi.
1. Pháp vô ngại biện tài: Là thông suốt không ngăn ngại đối với ngôn ngữ, văn tự trong giáo pháp.
2. Nghĩa vô ngại biện tài: Là thông suốt không ngăn ngại đối với nghĩa lý chứa đựng trong giáo pháp.
3. Từ vô ngại biện tài: Là tinh thông, lưu loát đối với các ngôn ngữ, văn tự.
4. Nhạo thuyết vô ngại biện tài: Là có trí tuệ về ba loại biện tài trên, nên có thể thuyết pháp một cách an lạc, tự tại, khiến chúng sinh được giác ngộ, hạnh phúc.
Biểu đồ 6: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ V
Điều giác ngộ thứ năm
- Phàm phu - Ngu si nên sinh tử
- Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến
- Tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, nghi hoặc
- Bồ tát
- Tự lợi - Đều cho niềm vui lớn.
- Cầu giải thoát: Học rộng Giới Định Tuệ
- Khai trí tuệ: Nghe nhiều Văn Tư Tu
- Lợi tha - Đều cho niềm vui lớn.
- Thuyết pháp: Thành tựu biện tài: Pháp, nghĩa, từ, lạc thuyết vô ngại.
- Độ sinh: Giáo hóa tất cả: Chúng sinh trong chín cõi.
Bài giảng thứ
VII
Bố thí là căn bản để rộng độ chúng sinh
Phiên
âm:
Đệ lục giác tri: Bần khổ đa oán, hoành kết ác duyên. Bồ Tát thí, đẳng niệm oan thân, bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân.
Đệ lục giác tri: Bần khổ đa oán, hoành kết ác duyên. Bồ Tát thí, đẳng niệm oan thân, bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ sáu: Nghèo khổ hay oán hờn, thường kết ngang duyên ác. Bồ Tát hành bố thí, bình đẳng với oán thân, không nhớ đến lỗi cũ, không ghét bỏ người ác.
Điều giác ngộ thứ sáu: Nghèo khổ hay oán hờn, thường kết ngang duyên ác. Bồ Tát hành bố thí, bình đẳng với oán thân, không nhớ đến lỗi cũ, không ghét bỏ người ác.
Giảng giải:
Trong đoạn kinh nên, trước hết chúng tôi sẽ nói quan điểm về giàu nghèo trong thế gian theo Phật giáo.
Trong đời này, người có tiền ở nhà cao cửa rộng, ăn món ngon vật lạ; người không tiền kiếm nhà tranh ở cũng khó, ba bữa ăn chưa chắc đã no. Người nghèo hèn lúc gặp vận may, của cải vào như nước. Người giàu sang khi gặp vận rủi, phải lưu lạc xin ăn. Đây là những điều thường thấy trong đời. Cho nên nghèo hèn không phải nghèo hèn mãi; giàu sang cũng chẳng phải giàu sang hoài. Nghèo hèn là do xan thâm, giàu sang là nhờ hỷ xả.
Trong đoạn kinh nên, trước hết chúng tôi sẽ nói quan điểm về giàu nghèo trong thế gian theo Phật giáo.
Trong đời này, người có tiền ở nhà cao cửa rộng, ăn món ngon vật lạ; người không tiền kiếm nhà tranh ở cũng khó, ba bữa ăn chưa chắc đã no. Người nghèo hèn lúc gặp vận may, của cải vào như nước. Người giàu sang khi gặp vận rủi, phải lưu lạc xin ăn. Đây là những điều thường thấy trong đời. Cho nên nghèo hèn không phải nghèo hèn mãi; giàu sang cũng chẳng phải giàu sang hoài. Nghèo hèn là do xan thâm, giàu sang là nhờ hỷ xả.
Theo cách nhìn Phật
giáo, giàu và nghèo không phải ở nơi có tiền hay không tiền. Nên biết, nghèo
khổ không phải là nói người không có tiền bạc, châu báu. Dù cho người có vàng
bạc, ngọc ngà chất đầy như núi, mà không có đạo đức, không có học vấn, không có
phước tuệ, vẫn gọi là nghèo khổ.
Trên đời này người có
tiền rất nhiều, nhưng họ không biết khéo sử dụng tiền bạc, nên trở lại bị tiền
bạc sai sử, làm tội mọi cho nó. Chỉ cần có tiền là chuyện gì họ cũng dám làm,
dù phi pháp, xấu xa đến mấy! Những người này tuy có tiền, nhưng không óc trí
tuệ, không biết dùng tiền vào chỗ hữu dụng, ngược lại còn gây ra đau khổ, nên
vẫn là nghèo khổ.
Người nghèo khổ thì dễ
dàng khởi tâm oán giận. Họ do thấy mình khốn khổ gian nan, nghèo cùng không nơi
nương tựa, nên thường sinh tâm oán trời trách người, ghen ghét với kẻ phước to,
học rộng; buồn giận với người sang quí, tài cao, thậm chí tìm trăm mưu ngàn kế
để hại người, gây ra biết bao ác duyên, tạo thành vô số ác nghiệp!
Người nghèo khổ hay
oán giận những gì?
Thứ nhất là trên
oán trời. Họ hận Bồ tát sao không gia hộ, trách thần minh sao chẳng hiển
linh?
Có những người chỉ vì
cầu tài lợi trước mắt mà bị tà giáo dụ dỗ, làm mê hoặc, ngay cả bài vị tổ tông
cũng đem đi bán! Đây là điều mà các địa phương như Cao Hùng, Hoa Liên, v.v... ở
Đài Loan thường xảy ra.
Thứ hai là dưới oán thế gian. Một mai gặp lúc nghèo khổ, thất chí, lại trách xã hội như thế này, chủ nghĩa như thế kia, chế độ như thế nọ.
Thứ hai là dưới oán thế gian. Một mai gặp lúc nghèo khổ, thất chí, lại trách xã hội như thế này, chủ nghĩa như thế kia, chế độ như thế nọ.
Thứ ba là trong oán
gia đình quyến thuộc. Có nhiều người ra ngoài gặp nhiều chuyện bực mình, về
nhà lại đem vợ con ra hành tội! Khi không có tiền họ lại trách người trong nhà
vô dụng. Đó gọi là: Thiếu gạo vợ chồng sinh lắm chuyện!
Thứ tư là ngoài oán
thầy bạn. Người thất nghiệp thường không trách mình thiếu tài chuyên môn,
lại cứ trách bạn bè không chịu giúp đỡ.
Những trường hợp do
nghèo khổ sinh ra oán giận như trên, không những chỉ làm khổ cho mình, mà còn
làm khổ cho người!
Nếu về mặt vật chất
không dư dả, nhưng về mặt tinh thần lại biết tu dưỡng, thì cuộc sống của chúng
ta dù đạm bạc vẫn thấy an vui.
Người không có tiền mà
có trí tuệ đạo đức, vẫn không phải là người nghèo khổ, và cũng không bao giờ oán
trời trách người. Thuở xưa, Nhan Hồi nghèo đến nỗi chỉ có cơm một giỏ, nước một
bầu, ai thấy cũng đều tội nghiệp, mà ông vẫn sống an lạc như thường. Cho nên
nghèo khổ hay oán hờn không phải chỉ đánh giá trên mặt kinh tế. Hàng ẩn sĩ ở
núi sâu, bậc đầu đà nơi cổ tự, họ tuy thiếu thốn về mặt của cải, vật chất, song
về mặt tinh thần lại giàu có không ai sánh bằng!
Người nghèo khổ suốt
ngày không biết tu tạo phước đức, chỉ biết kiếm tiền. Trên đời không ai giàu ba
họ, vì cho dù thần tài hoan hỷ cho bạn tiền, nhưng đàng sau thần tài còn có quỷ
nghèo đi theo đòi lại! Thực ra, dù mình có tiền mà không biết đủ, thì thần tài
cũng không thể nào làm ta vui lòng! Nếu không biết đủ, gia tài dù muôn vạn vẫn
cảm thấy nghèo khổ, và như vậy oán giận cũng càng nhiều, ác duyên càng kết nối,
ác nghiệp càng gây tạo vô số!
Người tu học đạo Bồ
tát, không luận là nghèo giàu, đều không oán trời trách người. Trái lại, Bồ tát
còn nguyện đem vật sở hữu của mình ra bố thí cho người. Bồ thí, đây là cách
phát tài tốt nhất. Phần đông người ta nghĩ rằng bố thí là cho người, và đã cho
người, thì làm sao mình phát tài cho được? Thực ra, đạo lý này rất đơn giản.
Như một đám ruộng, nếu ta không gieo trồng, làm sao có thu hoạch? Không có hạt
giống tu tập bố thí, thì làm sao có hoa trái giàu sang?
Chư Phật Bồ tát có ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, là do nhiều đời, nhiều kiếp tu hạnh bố thí
mà được. Hành giả Đại thừa, tu học Lục độ vạn hạnh, lấy bố thí làm đầu trong
sáu Ba la mật. Tâm Bồ đề, tâm từ bi của chúng ta phải được nuôi dưỡng từ hành
động bố thí.
Thuở xưa có một bà cụ
nghèo hèn than với tôn giả Ca Chiên Diên về sự cực khổ, nghèo đói của mìmh.
Nghe xong, ngài nói:
- Bà vì nghèo mà chịu
khổ, sao không bán phứt cái nghèo đi?
- Cái nghèo có thể bán
được sao?
Bà cụ kinh ngạc kêu
lên, và tiếp theo hỏi:
- Cái nghèo nếu bán
được, thì ai mà chẳng muốn bán! Vậy trên đời này đâu cfon ai nghèo? Hơn nữa,
có ai chịu mua cái nghèo đâu?
- Bà hãy bán cho ta!
Tôn giả điềm nhiên
đáp.
Bà lão liền xin tôn
giả chỉ cách bán cái nghèo. Tôn giả khai thị:
Hãy bố thí! Đó là
cách bán cái nghèo. Bà nên biết giàu nghèo trong đời đều có nhân duyên. Người
nghèo hèn do đời trước không biết bố thí tu phước. Do đó, bố thí là cách bán
nghèo, mua giàu tốt nhất.
Bà cụ nghe rồi trí tuệ khai phát, từ đó biết tu tạo phước đức và hành Bồ tát đạo.
Bà cụ nghe rồi trí tuệ khai phát, từ đó biết tu tạo phước đức và hành Bồ tát đạo.
Nhưng có người sẽ nghĩ
như vầy: Người có tiền đương nhiên có thể làm việc bố thí, còn nghèo khổ như bà
cụ này thì lấy gì mà bố thí.
Nói đến bố thí, nhiều
người nghĩ phải có tiền bạc, của cải mới bố thí được. Nhưng thực ra, bố thí có
nhiều phương diện, không phải nhất định đem tiền bạc, của cải ra cho người mới
là bố thí. Dù chúng ta nghèo đến nỗi không có một chút gì, cũng vẫn thực hành
hạnh bố thí được! Ví dụ khi chúng ta gặp ai, mình đưa tay vẫy chào: Anh mạnh
khoẻ! Hoặc hỏi: Anh ăn cơm chưa? Hay anh từ đâu đến? Cám ơn anh! Mời ngồi!
A Di Đà Phật!
Nếu bạn làm được như
thế, thì không những sẽ gieo duyên tốt với người, mà còn thực hành được việc bố
thí ngôn ngữ. Ngoài điều này ra, lúc bạn tiếp xúc với người mà mỉm cười, nét
mặt hoan hỉ, chú ý lắng nghe, v.v... đây chính là bố thí vẻ mặt. Thấy người lạc
đường thì chỉ lối hay dắt họ đi. Thấy người khiêng đồ không nỗi, thì xách hay
khiêng giùm họ, thấy người làm không được thì giúp họ làm, đây gọi là bố thí
thân hành. Thấy người chịu khổ sinh tâm thương xót, thấy người bố thí sinh tâm
hoan hỷ, đây chính là bố thí tâm ý.
Những cách bố thí:
Ngôn ngữ, vẻ mặt, thân hành, tâm ý nêu trên, ai nếu muốn đều có thể làm được.
Phật Pháp không phải là hàng trừng bày, cũng không phải thuộc về quí tộc! Phật
Pháp là đại chúng, ai ai cũng có thể phụng hành Phật Pháp.
Kinh nói bố thí có ba
cách: tài thí, pháp thí, và vô úy thí.
Tài thí là đem tiền
của, phẩm vật ra giúp cho người; Pháp thí là đem tri thức, kỹ thuật, chánh pháp
ra dạy cho người; vô úy thí là bảo vệ công lý chính nghĩa, vì xã hội dẹp trừ bạo
loạn, giúp tinh thần của mọi người được an ổn, không lo sợ.
Hành bố thí là điều dễ
dàng. Nhưng thực hành bố thí đạt đến chỗ cả ba đều không là điều rất khó. Khi
bố thí người ta dễ nảy sinh ra tâm lý mong người cảm ơn, báo đáp hay ca ngợi
công đức của họ. Chẳng những vậy, họ còn cảm thấy mình bố thí được là điều hết
sức vinh dự, hay khinh rẽ người nhận vật bố thí. Nếu đem tâm như thế ra bố thí,
chỉ là hạnh lành ở thế gian, mà không phải hạnh bố thí của Bồ tát. Trong
Phật Pháp, bố thí cần phải đặt trên nền tảng cả ba đều không. Một, không có bản
ngã ta là người bố thí. Hai, không có thấy đây là người thọ thí. Ba, không
thấy kia là vật bố thí. Trong Phật Pháp, hành hạnh bố thí mà không thấy
mình hành bố thí, tu công đức mà không thấy mình được công đức. Thực ra, mình
không cầu công đức, công đức lại càng vô lượng! Đó gọi là:
Cố ý trồng hoa, hoa
chẳng nở
Vô tâm tiếp liễu, liễu xanh tươi!
Vô tâm tiếp liễu, liễu xanh tươi!
Bố thí cho người thân
hay người mình yêu mến thì dễ, bố thí cho người mình oán hận, đó mới là điều rất
khó. Biếu quà cho người mình yêu thích là vì thỏa mãn lòng yêu mến của mình;
còn biếu quà cho kẻ mình không thích mới thật là hành hạnh bố thí. Vì thế, Bồ
tát bố thí phải bình đẳng oán thân. Không luận chúng sinh là kẻ oán hay người
thân, Bồ tát đều bố thí một cách bình đẳng. Nếu có người xưa kia làm hại mình,
nay gặp lúc họ mắc nạn nhờ mình cứu giúp, trong lòng ta nhất định sẽ không mấy
bằng lòng, hoan hỉ giúp đỡ. Đây là do tâm từ bi của chúng ta không đủ. Nói đến
đây tôi chợt nhớ đến nhân cách của Pháp sư Từ Hàng.
---------------------------------------------
Pháp sư Từ Hàng, người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, họ Ngãi. Pháp tự Ngạn Tài, Pháp hiệu Kế Vinh. Ngài thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, mười bảy tuổi xuất gia, từng học thiền ở chùa Thiên Ninh Thường Châu, chùa Cao Mân Dương Châu, học Thiên Thai giáo với Ngài Đế Nhàn, học Tịnh Độ với Ngài Độ Ách. Sau đó vào Phật học viện Mân Nam, theo học với Đại sư Thái Hư. Sau khi đạo nghiệp và học nghiệp thành tựu, ngài dốc sức vào việc hoàng pháp, cải cách tăng già, chỉnh đốn Phật giáo. Từng thành lập hội Phật giáo ở Mianma, mở các Phật học viện ở Malaysia, Đài Loan, đào tạo nhiều tăng tài, cống hiến rất lớn cho sự nghiệp Phật giáo Trung Quốc cận đại. Ngài viên tịch tháng 5 năm 1954, lưu lại nhục thân ngồi kiết già, đang được thờ tại Di Lặc Nội Viện ở Đài Loan.
--------------------------------------------
Pháp sư đã kể một chuyện mà bản thân gặp phải như sau. Khi Pháp sư giữ chức y bát (tên một chức sự trong tòng lâm) ở Cổ sơn, một hôm ngài đi vệ sinh quên mang theo giấy, nên xin vị trà đầu (người lo việc trà nước trong chùa) cũng đang đi vệ sinh bên cạnh. Vị này vốn là người xấu tính, nên lấy giấy đã dùng rồi đưa cho, khiến tay ngài cầm dính đồ dơ! Vị kia trêu chọc người như vậy, gặp ai khác chắc đã nổi giận, nhưng Pháp sư vẫn điềm nhiên như không.
---------------------------------------------
Pháp sư Từ Hàng, người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, họ Ngãi. Pháp tự Ngạn Tài, Pháp hiệu Kế Vinh. Ngài thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, mười bảy tuổi xuất gia, từng học thiền ở chùa Thiên Ninh Thường Châu, chùa Cao Mân Dương Châu, học Thiên Thai giáo với Ngài Đế Nhàn, học Tịnh Độ với Ngài Độ Ách. Sau đó vào Phật học viện Mân Nam, theo học với Đại sư Thái Hư. Sau khi đạo nghiệp và học nghiệp thành tựu, ngài dốc sức vào việc hoàng pháp, cải cách tăng già, chỉnh đốn Phật giáo. Từng thành lập hội Phật giáo ở Mianma, mở các Phật học viện ở Malaysia, Đài Loan, đào tạo nhiều tăng tài, cống hiến rất lớn cho sự nghiệp Phật giáo Trung Quốc cận đại. Ngài viên tịch tháng 5 năm 1954, lưu lại nhục thân ngồi kiết già, đang được thờ tại Di Lặc Nội Viện ở Đài Loan.
--------------------------------------------
Pháp sư đã kể một chuyện mà bản thân gặp phải như sau. Khi Pháp sư giữ chức y bát (tên một chức sự trong tòng lâm) ở Cổ sơn, một hôm ngài đi vệ sinh quên mang theo giấy, nên xin vị trà đầu (người lo việc trà nước trong chùa) cũng đang đi vệ sinh bên cạnh. Vị này vốn là người xấu tính, nên lấy giấy đã dùng rồi đưa cho, khiến tay ngài cầm dính đồ dơ! Vị kia trêu chọc người như vậy, gặp ai khác chắc đã nổi giận, nhưng Pháp sư vẫn điềm nhiên như không.
Một hôm Pháp sư Từ
Hàng dời phòng, vị kia lại đến. Pháp sư mới nói với ông ấy:
Ông đến thật may quá,
nhờ ông giúp tôi xem chừng đồ đạt một lát, tôi mang tấm mềm bông đi trước, sẽ
trở lại liền. Một lát sau ngài quay trở lại, phát hiện ra một trăm đồng tiền
bạc để trong ngăn kéo thiếu mất sáu mươi bảy đồng. Ngài rất ngạc nhiên, chợt
nghĩ ra, đây nếu không phải là vị trà đầu này lấy thì còn ai? Điều này thì
không thể nói ra được. Nếu nói ra rất có quan hệ đến danh dự người ta. Mất
tiền còn có thể tìm lại được, còn mất danh dự thì thật khó lấy lại. Ngài nghĩ
đến đó, nên giả như là không hay biết gì.
Một lát sau vị trà đầu
cáo từ. Từ lão lại tặng ông mười lăm đồng bạc.
Ông ấy không chịu
nhận. Nhưng Pháp sư nói rằng làm người phải giúp đỡ lẫn nhau, ông làm chức y
bát mỗi tháng được hai mươi đồng, tặng bớt một chút đâu có sao? Nghe vậy, vị
trà đầu mới nhận.
Không lâu sau, người
trong chùa nghi vị trà đầu này sao có nhiều tiền quá, không biết từ đâu có? Vị
trà đầu mới bảo là do Pháp sư Từ Hàng cho. Có người hỏi Từ lão có đúng vậy
không. Gặp người khác nhất định sẽ nói ra hành vi trộm cắp của người kia, nhưng
ngài vẫn từ bi độ lượng, không nói xấu hắn một tiếng nào. Hành vi không nhớ lỗi
cũ, không ghét người ác này, nếu không có tinh thần bình đẳng oán thân thì không
thể làm nổi. Bố thí cho người từng gây oán với mình, không nói lỗi cũ của người
từng làm hại mình, tinh thần này thật vĩ đại biết bao!
Từ lão lại nói với
tôi, ông trước giờ vốn là người gầy yếu, song từ khi xảy ra vụ này, lần lần trở
nên mập mạnh, cái bụng Di Lặc cũng từ từ to ra! Không nhớ lỗi cũ, không ghét
người ác, người học Phật không nên giận cách đêm. Tinh thần: Thà người phụ ta,
chớ ta không phụ người, đã khuyên người học hành Bồ tát nên khoan dung với người
lầm lỗi, dành cơ hội cho họ ăn năn, cải đổi, giúp đỡ họ quay về nẻo chánh. Đây
mới là chân chính độ sinh. Không nhớ lỗi cũ, không báo cừu rửa hận là điều mà
người có tu dưỡng dễ dàng làm được; còn không ghét người ác, tức người oán ghét
khi gặp mặt, mà mình không sinh tâm oán ghét mới là điều rất khó. Muốn làm
được oán thân bình đẳng, nếu không có tấm lòng của Bồ tát thì không thể được.
Nên biết, oán giận là điều tương đối. Mình giận người, người cũng giận mình.
Mọi người đối với oán giận nên mở không nên buộc. Mình khoan thứ với người, thì
người cũng khoan thứ với mình. Chúng ta không thể sống cô độc một mình, quả đất
tròn, có ngày gặp mặt. Người mình yêu thích để lòng thương yêu, kẻ mình oán
giận cũng mở lòng thương yêu, như vậy mới có thể làm được việc oán thân bình
đẳng.
Thuở Phật còn tại thế,
Đề Bà Đạt Đa nhiều phen làm hại đức Phật, như sai người hành thích, lăn đá trên
núi xuống, cho voi say giàu xéo, v.v... nhưng ngài chẳng những không báo thù, mà
còn thường nói: Đề Bà Đạt Đa là tăng thượng duyên cho ta, Đề Bà Đạt Đa là thiện
tri thức của ta! Xem người ác như thiện tri thức, Phật sở dĩ là Phật vì có lòng
từ bi bao trùm trời đất, có đức khoan dung đối với người ác.
Thế giới Ta Bà là đời
ác năm trược. Trong đời ác năm trược, nghịch tăng thượng duyên rất nhiều, trong
nghịch cảnh mà tu tập, thì thành tựu rất mau. Trong cuộc sống tu hành, nếu có
người ác phá hoại, đây không phải là một điều bất hạnh, trái lại, nó còn giúp
cho đạo nghiệp chúng ta dễ dàng thành tựu.
Không có bóng tối, làm
sao hiển hiện được ánh sáng quang minh? Không có ác độc, làm sao có những điều
lương thiện? Cho nên, phiền não tức Bồ đề, hành giả Đại thừa không oán ghét
người ác, không sợ phiền não. Chỉ cần có tâm niệm oán thân bình đẳng, thì điều
ác cũ là ân huệ của chúng ta, còn người ác là thiện tri thức của mình. Mây mù
tan hết, sẽ là ánh dương quang rực rỡ chiếu soi!
Dịch thơ:
Điều thứ sáu phải nên giác ngộ
Nghèo khổ nhiều tật đố trách phiền
Thường gây lắm việc oan khiên
Ngang nhiên kết buộc ác duyên với người!
Bậc Bồ tát độ đời bố thí
Bình đẳng tâm không nghĩ oán thân
Càng thương những kẻ ác nhân
Khoan dung hỉ xả những phần lỗi xưa.
Điều thứ sáu phải nên giác ngộ
Nghèo khổ nhiều tật đố trách phiền
Thường gây lắm việc oan khiên
Ngang nhiên kết buộc ác duyên với người!
Bậc Bồ tát độ đời bố thí
Bình đẳng tâm không nghĩ oán thân
Càng thương những kẻ ác nhân
Khoan dung hỉ xả những phần lỗi xưa.
Biểu đồ 7: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ VII
Điều giác ngộ thứ sáu
- Phàm phu - Kết ngang duyên ác
- Trên oán trời thần: Trời sao bất minh
- Dưới oán thế gian: Đời sao bạc bẻo
- Trong oán quyến thuộc: Người sao vô dụng
- Ngoài oán thầy bạn: Bạn sao lạnh nhạt
- Bồ tát - Bình đẳng oán thân
- Tài bố thí - Dùng vật chất giúp người
- Pháp bố thí - Đem tri thức dạy người
- Vô úy thí - Làm an định tinh thần người
Bài giảng thứ
VIII
Trì giới là căn bản để tiết chế dục vọng
Phiên
âm:
Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc. Thường niệm tam y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dục là tai họa, tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bát và pháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch, hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất cả.
Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc. Thường niệm tam y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dục là tai họa, tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bát và pháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch, hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất cả.
Giảng giải:
Trong điều giác ngộ thứ hai, chúng tôi từng giảng qua nhiều lòng dục là khổ, nói lòng dục chính là căn bản của sinh tử, rồi chỉ ra phương pháp để đối trị nhiều lòng dục là ít muốn vô vi.
Trong điều giác ngộ thứ hai, chúng tôi từng giảng qua nhiều lòng dục là khổ, nói lòng dục chính là căn bản của sinh tử, rồi chỉ ra phương pháp để đối trị nhiều lòng dục là ít muốn vô vi.
Nay trong bài giảng
này, sẽ thuyết minh tội lỗi, tai hoạ của năm dục, lại đưa ra phương pháp trì
giới, sống đời phạm hạnh là phương thuốc đối trị tham dục. Ở đây, chúng tôi sẽ
thuyết minh giới học trong Phật Pháp, tức đề tài: Trì giới là căn bản để tiết
chế dục vọng. Người đời không có trí tuệ, cho rằng tham đắm năm dục là vui.
Nhưng Bồ tát giác ngộ thấy tham đắm năm dục sẽ gây ra các tội lỗi, cho đến chịu
tai hoạ trong sinh tử luân hồi.
Năm dục theo thế gian
là: Tài, sắc, danh, thực, thùy.
Tài là tiền bạc của cải.
Sắc là tình yêu nam nữ.
Danh là địa vị danh tiếng.
Thực là ăn uống vị ngon.
Thùy là giải đãi hôn trầm.
Năm dục theo Phật Pháp là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Sắc là hình sắc xinh đẹp.
Thanh là âm thanh êm tai.
Hương là hương thơm nồng nàn.
Vị là vị ngon vừa miệng.
Xúc là xúc chạm ưng ý.
Tài là tiền bạc của cải.
Sắc là tình yêu nam nữ.
Danh là địa vị danh tiếng.
Thực là ăn uống vị ngon.
Thùy là giải đãi hôn trầm.
Năm dục theo Phật Pháp là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Sắc là hình sắc xinh đẹp.
Thanh là âm thanh êm tai.
Hương là hương thơm nồng nàn.
Vị là vị ngon vừa miệng.
Xúc là xúc chạm ưng ý.
Cuộc đời không thể
hoàn toàn phủ nhận là không có thú vui của năm dục. Vì theo kinh nghiêm giác
quan của căn thức con người, thì năm dục quả có thể dẫn đến hỉ lạc tạm thời,
không triệt để. Người ta vì nó mà không tự chủ, bị mê hoặc, suốt ngày làm nô lệ
cho năm dục, tham cầu vọng tưởng khiến cuộc sống không lúc nào được tự tại, an
lạc.
Tài là tiền bạc, của
cải. Nó vốn để người ta sử dụng, nhưng có tiền bạc, của cải chưa chắc đã hạnh
phúc. Người ta vì tiền mà chết rất nhiều. Hai ba năm trước đây, báo chí đăng
tin Uông Chấn vì mưu đoạt tiền bạc mà phanh thây người bạn thân hơn hai mươi năm
của mình là Trương Xương Niên làm ở ngân hàng Đài Loan! Tình bạn thân mà tàn ác
như vậy, không phải đều do tham tiền bạc mà gây ra sao?
Sắc là tình yêu trai gái. Trong hoàn cảnh thuần phong mỹ tục suy đồi hiện nay, tình ái có ma lực rất lớn. Chúng ta thấy nhan nhản, nghe đầy tai những vụ án tạt acid, giết tình địch xảy ra hàng ngày trong xã hội. Ngày nay, trai gái yêu đương xen lẫn với thù hận, vì thù hận mà dẫn đến kết cuộc bi thảm, như tằm nhả tơ tự trói buộc lấy mình.
Sắc là tình yêu trai gái. Trong hoàn cảnh thuần phong mỹ tục suy đồi hiện nay, tình ái có ma lực rất lớn. Chúng ta thấy nhan nhản, nghe đầy tai những vụ án tạt acid, giết tình địch xảy ra hàng ngày trong xã hội. Ngày nay, trai gái yêu đương xen lẫn với thù hận, vì thù hận mà dẫn đến kết cuộc bi thảm, như tằm nhả tơ tự trói buộc lấy mình.
Danh là địa vị danh
tiếng. Cổ ngữ bảo: Thời Tam đại về trước, người ta sợ rằng mình hiếu danh;
thời Tam đại về sau, người ta chỉ lo mình không hiếu danh! Yêu thích tham
danh vốn là điều rất tốt, nhưng mỗi khi cạnh tranh tuyển cử, người ta vì tranh
danh mà không ngại gì công kích lẫn nhau, đưa nhau ra tòa. Thật đúng là: Cây
càng to thì gió càng lớn;
----------------------------------
Nguyên văn: Tam đại tức ba triều đại Hạ, Thương, Chu đời thượng cổ trong lịch sử Trung Quốc. Trước ba triều đại này là chế độ nhường ngôi cho người hiền đức, như vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn nhường ngôi cho vua Vũ. Lại nữa, Hứa Do vào thời vua Nghiêu được nhường ngôi mà từ chối, được mời làm quan lại ra sông rửa tai vì sợ danh lợi làm dơi tai mình. Đến thời vua Vũ kiến lập triều đại phong kiến đầu tiên của lịch sử Trung Quốc là nhà Hạ. Từ ba đời Hạ Thương Chu trở đi, bắt đầu có chế độ cha truyền con nối, tranh giành quyền lợi, địa vị, không còn được như xưa nữa. Cho nên nói: Thời Tam đại về trước người ta sợ rằng mình hiếu danh; thời Tam đại về sau người ta chỉ sợ mình không hiếu danh, là nói người từ đời Hạ, Thương, Chu trờ về sau đều tranh danh đoạt lợi, có mấy ai được như vua Nghiêu, vua Thuấn, hay hiền sĩ Hứa Do lúc trước ba triều đại đâu!
------------------------------------------------
danh càng cao, ghét nhau càng nhiều! Hay: Leo lên càng cao, ngã xuống càng đau! Viên Thế Khải không phải vì quá trọng danh vị mà bị đời sau phỉ nhổ hay sao?
----------------------------------
Nguyên văn: Tam đại tức ba triều đại Hạ, Thương, Chu đời thượng cổ trong lịch sử Trung Quốc. Trước ba triều đại này là chế độ nhường ngôi cho người hiền đức, như vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn nhường ngôi cho vua Vũ. Lại nữa, Hứa Do vào thời vua Nghiêu được nhường ngôi mà từ chối, được mời làm quan lại ra sông rửa tai vì sợ danh lợi làm dơi tai mình. Đến thời vua Vũ kiến lập triều đại phong kiến đầu tiên của lịch sử Trung Quốc là nhà Hạ. Từ ba đời Hạ Thương Chu trở đi, bắt đầu có chế độ cha truyền con nối, tranh giành quyền lợi, địa vị, không còn được như xưa nữa. Cho nên nói: Thời Tam đại về trước người ta sợ rằng mình hiếu danh; thời Tam đại về sau người ta chỉ sợ mình không hiếu danh, là nói người từ đời Hạ, Thương, Chu trờ về sau đều tranh danh đoạt lợi, có mấy ai được như vua Nghiêu, vua Thuấn, hay hiền sĩ Hứa Do lúc trước ba triều đại đâu!
------------------------------------------------
danh càng cao, ghét nhau càng nhiều! Hay: Leo lên càng cao, ngã xuống càng đau! Viên Thế Khải không phải vì quá trọng danh vị mà bị đời sau phỉ nhổ hay sao?
Thực là ăn uống vị
ngon. Người ta không ăn không thể sống. Nhưng ăn quá đáng gây ra các bệnh
đường ruột, bao tử là tự làm khổ mình. Thậm chí có nhiều người vì tham ăn mà
trúng độc. Có người nói: Chiến tranh trên thế giới đều do vấn đề bánh mì! Như
vậy có thể thấy, tham dục về ăn có tai hại lớn đến dường nào! Người ta suốt
ngày xuôi ngược đông tây, tìm cầu suy tính, đều không phải vì miếng ăn cả hay
sao?
Thuỳ là giải đãi hôn
trầm. Ngủ nghỉ vừa phải là điều cần thiết. Tham ngủ quá đáng, giải đãi hôn
trầm, lại là việc không nên. Đời người nếu sống được chín mươi năm, mỗi ngày
ngủ tám giờ thì đã có ba mươi năm trôi qua trong ngủ nghỉ! Vì thế, tham ngủ có
hại đến đạo nghiệp, có biết bao nhiêu việc có ý nghĩa cần làm, lẽ nào vì ngủ
nghỉ mà làm lỡ mất hay sao?
Không luận tài sắc
danh thực thùy, hay sắc thanh hương vị xúc, dục vốn không nhất định là tội ác.
Chúng ta sống với năm dục thích đáng là điều không có gì đáng trách.
Chúng ta sống với năm dục thích đáng là điều không có gì đáng trách.
Trong kinh nói: Nam
nữ, ẩm thực, danh dự không phải thực sự là dục, nó chỉ là pháp chướng đạo mà
thôi. Nhưng nếu phóng túng lòng dục, sẽ do nơi lòng dục về nam nữ, v.v...
gây tạo ra các tội ác tày trời. Cổ đức bảo: Tài sắc danh thực thùy, năm gốc
rễ địa ngục. Người phóng túng lòng dục nên suy xét kỹ lời nói này!
Sống trong đời vốn
không thể xa lìa được tài sắc danh thực thùy. Vì sao trong Kinh lại nói rằng:
Năm dục là tai họa? Tham cầu năm dục đưa đến gây tạo tội lỗi, rước lấy tai hoạ
là điều thường xuyên xảy ra. Nói tóm lại, những tội lỗi, tai hoạ của năm dục
là:
1. Tăng thêm đấu
tranh.
2. Làm khổ não người.
3. Gây ra tai hoạ.
4. Không có chân thật.
5. Không được trường cữu.
2. Làm khổ não người.
3. Gây ra tai hoạ.
4. Không có chân thật.
5. Không được trường cữu.
Năm dục đối với người
như mật ngọt dính trên lưỡi dao, không đủ cho một bữa ăn ngon. Nhưng trẻ con vì
không biết sự tai hại của nó, nên đưa lưỡi ra liếm, phải chịu tai hoạ đứt lưỡi!
Ngũ dục gây cho người
tai hoạ to lớn như vậy, cho nên: Tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục
lạc, người Phật tử tại gia sống trong vòng thế tục mà đoạn trừ ngũ dục là việc
khó thể làm được. Nhưng chỉ cần không bị dục lạc của thế gian ô nhiễm là được.
Cư sĩ Duy Ma Cật trong
thành Tỳ Da Ly là một vị trưởng giả giàu có. Đó gọi là: Tuy sống ở nhà, không
vướng ba cõi, hiện có vợ con, thường tu phạm hạnh. Hay: Hiện việc phàm phu,
không rời đạo pháp. Hay: Chỉ có trừ bệnh, mà không trừ pháp.
Ở đời cần phải hăng
hái xây dựng, mở ra một cảnh giới an lạc cho cuộc sống. Cảnh giới an lạc này ở
ngay trong nhân quần, xã hội! Chúng ta chỉ cần không bị năm dục làm mê hoặc;
trói buộc, thì dù sống trong cuộc đời ngũ dục cũng không ngại gì. Như trưởng
giả Tịnh Danh đối với nhân sinh và xã hội hiện thực vẫn vô cùng lạc quan. Ông
ấy là điển hình của hàng tại gia học Phật. Sống trong cuộc đời ngũ dục mà muốn
không bị ngũ dục làm ô nhiễm, đây là điều vốn không dễ dàng. Nhưng người tu học
Bồ tát đạo không thể bị ngũ dục làm ô nhiễm. Chỉ cần chúng ta đem Pháp lạc thay
thế dục lạc, lấy việc tu tập để đối trị tham dục, thì cuộc sống tự nhiên sẽ tự
tại, an lạc.
Lấy việc tu tập để đối
trị ngũ dục có hai cách: Một là của đệ tử xuất gia, hai là của đệ tử tại gia.
Phật tử tại gia muốn không bị chìm đắm trong ngũ dục, ít nhất phải giữ gìn năm giới.
Phật tử tại gia muốn không bị chìm đắm trong ngũ dục, ít nhất phải giữ gìn năm giới.
1. Không sát hại bừa
bãi, phải có lòng nhân từ.
2. Không lấy của phi pháp, phải tôn trọng đạo nghĩa.
3. Không tà dâm, phải giữ gìn lễ giáo.
4. Không vọng ngữ, phải chân thật, thành tín.
5. Không uống rượu, phải bình tỉnh, sáng suốt.
2. Không lấy của phi pháp, phải tôn trọng đạo nghĩa.
3. Không tà dâm, phải giữ gìn lễ giáo.
4. Không vọng ngữ, phải chân thật, thành tín.
5. Không uống rượu, phải bình tỉnh, sáng suốt.
Năm giới này là căn
bẳn làm người. Đại sư Thái Hư nói: Nhân cách thành tựu thì Phật thành tựu. Làm
người nếu làm tốt đẹp, thì việc tu học theo Phật Pháp tự nhiên cũng thành tựu.
Làm người tốt đẹp thực ra cũng không phải là việc dễ dàng gì. Socrates ban ngày
cầm đuốc đi ngoài đường. Ai hỏi ông làm gì, ông đều trả lời:
- Tôi muốn tìm xem có
ai là người trên đời này không!
Người gìn giữ năm giới
trên đời này rất ít, mà kẻ giữ được trọn vẹn lại càng ít hơn!
Vừa nói đến trì giới,
người mới vào đạo rất là e sợ. Họ cho rằng giới luật là sự ràng buộc: Điều này
nên làm, điều kia không nên làm. Thật ra, giới là phòng ngừa điều phi pháp, cấm
ngăn việc xấu ác (phòng phi chỉ ác). Giới chẳng những không phải là ràng buộc,
mà còn mang nội dung tự do một cách tuyệt đối. Nói tự do là nói đến nguyên tắc
không làmg trở ngại, xâm phạm người khác. Giới luật là gìn giữ thân tâm chúng
ta, không để xâm phạm vào người khác.
Như sát sinh là xâm
phạm đến tự do sinh mạng của người. Trộm cướp là xâm phạm đến sự an toàn tài
vật của người. Tà dâm là xâm phạm, làm hại đến sự hoà hợp, hạnh phúc của
người. Nói vọng là xâm phạm, làm hại đến niềm tin của người khác. Uống rượu là
xâm phạm, làm hại đến mình và người. Giả như chúng ta đến nhà giam để điều tra
tội của các phạm nhân, thì hầu hết đều vì vi phạm năm giới! Tội giết người là
tội phạm giới sát sinh. Tội trộm cướp, lừa gạt, chiếm dụng, tham ô là tội phạm
giới trộm cướp. Tội phá hoại gia cang, vi phạm thuần phong mỹ tục, vợ bé, cưỡng
hiếp, v.v... là phạm giới tà dâm. Tội lừa đảo, dụ dỗ, bói toán gạt người, vu
khống làm hại danh dự, tung tin đồn thất thiệt, v.v... là phạm giới nói vọng.
Tội buôn bán thuốc phiện, hút chích ma túy, say rượu quậy phá, đánh nhau, v.v...
là phạm giới rượu.
Phàm làm người ai cũng
phải giữ giới. Năm dục như nước lũ, rất dễ gây nên tai họa. Nếu có đê trì giới
ngăn chặn, biển tham dục sẽ không gây ra tai họa.
Trong Kinh nói:
Thường nghĩ đến ba y, bình bát và pháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo
luôn trong sạch, đây là nói người cư sĩ tại gia, thân tuy không xuất gia mà
tâm thường hâm mộ nếp sống thanh tịnh với ba y, bình bát, và giới luật của người
tu sĩ xuất gia. Nếu ai làm được như vậy, sẽ xa lìa mọi trói buộc, giữ gìn nhân
cách mình được trong sạch, thanh cao.
Ba y, bình bát, pháp
khí đều là những vật của người xuất gia. Ba y là chỉ ca sa, chia làm ba loại:
1. Tăng Già Lê (Đại y)
2. Uất Đa La Tăng (Y thất)
3. An Đà Hội (Y ngũ)
2. Uất Đa La Tăng (Y thất)
3. An Đà Hội (Y ngũ)
Bình bát là đồ đựng
thức ăn khất thực. Tiếng Phạn là Bát Đa La, Trung Hoa dịch là ứng lượng khí, vì
nó có hình thể, màu sắc và thể lượng tương ứng. Pháp khí là những vật dụng giúp
cho việc tu hành như pháp cổ, pháp loa, pháp đăng, pháp tràng cho đến chuông,
mõ, khánh, v.v...
Không luận là ba y,
bình bát hay pháp khí đều là đại biểu cho Tăng đoàn thanh tịnh, tượng trưng cho
nhân cách của người tu hành. Hoàng đế Thuận Trị có bài thơ rằng:
Cơm chùa thiên hạ có
thiếu chi
Bình bát tùy duyên khắp chốn đi
Vàng ngọc thế gian đâu phải quí
Đắp được ca sa mới diệu kỳ.
Bình bát tùy duyên khắp chốn đi
Vàng ngọc thế gian đâu phải quí
Đắp được ca sa mới diệu kỳ.
Hoàng đế Thuận Trị
khen ngợi bình bát, ca sa, cũng chính là khen ngơi Tăng đoàn xuất gia. Người ta
phần nhiều có tâm lý quên ân phụ nghĩa, thích ghi nhớ cừu hận mà không chịu nghĩ
đến ân tình. Trong xã hội, ta dù cả ngàn lần giúp người mà chỉ một lần không
làm vừa ý họ là bị hiềm giận! Nên Kinh này dạy người đệ tử tại gia học Phật
phải thường nghĩ nhớ đến ba y, bình bát, pháp khí, không nên nhớ đến lầm lỗi của
người. Phật tử tại gia như Trưởng giả Duy Ma Cật, phu nhân Thắng Man đều là Bồ
tát tại gia. Văn Thù, Phổ Hiền đều hiện tướng Bồ tát tại gia để giáo hóa chúng
sinh. Chỉ có Địa Tạng Bồ tát là hiện tướng xuất gia. Bồ tát không có phân biệt
trên hình tướng là xuất gia hay tại gia, mà chỉ dựa vào sự phát tâm tu hành để
đánh giá phẩm vị cao hay thấp. Hơn nữa, nói về xuất gia cũng có bốn hạng khác
nhau:
1. Thân tâm đều xuất
gia: Đây là chỉ các vị Tỳ kheo không tham luyến các cảnh dục.
2. Thân tại gia mà tâm xuất gia: Đây là chỉ hàng cư sĩ tuy thọ dụng ngũ dục mà tâm không đắm nhiễm.
3. Thân xuất gia tâm không xuất gia: Đây là hạng tu sĩ đầu tròn áo vuông mà tâm vẫn luyến ái thế tục.
4. Thân tâm đều không xuất gia: Đây là chỉ người thế tục thọ dụng năm dục, chìm đắm trong ái nhiễm.
2. Thân tại gia mà tâm xuất gia: Đây là chỉ hàng cư sĩ tuy thọ dụng ngũ dục mà tâm không đắm nhiễm.
3. Thân xuất gia tâm không xuất gia: Đây là hạng tu sĩ đầu tròn áo vuông mà tâm vẫn luyến ái thế tục.
4. Thân tâm đều không xuất gia: Đây là chỉ người thế tục thọ dụng năm dục, chìm đắm trong ái nhiễm.
Đứng trê phương diện
nào xét cũng vậy, người học đạo không luận xuất gia hay tại gia đều như nhau
không khác. Phật tử tại gia tuy thân không mặc ca sa, nhưng chỉ cần chí mong
được xuất gia, tức tâm xuất gia là tốt rồi. Vua Đường Thái Tông là Lý Thế Dân
nói: Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, không phải là kẻ làm tướng văn,
tướng võ có thể đảm đương nổi. Nếu không thể làm một vị Tỳ kheo xuất gia có khả
năng hoằng Pháp lợi sinh, thì tốt hơn nên làm vị cư sĩ tại gia hộ trì Chánh
Pháp!
Trong hàng ngũ Phật
giáo ngày nay, phần nhiều người xuất gia không ra xuất gia, người tại gia không
ra tại gia, thật khiến cho chúng ta vô cùng xót xa! Người xuất gia thì ham phú
quý vinh hoa trong xã hội, sống chỉ mong cầu vật chất, bị thế tục hóa; người tại
gia lại thích can thiệp vào việc của Tăng đoàn, quản lý chùa chiền, đây đều là
hiện tượng không tốt đẹp. Hy vọng rằng sau này, hàng Bồ tát tại gia ủng hộ Phật
Pháp, hộ trì Tam Bảo, chú trọng về việc từ thiện trong xã hội, không nên vì
quyền lợi quản lý tài sản trong các tự viện mà tranh giành với hàng Tỳ kheo;
cũng hy vọng sau này, người xuất gia trụ trì Phật Pháp, trụ trì Tam Bảo, phải có
một nền tảng đức hạnh, học vấn vững chắc, để lãnh đạo Phật tử tại gia trong sự
nghiệp giáo dục, văn hóa, từ thiện. Được như vậy, Phật giáo may mắn lắm thay!
Chúng sinh may mắn lắm thay! Kinh này chỉ ra người tại gia cần phải chí mong
được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch; người xuất gia phải hạnh thanh tịnh cao
xa, từ bi với tất cả.
Hạnh thanh tịnh tức là
phạm hạnh. Phạm có nghĩa là thanh tịnh, hạnh là hành vi cách sống. Cách sống
xa lìa lỗi lầm, dục lạc, đó là phạm hạnh. Từ là đem đến cho chúng sinh niềm
vui, bi là làm vơi hết khổ đau của chúng sinh. Thương yêu giáo hóa đó là từ
bi. Đệ tử xuất gia phải thực hành hạnh thanh tịnh đến chỗ cao xa, dùng lòng từ
bi vô ngã để đối đãi với tất cả chúng sinh, đem â huệ ra chan rải khắp cuộc đời!
Dịch thơ:
Điều thứ bảy nhớ ghi giác biết
Ngũ dục là muôn kiếp họa tai
Thân tuy ở tục qua ngày
Tâm không đắm nhiễm trần ai thói đời.
Thường nhớ nghĩ ba y, bình bát
Tiêu biểu cho Bồ tát xuất gia
Chí mong sớm được xa nhà
Sống đời giải thoát an hòa thanh cao.
Lập nguyện lớn cầu Vô thượng đạo
Hạnh kiên trì hoài bão độ sanh
Dù bao chướng ngại tu hành
Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi!
Biểu đồ 8: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ VII
Điều giác ngộ thứ bảy
- Phàm phu
- ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy.
- tai họa: thêm đấu tranh, thiêu đốt người, làm hại người, không chân thật, không lâu dài.
- Bồ tát:
- Tại gia - chí nguyện xuất gia.
- thường nhớ ba y, bình bát pháp khí, giữ đạo trong sạch.
- Xuất gia - thâm tâm xuất gia
- phạm hạnh cao xa, từ bi tất cả.
Dịch thơ:
Điều thứ bảy nhớ ghi giác biết
Ngũ dục là muôn kiếp họa tai
Thân tuy ở tục qua ngày
Tâm không đắm nhiễm trần ai thói đời.
Thường nhớ nghĩ ba y, bình bát
Tiêu biểu cho Bồ tát xuất gia
Chí mong sớm được xa nhà
Sống đời giải thoát an hòa thanh cao.
Lập nguyện lớn cầu Vô thượng đạo
Hạnh kiên trì hoài bão độ sanh
Dù bao chướng ngại tu hành
Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi!
Biểu đồ 8: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ VII
Điều giác ngộ thứ bảy
- Phàm phu
- ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy.
- tai họa: thêm đấu tranh, thiêu đốt người, làm hại người, không chân thật, không lâu dài.
- Bồ tát:
- Tại gia - chí nguyện xuất gia.
- thường nhớ ba y, bình bát pháp khí, giữ đạo trong sạch.
- Xuất gia - thâm tâm xuất gia
- phạm hạnh cao xa, từ bi tất cả.
Bài giảng thứ
IX
Tâm Đại Thừa là căn bản phổ độ chúng sinh
Phiên
âm:
Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát Đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc.
Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát Đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não thật vô biên, nên phát tâm Đại thừa, cứu độ khắp tất cả, nguyện thay thế chúng sinh, gánh chịu vô lượng khổ, khiến cho tất cả loài, đều được đại an lạc.
Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não thật vô biên, nên phát tâm Đại thừa, cứu độ khắp tất cả, nguyện thay thế chúng sinh, gánh chịu vô lượng khổ, khiến cho tất cả loài, đều được đại an lạc.
Giảng giải:
Tám điều giác ngộ của Bồ tát mà Kinh này nói, điều thứ nhất là thế gian quan của Phật giáo; đều thứ hai đến điều thứ bảy là nói nhân sinh quan của Phật giáo. Điều giác ngộ cuối cùng này là tông yếu của Kinh, thuyết minh: Đại thừa tâm là căn bản phổ độ chúng sinh.
Tám điều giác ngộ của Bồ tát mà Kinh này nói, điều thứ nhất là thế gian quan của Phật giáo; đều thứ hai đến điều thứ bảy là nói nhân sinh quan của Phật giáo. Điều giác ngộ cuối cùng này là tông yếu của Kinh, thuyết minh: Đại thừa tâm là căn bản phổ độ chúng sinh.
Chúng ta đọc Kinh này
từ đầu đến cuối đều nói về thế gian là vô thường, khổ không, vô ngã, bất tịnh,
cho đến ngũ dục là tai họa, đa cầu là tội lỗi, phải lìa sinh tử, phải ra ba cõi,
thì dường như thuộc về tư tưởng Tiểu thừa. Nhưng tông chỉ chính yếu của Kinh
này là muốn người học Phật phát tâm đại từ bi, độ khắp chúng sinh; thay chúng
sinh đảm đương khổ nạn. Đây hoàn toàn là tư tưởng Đại thừa nhập thế.
Cuộc sống độc thiện kỳ
thân, mang nặng màu sắc chủ nghĩa cá nhân. Nhưng hành giả Đại thừa chẳng những
cầu giải thoát cho riêng mình, mà còn mang bi nguyện cứu đời giúp người, làm
những việc lợi lạc cho hữu tình trong xã hội. Đây chính là ý chỉ và tâm yếu của
Kinh này.
Đức Phật thuyết Pháp,
trong rất nhiều Kinh điển đều lấy hàng Tỳ kheo làm đối tượng. Nhưng Kinh Bát
Đại Nhân Giác này lại thiên về Phật tử tại gia, nhằm hướng dẫn hàng cư sĩ học
Phật phải làm gì để cải thiện cuộc sống, nhận thức thế gian như thế nào, cho đến
làm sao để phổ độ chúng sinh.
Lời văn của Kinh này
tuy ngắn gọn, song thực sự có thể đại biểu cho tư tưởng Tiểu thừa, Đại thừa
trong Phật giáo. Theo Kinh này, hành giả muốn tu học Bồ tát đạo, bước đầu tiên
phải tu Pháp môn Tiểu thừa. Cho nên, hành giả trước hết phải đối với danh lợi
giả dối trong thế gian triệt để buông bỏ, rèn luyện thân tâm, tích cực chuẩn bị
đạo lực đến mức không còn bị thế gian ô nhiễm, rồi sau mới tùy nghi bước vào
cuộc đời cứu giúp chúng sinh. Đây mới gọi là Bồ tát chân chính.
Không luận là hành giả
Tiểu thừa thiên về thoát ly thế gian, hay hành giải Đại thừa thiên về phổ độ
chúng sinh, cả hai đều có cái nhìn chung là: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não
thực vô biên.
Chúng sinh trong vòng
luân hồi gây tạo biết bao tội lỗi. Thân phạm sát sinh, trộm cướp, tà dâm; tâm
đầy tham lam, sân hận, si mê. Những nghiệp tội vô lượng vô biên đó, như ngọn
lửa trong kiếp hỏa đốt cháy thế gian, thiêu đốt thân tâm, khiến chúng sinh phải
chịu biết bao khổ não. Nói đến khổ não vô lượng, trong Kinh này cũng tùy lúc
nói có hai khổ, ba khổ, tám khổ, v.v... Tóm lại Ta Bà là thế giới khổ đau. Văn
trước chúng tôi đã từng nói qua thân có các khổ về già bệnh chết; tâm có các khổ
về tham sân si; gia đình có các khổ về ân ái biệt ly; quyến thuộc có các khổ về
không được hòa hợp; xã hội có các khổ về cầu muốn không được, oán thù gặp nhau;
quốc gia có các khổ về chiến tranh, giặc giả; thiên nhiên có các khổ về lũ lụt,
động đất, giông bão...
Khổ chi phối thế gian,
bức bách chúng sinh. Mục đích của chúng ta học Phật là giải thoát đau khổ.
Nhân sinh là khổ. Nhưng chúng ta cần phải hỏi: Khổ từ đâu ra? Khổ từ đa dục mà
ra. Đa dục từ chỗ nào có? Đa dục từ chấp ngã có. Vì sao chấp ngã gây ra khổ?
Vì sự tương quan giữa ngã chấp và pháp chấp không được điều hòa. Có cái khổ do
mình và vật mà có, đó là do mình mong cầu vật chất mà không thỏa mãn. Có cái
khổ do mình và người mà có, đó là do quan hệ đụng chạm giữa ta và người. Có cái
khổ do mình và thân tâm mà có, đó là già, bệnh, phiền não, vốn đi theo, cùng có
mặt với sinh. Có cái khổ do mình và dục vọng cộng với nhận thức mà có, đó là do
nội tâm chúng ta nhận thức thế gian sai lầm mà ra. Chúng ta bị khổ não bao vây,
không luận là ai, cũng đều có nguyện vọng chung là giải thoát đau khổ. Cho nên
trách nhiệm của Bồ tát là phải phát tâm Đại thừa, cứu độ cho tất cả chúng sinh
thoát khỏi khổ ách.
Nói đến cứu độ tất cả
chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có chia ra hai cách khác nhau. Một là trước cứu
độ cho mình rồi sau cứu độ người khác. Hai là trước cứu độ người khác, còn mình
tuy chưa được độ vẫn không cần gấp lắm.
Trước cứu độ mình rồi
sau mới độ người là bảo: Mình nếu chứ được độ, làm sao có thể độ được người?
Biển khổ mênh mông, chúng sinh chìm đắm, mình nếu không biết bơi thì làm sao cứu
vớt họ được? Vì vậy, muốn phổ độ tất cả chúng sinh, trước hết mình phải liễu
thoát sinh tử, không còn ưu bi khổ não.
Còn nói trước độ người
mà mình chưa được độ, đây mới là Bồ tát phát tâm. Bồ tát là ngay nơi chúng sinh
mà học. Bồ tát lìa chúng sinh ra cũng không gọi là Bồ tát. Lúc cứu độ chúng
sinh viên mãn, cũng là lúc Bồ tát đạo của mình viên mãn.
Không luận là nói cách
nào, đã phát tâm Đại thừa học đạo, nguyện độ khắp tất cả chúg sinh, thì việc
trọng yếu hơn hết là hoằng pháp lợi sinh. Đối với Bồ tát, hoằng pháp là bổn
phận tất nhiên, lợi sinh là hoài bão xưa nay, không một chút chần chờ, do dự.
Đây chính là thái độ Bồ tát Đại thừa đối với cuộc đời. Nói phát tâm Đại thừa,
vậy thế nào là tâm Đại thừa? Phật giáo chia ra Đại thừa và Tiểu thừa. Đại thừa
là chỉ Bồ tát, Tiểu thừa là chỉ Thanh văn, Duyên giác, mà trong Kinh Pháp Hoa
dùng xe dê, xe nai và xe trâu trắng lớn để tỉ dụ.
Thanh văn chỉ có thể
tự độ, không thể độ người, như xe dê không thể chở đồ. Duyên giác có thể độ
mình và thân thuộc, như xe nai chở được một ít đồ. Bồ tát tự độ lại có thể phổ
độ chúng sinh, như xe trâu trắng lớn có thể chở mọi thứ hàng hóa. Phát tâm Đại
thừa nói ở đây, cũng chính là tâm Bồ tát độ khắp tất cả chúng sinh.
Tâm Đại thừa bao hàm
tâm Bồ đề, tâm đại bi và tâm phương tiện. Tâm Bồ đề là hạt giống (nhân), tâm
đại bi là gốc rễ (bản), tâm phương tiện là hoa trái (cứu cánh). Một hành giả Bồ
tát phát tâm, nhất định phải có đủ ba tâm nói trên, mới gọi là phát tâm Đại
thừa.
Phát tâm Bồ đề là phát
tâm trên cầu Phật đạo. Nói Phật đạo, là phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp mới
đạt được. Không phát tâm Vô thượng Bồ đề, làm sao qua được sự khảo nghiệm lâu
xa như vậy? Kinh nói: Trong đời có một người phát tâm Bồ đề, là có thêm một hạt
giống thành Phật. Học Phật không phát tâm Bồ đề, như thửa ruộng không gieo
giống, thì làm sao có ngày gặt hái? Tâm Bồ đề chính là tâm thệ nguyện, có tâm
thệ nguyện mới có thể thành tựu. Phát tâm Bồ đề là phát bốn lời thệ nguyện rộng
lớn (Tứ hoằng thệ nguyện):
Chúng sinh vô biên,
thệ nguyện độ
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng, thệ nguyệ thành.
Đây chính là tâm Bồ đề của Đại thừa.
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng, thệ nguyệ thành.
Đây chính là tâm Bồ đề của Đại thừa.
Phát tâm đại bi là
phát tâm dưới độ chúng sinh. Bồ tát dưới độ chúng sinh phải phát tâm đại từ vô
duyên, đại bi đồng thể, xem khổ nạn của chúng sinh là khổ nạn của mình, xem niềm
vui của chúng sinh là niềm vui của mình, độ chúng sinh mà không mong cầu báo
đáp, thấy việc phục vụ chúng sinh là lẽ đương nhiên. Nguyện thay chúng sinh,
chịu vô lượng khổ mà Kinh này nói, chính là tâm đại bi của Đại thừa.
Phát tâm phương tiện
là phát tâm thực hành bốn pháp nhiếp hóa (Tứ nhiếp pháp). Chúng sinh căn tính
bất đồng, nên muốn giải cứu đau khổ cho chúng sinh, cần phải có nhiều phương
tiện khéo léo. Đức Phật từng quán sát căn tính chúng sinh mà tuỳ duyên thuyết
pháp, nói ra bốn muôn tám ngàn pháp môn. Đây là đức Phật có phương tiện độ
sinh.
Bồ tát thực hành bốn
pháp nhiếp hóa (Tứ nhiếp pháp): Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, để khiến cho
tất cả loài, đều được đại an lạc. Đây chính là tâm phương tiện.
Gồm đủ cả ba tâm: Tâm
Bồ đề, tâm đại bi, tâm phương tiện, mới gọi là tâm Đại thừa. Phát tâm Đại thừa
cứu độ chúng sinh, cần phải làm được chuyện khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn.
Nếu không, tâm Đại thừa không dễ gì phát khởi.
Thuở quá khứ, Xá Lợi
Phất khi còn ở nhân địa tu tập chuyển từ Tiểu thừa lên Đại thừa, sắp chứng vào
bậc Thất địa Bồ tát bất thoái, thì có vị trời muốn đến thử tâm Đại thừa của
ngài. Vị trời ấy hóa là một người con hiếu, đang ngồi than khóc bên đường. Xá
Lợi Phất đi ngang trông thấy hỏi:
- Xin hỏi sao lại ngồi
ở đây mà khóc/ Có chuyện gì xảy ra vậy?
- Không liên can gì
đến ngài, xin để cho tôi yên.
- Hãy nói cho tôi
biết, tôi là đệ tử Phật thương yêu giúp đỡ mọi người. Ông có điều gì khó khăn,
xin nói ra tôi sẽ giúp.
- Việc của tôi, tôi sợ
ngài không giúp được!
- Ông hãy nói cho tôi
nghe xem!
Xá Lợi Phất giục.
Xá Lợi Phất giục.
Lúc đó vị ấy mới than
thở:
- Mẹ tôi chẳng may bị
mắc chứng bệnh nan y. Thầy thuốc bảo phải dùng mắt người sống hòa với thuốc
uống mới hết. Nhưng người này phải là bậc thánh tu hành! Ngài nghĩ xem, mắt
người sống đã là khó kiếm, lại còn phải là mắt của bậc thánh tu hành thì kiếm
đâu ra? Nghĩ đến mẹ tôi không cách nào cứu được, nhất định phải chết, nên tôi
đau lòng than khóc.
Nghe xong, Xá Lợi Phất
mỉm cười, từ hòa nói với người ấy:
- Được rồi, ông cứ an tâm, tôi sẽ giúp cho!
- Thật ư?
- Được rồi, ông cứ an tâm, tôi sẽ giúp cho!
- Thật ư?
- Không sai chút nào!
Nói cho ông biết, tôi là người đã chứng quả, đã phát tâm Đại thừa đem những vật
ngoài thân ra thí cho chúng sinh. Nay có cơ hội đem vật trong thân ra cho chúng
sinh, xin ông hãy móc mắt tôi!
Nói xong Xá Lợi Phất
điềm nhiên đứng cho người kia móc mắt. Song người đó xua tay bảo:
- Làm như vậy không
được! Tôi không dám móc mắt ngài, vì đây là việc làm phạm pháp. Nếu ông hoan
hỷ cứu mạng mẹ tôi, xin hãy tự móc mắt lấy!
Xá Lợi Phất nghe nói
có lý, liền tự tay móc mắt bên trái ra, ráng chịu đựng cơn đau nói với người ấy:
- Ông hãy cầm lấy, cầu
nguyện mẹ ông sớm bình phục.
Nhưng người kia cũng
lại xua tay nói:
- Thầy thuốc bảo phải
con mắt bên phải mới được! Con mắt bên trái của ngài tôi đâu có cần?
Xá Lợi Phất nghe xong,
giật mình thất sắc, nghĩ bụng:
- Thật là không may!
Con mắt bên trái đã móc ra rồi, còn lại con bên phải để nhìn, nay biết làm sao?
Ông tự trách mình sao vô ý, không hỏi trước cần con bên nào! Kế đó, Xá Lợi Phất lại nghĩ: Các bậc thánh xưa tu học Bồ tát đạo, phát tâm Đại thừa, trải qua nhiều đời nhiều kiếp xả bỏ đầu mắt tủy não bố thí cho chúng sinh. Ta nay sao lại không làm được? Cứu người phải tới nơi tới chốn. Con mắt bên trái không dùng được, thì cho con mắt bên phải.
Ông tự trách mình sao vô ý, không hỏi trước cần con bên nào! Kế đó, Xá Lợi Phất lại nghĩ: Các bậc thánh xưa tu học Bồ tát đạo, phát tâm Đại thừa, trải qua nhiều đời nhiều kiếp xả bỏ đầu mắt tủy não bố thí cho chúng sinh. Ta nay sao lại không làm được? Cứu người phải tới nơi tới chốn. Con mắt bên trái không dùng được, thì cho con mắt bên phải.
Suy nghĩ như vậy xong,
ngài bèn dũng mãnh móc con mắt phải ra cho người kia. Nhưng người ấy cầm lấy
con mắt đưa lên mũi ngửi, liền quăng xuống đất, lấy chân chà đạp lên, mắng rằng:
- Ông là bậc thánh gì
mà tròng mắt lại hôi tanh như vậy? Đâu có thể đem làm thuốc để trị bệnh cho mẹ
tôi!
Xá Lợi Phật lúc ấy tuy mù, nhưng tai vẫn nghe biết người đó quăng mắt mình xuống đất rồi chà đạp lên, lại nghe lời mắng chửi nên nản lòng, suy nghĩ: Ông cần con mắt người sống là thứ không thể tìm được. Tôi vì phát tâm Đại thừa, phổ độ chúng sinh nên móc mắt cho ông. Thế mà mắt bên trái ông nói vô dụng, mắt bên phải ông chê tanh hôi, tôi có gì lầm lỗi với ông mà ông lại mắng tôi!
Xá Lợi Phật lúc ấy tuy mù, nhưng tai vẫn nghe biết người đó quăng mắt mình xuống đất rồi chà đạp lên, lại nghe lời mắng chửi nên nản lòng, suy nghĩ: Ông cần con mắt người sống là thứ không thể tìm được. Tôi vì phát tâm Đại thừa, phổ độ chúng sinh nên móc mắt cho ông. Thế mà mắt bên trái ông nói vô dụng, mắt bên phải ông chê tanh hôi, tôi có gì lầm lỗi với ông mà ông lại mắng tôi!
Xá Lợi Phất lúc ấy
không còn lòng nào nghĩ chuyện cứu độ chúng sinh, vô cùng chán nản, cảm thấy
chúng sinh khó độ, nên không phát tâm Đại thừa nữa.
Đây là một đoạn đường
trải qua của Xá Lợi Phất khi ở nhân địa tu hành trong thuở quá khứ.
Qua đó ta có thể thấy,
tâm Đại thừa thật khó phát vô cùng. Song chúng ta không nên sợ khó. Do chúng
ta có quan niệm phân biệt đối đãi giữa mình và chúng ính, nên không có tâm đại
bi đồng thể. Nếu chúng ta có thể lìa được bốn tướng: ngã, nhân, chúng ính, thọ
giả như Kinh Kim Cương nói, thì tâm Đại thừa phổ độ chúng sinh sẽ phát khởi.
Muốn thực hiện hạnh
lợi tha, phải có tinh thần dũng mãnh, xông pha vào chốn dầu sôi lửa bỏng, hoan
hỷ nguyện thay chúng sinh chịu vô lượng khổ. Được như vậy, mới là hành giả Bồ
tát Đại thừa. Đức Phật khi mới xuất gia đã phát bốn thệ nguyện:
1. Nguyện cứu khổ ách
cho chúng sinh.
2. Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh.
3. Nguyện đoạn tà kiến cho chúng sinh.
4. Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng sinh tử.
Bốn tâm nguyện này, cũng chính là tâm Đại thừa của Bồ tát.
-----------------------------------------
Kinh Kim Cương nói: Nếu Bồ tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, thì đó không phải là Bồ tát. Lại nói: Nếu Bồ tát đó (còn kiến chấp) còn thấy có tướng về pháp, tức còn chấp trước tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.
-----------------------------------------
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Không cần an lạc cho riêng mình
Chỉ nguyện chúng sinh được hết khổ.
2. Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh.
3. Nguyện đoạn tà kiến cho chúng sinh.
4. Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng sinh tử.
Bốn tâm nguyện này, cũng chính là tâm Đại thừa của Bồ tát.
-----------------------------------------
Kinh Kim Cương nói: Nếu Bồ tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, thì đó không phải là Bồ tát. Lại nói: Nếu Bồ tát đó (còn kiến chấp) còn thấy có tướng về pháp, tức còn chấp trước tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.
-----------------------------------------
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Không cần an lạc cho riêng mình
Chỉ nguyện chúng sinh được hết khổ.
Đây là tâm Đại thừa độ
khắp tất cả chúng sinh của Bồ tát. Như Bồ tát Văn Thù thì đại trí, Bồ tát Phổ
Hiền thì đại hạnh, Bồ tát Quán Âm thì đại bi, Bồ tát Địa Tạng thì đại nguyện,
đây đều là những nhân vật đại biểu sự phát tâm Đại thừa, đáng cho chúng ta noi
theo.
Tóm lại, chỉ mong
riêng mình khỏi khổ, là hạng người bình thường (đương nhiên cũng có người vì căn
tánh hạ liệt không mong thoát khổ, thích ngồi trong lao ngục); mong người khác
thoát khổ, là hạng người có tâm thiện lớn; mong thay thế chúng sinh chịu khổ,
đây là hàng Bồ tát phát tâm Đại thừa. Những bậc Bồ tát phát tâm Đại thừa như Bồ
tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng đều có thể khiến các chúng sinh được
đại an lạc nơi Niết bàn thanh tịnh giải thoát.
Dịch thơ:
Điều thứ tám nhớ ghi giác biết
Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu
Chúng sinh khổ não đủ điều
Xưa nay không biết bao nhiêu đoạ đày.
Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh Đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.
Biểu đồ 9: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ VIII
Điều giác ngộ thứ tám
- Phàm phu - ba cõi không an như nhà lửa
- Sinh tử thiêu đốt
- Khổ não vô lượng
- Bồ tát - phát Đại thừa tâm - khiến được an lạc lớn
- Độ khắp tất cả
- Chịu thay đau khổ
Dịch thơ:
Điều thứ tám nhớ ghi giác biết
Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu
Chúng sinh khổ não đủ điều
Xưa nay không biết bao nhiêu đoạ đày.
Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh Đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.
Biểu đồ 9: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ VIII
Điều giác ngộ thứ tám
- Phàm phu - ba cõi không an như nhà lửa
- Sinh tử thiêu đốt
- Khổ não vô lượng
- Bồ tát - phát Đại thừa tâm - khiến được an lạc lớn
- Độ khắp tất cả
- Chịu thay đau khổ
Bài giảng thứ
X
Tổng kết Kinh
Bát Đại Nhân Giác
Phiên
âm:
Như thử bát sự, nãi
thị chư Phật Bồ tát Đại nhân chi sở giác ngộ, tinh tấn hành đạo, từ bi tu tuệ,
thừa pháp thân thuyền, chí Niết bàn ngạn. Phục hoàn sinh tử, độ thoát chúng
sinh, dĩ tiền bát sự, khai đạo nhất thiết, linh chư chúng sinh, giác sinh tử
khổ, xả ly ngũ dục, tu tâm thánh đạo. Nhược Phật đệ tử, tụng thử bát sự, ư niệm
niệm trung, diệt vô lượng tội, tiến thú Bồ đề, tốc đăng chánh giác, vĩnh đoạn
sinh tử, thường trú khoái lạc.
Dịch nghĩa:
Tám điều nói trên đây,
Đại nhân Phật Bồ tát, đã từng tự giác ngộ, và tinh tấn hành đạo, tu từ bi trí
tuệ, nương theo thuyền pháp thân, đến nơi bờ Niết bàn; rồi trở lại sinh tử, độ
thoát các chúng sinh, cũng đem tám điều này, chỉ dạy cho tất cả, khiến mọi loài
chúng sinh, biết được sinh tử khổ, xa lìa năm món dục, tu tâm theo thánh đạo.
Nếu người đệ tử Phật, tụng niệm tám điều này, sẽ ở trong mỗi niệm, diệt được vô
lượng tội, thẳng tiến đến Bồ đề, mau thành tựu Chánh giác, dứt hẳn đường sinh
tử, thường an trú tịnh lạc.
Trong bài giảng thứ I,
chúng tôi đã giảng qua phần tự. Từ bài giảng thứ II đến bài giảng thứ IX là
phần chánh tông và bài giảng thứ X là tổng kết phần lưu thông của Kinh này.
Trong phần lưu thông tổng kết Kinh văn, tuy so với mỗi điều giác ngộ có nhiều
hơn, nhưng ý nghĩa trong đó đều đã giảng qua ở những phần trên, nên có thể xem
qua liền hiểu. Chẳng qua, có một vài chỗ vẫn chưa được đề cập đến, nên cần phải
nói rõ thêm.
Nội dung của Kinh này,
nếu chúng ta suy xét kỹ lưỡng sẽ thấy là sáu Ba la mật. Sáu Ba la mật là hành
môn mà Bồ tát cần phải tu tập, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí tuệ. Trong Kinh văn dường như hai pháp Ba la mật thiền định và nhẫn
nhục không có trực tiếp nói đến. Song thật ra sáu Ba la mật là một tổng thể bất
khả phân, xuyên suốt với nhau. Chúng ta xem phần Kinh văn tổng kết, sẽ thấy bao
hàm cả sáu Ba la mật.
Trong Kinh văn có có
câu tu tâm Thánh đạo. Thánh đạo ở đây là chỉ tám Thánh đạo: chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Chánh định trong bát Thánh đạo chính là thiền định trong sáu Ba la mật.
Đến như nhẫn nhục, chúng ta thường nghe nói: Biết đủ thường được an vui; biết
nhẫn tự nhiên an ổn. Tri túc và nhẫn nhục là pháp môn đem lại sự an lạc. Kinh
văn nói: Xa lìa năm dục, trở lại sinh tử, độ thoát chúng sinh, nếu người không
nhẫn nhục được, thì làm sao mà có thể làm nổi?
Trong Kinh nhấn mạnh:
Tinh tấn hành đạo cốt phải từ bi tu tuệ. Trong sáu Ba la mật, trí tuệ là quan
trọng nhất. Đức Phật là mẹ của tất cả chúng sinh, trí tuệ lại là mẹ của tất cả
chư Phật! Năm Ba la mật trước là chân, trí tuệ Ba la mật là mắt. Người tuy có
chân đi đường, nhưng thiếu mắt, sẽ gặp nguy hiểm trùng trùng.
Trong Lục độ, bố thí và nhẫn nhục là hạnh lành mà thế gian cũng có. Nhưng bố thí của thế gian có khi vì thương hại mà bố thí, có khi vì mua danh mà bố thí, có khi vì mong cầu báo đáp mà bố thí. Bố thí như vậy là không có trí tuệ soi thấy thể tánh cả ba (người thí, vật, thí, người thọ thí) đều không. Cho nên, chỉ có thể coi đó là hạnh lành hữu vi của thế gian, mà không phải là bố thí Ba la mật.
Trong Lục độ, bố thí và nhẫn nhục là hạnh lành mà thế gian cũng có. Nhưng bố thí của thế gian có khi vì thương hại mà bố thí, có khi vì mua danh mà bố thí, có khi vì mong cầu báo đáp mà bố thí. Bố thí như vậy là không có trí tuệ soi thấy thể tánh cả ba (người thí, vật, thí, người thọ thí) đều không. Cho nên, chỉ có thể coi đó là hạnh lành hữu vi của thế gian, mà không phải là bố thí Ba la mật.
Không có trí tuệ, tất
cả Phật Pháp đều trở thành thế gian pháp. Cho nên Bồ tát phát tâm học đạo, mong
liễu sinh tử, nguyện độ chúng sinh, thì không luận là bố thí, trì giới hay tinh
tấn, v.v... đều phải lấy trí tuệ làm đầu; đã có trí tuệ, lại từ bi, tinh tấn
hành đạo, thì sẽ được nương theo thuyền pháp thân, đến nơi bờ Niết bàn.
Thuyền pháp thân chỉ
là Phật tính chân như mà ai cũng đều sẵn đủ. Chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo
sinh tử, sở dĩ cuối cùng đều được cứu độ, không phải mãi mãi trầm luân, là nhờ
có thuyền pháp thân nương tựa, vốn có sẵn ở nơi mỗi người.
Chúng sinh tuy có
thuyền pháp thân, nhưng lại trôi giạt, trầm luân, không thể ra khỏi biển khổ,
lên bờ Niết bàn.
Niết bàn, người Trung
Quốc hiểu lầm là chết. Thật là một sai lầm to lớn vô cùng. Niết bàn mang ý:
Muôn đức viên mãn, công đức trang nghiêm. Niết bàn là từ chỗ động loạn, trở về
nơi vắng lặng, không còn sinh tử, không có phiền não, giải thoát hoàn toàn.
Niết bàn đối đãi với sinh tử. Phật Pháp ví sinh tử là bờ bên này và Niết bàn là
bờ bên kia. Chúng sinh ở bờ sinh tử bên này, phải chịu vô thường, khổ đau, ưu
bi phiền não. Thánh giả an trú Niết bàn ở bờ bên kia, được thường lạc ngã tịnh,
an ổn tự tại. Cảnh giới Niết bàn là nơi chúng sinh hướng đến. Nếu chúng sinh
biết nương thuyền từ Phật Pháp, thì có thể qua đến bờ kia Niết bàn.
Tư tưởng Niết bàn nói
trên, dường như là tư tưởng hoàn toàn xuất thế. Vì thế, có người cho rằng tu
hành là trốn lánh thế gian, trốn lánh hiện thực. Thực ra, Bồ tát sau khi Niết
bàn, lại phải trở lại sinh tử, độ thoát chúng sinh.
Pháp sư Từ Hàng khi
viên tịch có để lại mấy câu kệ:
Nếu còn một người chưa được độ
Không nên trốn lánh cho riêng mình!
Nếu còn một người chưa được độ
Không nên trốn lánh cho riêng mình!
Bồ tát chứng Niết bàn
không phải trốn lánh, mà là thành tựu sở học cho mình trước, rồi sau mới chèo
chống thuyền tử, vào biển sinh tử, cứu vớt chúng sinh.
Người niệm Phật nguyện
vãng sinh Tây phương Tịnh độ, cũng không phải là chán bỏ thế gian, mà là trước
cầu chứng bất thoái chuyển, rồi sau nương sức thệ nguyện trở lại Ta bà, rộng độ
chúng ính.
Nếu chúng sinh chưa
được độ mà riêng mình muốn vào Niết bàn, thì không phải là Niết bàn cứu cánh, mà
là hành vi Tiểu thừa. Bồ tát sau khi nương tám điều giác ngộ tu hành chứng được
Niết bàn, lại đến nhân gian sinh tử, đem tám điều này, khai thị mọi người, khiến
các chúng sinh biết sinh tử khổ, buông bỏ năm dục, tu tâm Thánh đạo.
Nói đến tu tâm, đây là
điều ít ai chú ý. Người ta thường chỉ tham cầu sự hưởng thụ của giác quan mắt
tai mũi lưỡi, song đối với tâm lại bỏ qua, không chút quan tâm. Mắt tham lam
sắc tướng xinh đẹp, tai tham luyến âm thanh véo von, mũi ham thích mùi hương
thơm ngát, lưỡi tham mê vị ngon béo bùi, thân tham đắm cảm xúc êm mát, song lại
bỏ quên người chủ của nó là tâm. Nhưng một mai vô thường đến, mắt không còn
thấy sắc, tai không còn nghe tiếng, mũi không còn ngửi mùi, lưỡi không còn nếm
vị, thân không còn cảm xúc, chừng ấy tâm mới hoang mang lo sợ. Tục ngữ bảo:
Đợi khi nạn gấp ôm
chân Phật
Còn lúc bình thường chẳng thắp hương!
Còn lúc bình thường chẳng thắp hương!
Đây là chỉ những người
lúc bình thường không biết tu tâm.
Xưa có một người giàu
có, suốt đời keo kiệt, không biết tu thân mà cũng không biết tu tâm. Ông ấy lấy
bốn bà vợ, mà người được yêu quí nhất là bà vợ thứ tư, suốt ngày ân ái, nửa bước
không rời. Kế đó là bà vợ thứ ba, là người ông cũng vô cùng yêu mến, hễ gặp thì
mừng, xa là buồn nhớ. Còn bà vợ thứ hai, lúc nghèo khổ thì ông cũng thương yêu,
nhưng đến khi giàu có thì tình cảm lần lần phai lạt. Song người vợ mà ông bỏ
bê, chưa từng biết quan tâm, chăm sóc, đó chính là người vợ cả!
Một hôm, ông mắc phải
một chứng bệnh nan y, biết rằng mình sắp chết, ông bèn cho gọi bà vợ thứ tư,
người mà ông thương yêu nhất đến bảo:
- Này phu nhân! Trước
giờ tôi thương yêu bà nhất, không giây phút xa lìa. Nay tôi không còn sống được
bao lâu, chết đi sẽ một mình cô đơn tịch mịch; tài sản, vợ con tuy nhiều, cũng
chẳng đem theo được gì. Giờ tôi muốn bà đi theo tôi cho trọn tình trọn nghĩa,
không biết ý bà ra sao?
Bà vợ thứ tư nghe vậy
sợ quá, vội đáp:
- Ông sao suy nghĩ vớ
vẩn! Ông già bệnh, chết là lẽ đương nhiên, còn tôi như thế này, làm sao mà chết
theo ông được? Ông đối với bà thứ ba cũng không tệ gì, sao không kêu bà ấy đi
với ông?
Phú ông chỉ biết thở
dài chán nản. Một lát sau, ông lại cho mời bà thứ ba đến và cũng yêu cầu như
đối với bà thứ tư.
Bà này nghe xong giật
mình, vội nói:
- Làm như vậy sao
được? Tôi còn trẻ đẹp, ông chết tôi có thể đi tái giá mà! Sao không gọi bà thứ
hai đi theo?
Phú ông lại cũng chỉ
biết thở dài, xua tay bảo bà thứ ba lui ra. Bà thứ ba đi rồi, ông cho gọi bà
thứ hai đến, cũng yêu cầu bà đi theo hầu hạ.
Bà này nghe xong, vội
vã xua tay:
- Không được! Không
được! Tôi làm sao mà đi theo ông được? Bà vợ thứ tư và bà vợ thứ ba của ông
chẳng chịu làm gì, việc nhà một mình tôi lo liệu, tôi không thể bỏ nhà cửa theo
ông được. Chẳng qua vì tình cảm vợ chồng, ông chết tôi đưa ông ra tới mộ rồi
trở về!
Phú ông nghe õng nghẹn
ngào tuyệt vọng, chẳng còn biết trông nhờ vào ai. Cuối cùng ông chợt nhớ đến bà
vợ cả, người bà bấy lâu nay ông quên bẳng, mới cho người mời bà đến bên giường,
buồn rầu nói:
- Này bà, tôi trước
giờ thật có lỗi, đã đối xử với bà rất lạnh nhạt. Nay tôi sắp xuống âm phủ,
không ai làm bạn, bà có chịu cùng đi với tôi không?
Bà vợ cả nghe xong,
không những không sợ, mà còn trang trọng đáp:
- Lấy chồng thì phải
theo chồng. Nay ông sắp mất, tôi sống làm sao được, vậy xin theo ông cho trọn
nghĩa thủy chung!
- Bà... bà! Bà chịu
đi theo tôi sao?
Phú ông ngạc nhiên ngoài ý tưởng hỏi lại, rồi tiếp theo nói:
Phú ông ngạc nhiên ngoài ý tưởng hỏi lại, rồi tiếp theo nói:
- Ôi, trước đây tôi
không biết được tấm lòng thủy chung của bà, nên đã bỏ bê, không ngó ngàng đến.
Tôi đối xử với bà thứ tư và thứ ba còn quá hơn mạng sống của mình, bà thứ hai
cũng không tệ bạc. Thế mà bây giờ tôi sắp chết, họ lại quên ân phụ nghĩa, bỏ
tôi mà đi. Còn bà tôi không coi trọng, lại chịu theo tôi mãi mãi! Ôi! Tôi phụ
bạc bà quá. Sao không biết đối xử tối với bà sớm hơn?
Phú ông nói xong cùng ôm bà vợ cả chết chung một lúc.
Phú ông nói xong cùng ôm bà vợ cả chết chung một lúc.
Đây là một câu chuyện
ngụ ngôn, mang ý nghĩa sâu sắc được ghi lại trong Kinh. Ý nghĩa đó là gì? Bà
vợ thứ tư mà ta chưa từng xa rời nửa bước, đó chính là thân thể, thân thể là cái
mà người ta yêu quí nhất. Người ta trang sức, chăm sóc, làm thoả mãn mọi sự đòi
hỏi của thân. Nhưng thử hỏi, đến khi chết liệu chúng ta có đem thân thể theo
được không? Hay lúc đó, nó chỉ là cái xác xình thối, vô ích, phải mau mau chôn
cất, hay thiêu đốt!
Bà vợ thứ ba muốn tái
giá, đó chính là tiền bạc, của cải mà ta yêu tiếc, có nó thì mừng, không có thì
buồn. Nhưng đến khi chết, dù gia tài đồ sộ, tiền muôn bạc vạn, thử hỏi ta có
đem theo được đồng nào? Hay tiền bạc sẽ tái giá vào tay người khác!
Bà vợ thứ hai phải lo
chăm sóc gia đình, chính là bà con, bạn bè. Lúc ta nghèo khổ, khó khăn cần giúp
đỡ, mới nhớ đến bà con, bạn bè, song khi có tiền lại chỉ nghĩ đến bản thân!
Đừng tưởng điều gì cũng có thể nhờ vào bà con, bạn bè giúp đỡ. Đến khi sinh tử,
đường ai nấy đi. Chí thân như cha với con, đến lúc chết cũng không đi theo
được, huống chi là kẻ khác hay sao? Bất quá họ chỉ đưa đám tang mình một đoạn
đường, ra đến mộ, lấp đất chôn xong lại trở về!
Còn bà vợ cả mà ta bỏ
bê, quên lãng, đó chính là tâm của ta. Khi chúng ta còn sống không biết tu tâm,
chỉ lo tham cầu ngũ dục, gây tạo biết bao nghiệp tội. Đến khi chết, mới biết
ngũ dục không đem theo được, chỉ có nghiệp thiện ác nơi tâm, mới đi thọ sinh
cùng với chúng ta. Vì vậy cổ nhân nói:
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân.
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần.
Tu tâm trong tu tâm
Thánh đạo là điều mà chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng. Phải đoạn trừ tâm
dua nịnh, giả dối, sân hận, tham dục. Khi còn sống mạnh khoẻ, chúng ta nên nỗ
lực tu tâm, nhất là những người đã phát tâm học đạo! Kinh Di Giáo nói: "Nên
đoan chính tâm mình, lấy tâm chân thật, ngay thẳng làm gốc." Kinh Duy Ma cũng
nói: "Tâm ngay thẳng là đạo tràng." Khi chúng ta thành tựu việc thanh tịnh hóa
tâm mình, chuyển tình thức hành trí tuệ, thì đó cũng là lúc chúng ta thành tựu
Phật đạo!
Học Kinh này xong, chúng ta có một kết luận khái quát như sau:
Học Kinh này xong, chúng ta có một kết luận khái quát như sau:
Tám điều giác ngộ này
là điều mà tất cả chư Phật và Bồ tát nên giác ngộ, để lo việc liễu sinh thoát tử
và phổ độ chúng sinh. Bồ tát Đại nhân phải nên tinh tấn tu học trau dồi phước
tuệ từ bi, nương thuyền pháp thân đến bờ Niết bàn giải thoát an lạc. Rồi sau đó
trở lại thế giới này, vào ra sinh tử để giáo hóa, cứu độ chúng sinh còn trong
biển khổ.
Vậy dùng phương tiện
gì để giáo hóa chúng sinh? Đó là đem tám điều giác ngộ ra khai thị, khiến mọi
người cùng giác ngộ sinh tử là khổ, buông bỏ dục vọng về khoái lạc không thật
của ngũ dục, tu tâm để hoàn thành Bát Thánh đạo.
Nếu đệ tử Phật thường
luôn tụng niệm, ghi nhớ tám điều này trong lòng, sẽ được lợi ích rất lớn. Người
này có thể diệt trừ vô lượng tội nghiệp trong từng ý niệm, tinh tấn tu tập, tiến
mãi trên con đường hướng đến Bồ đề, cho đến ngày lên ngôi Chánh giác, dứt hẳn
sinh tử khổ não, thường trú nơi Niết bàn thanh tịnh, giải thoát an lạc.
Dịch thơ:
Phật Bồ tát đã từng giác ngộ
Tám điều này, tự độ độ tha
Bồ đề tâm phát sâu xa
Tinh tấn hành đạo, chướng ma phục hàng.
Vung gươm tuệ, cắt màn si ám
Rải mưa bi, dập đám lửa phiền
Pháp thân nương lấy con thuyền
Niết bàn, giải thoát bình yên lên bờ.
Thấy đau khổ, lòng từ không nỡ
Thừa nguyện xưa, thuyền trở bến mê
Lại dùng tám việc đề huề
Chỉ cho sinh chúng quay về bờ kia.
Biết giác ngộ, xa lìa ngũ dục
Thấy tử sinh là ngục khổ đau M
Tu tâm quét sạch trần lao
Theo đường Thánh đạo, cùng nhau Niết bàn.
Đệ tử Phật tụng trì tám việc
Niệm niệm luôn tội diệt phước sanh.
Bồ đề chánh giác sớm thành
An vui thường trú, tử sanh không còn. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/4/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Dịch thơ:
Phật Bồ tát đã từng giác ngộ
Tám điều này, tự độ độ tha
Bồ đề tâm phát sâu xa
Tinh tấn hành đạo, chướng ma phục hàng.
Vung gươm tuệ, cắt màn si ám
Rải mưa bi, dập đám lửa phiền
Pháp thân nương lấy con thuyền
Niết bàn, giải thoát bình yên lên bờ.
Thấy đau khổ, lòng từ không nỡ
Thừa nguyện xưa, thuyền trở bến mê
Lại dùng tám việc đề huề
Chỉ cho sinh chúng quay về bờ kia.
Biết giác ngộ, xa lìa ngũ dục
Thấy tử sinh là ngục khổ đau M
Tu tâm quét sạch trần lao
Theo đường Thánh đạo, cùng nhau Niết bàn.
Đệ tử Phật tụng trì tám việc
Niệm niệm luôn tội diệt phước sanh.
Bồ đề chánh giác sớm thành
An vui thường trú, tử sanh không còn. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/4/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment