Monday, 5 November 2012

Vấn đáp Phật Pháp : Công năng của Thần Chú Đại Bi : Bản tin Khánh Anh

Vấn đáp Phật Pháp : Công năng của Thần Chú Đại Bi

Hỏi : Tôi hành trì pháp môn Đại bi, niệm thần chú này nhiều lần trong ngày. Xin cho biết khái lược về thần chú Đại Bi, nhất là công năng của thần chú này ? Đáp : Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tập 2, tr.1218), thần chú Đại Bi, Phạn ngữ Mahàkàrunikacitta-dhàrani, Hán dịch Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Thần Chú, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Đại Bi Tâm Đà La Ni, là thần chú nói về công đức nội chứng của Bồ tát Quán Thế Âm.
Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, do ngài Già Phạm Đạt Ma người Tây Thiên Trúc dịch (thời Đường), toàn bài chú này có 84 câu, người trì tụng thần chú Đại Bi sẽ được 15 điều lành, không bị 15 thứ hoạnh tử bức hại.
- Được 15 điều lành : 1. Sinh ra thường được gặp vua hiền, 2. Thường sinh vào nước an ổn, 3. Thường gặp vận may, 4. Thường gặp được bạn tốt, 5. Sáu căn đầy đủ, 6. Tâm đạo thuần thục, 7. Không phạm giới cấm, 8. Bà con hòa thuận thương yêu, 9. Của cải thức ăn thường được sung túc, 10. Thường được người khác cung kính, giúp đỡ, 11. Có của báu không bị cướp đoạt, 12. Cầu gì đều được toại ý, 13. Long, Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ, 14. Được gặp Phật nghe pháp, 15. Nghe Chánh pháp ngộ được nghĩa thâm sâu.
- Không bị 15 thứ hoạnh tử : 1. Chết vì đói khát khốn khổ, 2. Chết vì bị gông cùm, giam cầm đánh đập, 3. Chết vì oan gia báo thù, 4. Chết vì chiến trận, 5. Chết vì bị ác thú hổ, lang sói làm hại, 6. Chết vì rắn độc, bò cạp, 7. Chết trôi, chết cháy, 8. Chết vì bị thuốc độc, 9. Chết vì trùng độc làm hại, 10. Chết vì điên loạn mất trí, 11. Chết vì té từ cây cao hoặc rớt xuống vực thẳm, 12. Chết vì người ác trù ếm, 13. Chết vì tà thần, ác quỷ làm hại, 14. Chết vì bệnh nặng bức bách, 15. Chết vì tự tử.
Ngoài ra, theo kinh Thiên Nhãn Thiên Tí Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú (quyển thượng), trì tụng chú này 108 biến, tất cả phiền não tội chướng đều được tiêu trừ, thân khẩu ý thanh tịnh.
Thần chú Đại Bi được các tông phái Phật giáo trì niệm rất phổ biến và thịnh hành. Tuy nhiên, thần chú này được các nhà Phật học dịch khác nhau về tên kinh cũng như chương cú. Đơn cử như bản dịch chú Đại Bi của ngài Bồ Đề Lưu Chi có 94 câu, bản dịch của ngài Kim Cương Trí có 113 câu, bản dịch của ngài Bất Không có 82 câu...
Nghe "tụng kinh, trì chú" Hỏi : Hàng ngày tôi đều trì chú Đại Bi bằng cách mở máy vi tính, gắn tai để nghe, rồi cầm cuốn kinh để đọc thầm hoặc dò theo. Đôi lúc thì tôi ngồi (hoặc nằm) nghe kinh hoặc nghe niệm Phật cũng từ tai nghe nối với máy vi tính. Xin hỏi như vậy thì có được gọi là trì niệm kinh chú không ?
Lại nữa vì ở trong phòng riêng nên tôi không mặc áo tràng, chỉ mặc quần áo ở nhà bình thường. Trì niệm kinh chú theo cách như vậy có mang tội bất kính không ?
Đáp : Ứng dụng các phương tiện hiện đại để nghe kinh, niệm Phật và trì chú cũng là một trong những phương cách tu học hay, sáng tạo. Ngày nay, khi mà những loại máy nghe, điện thoại hay máy vi tính có khả năng nghe nhìn nhiều thứ được xem như vật bất ly thân thì việc vận dụng các tiện ích của những phương tiện ấy cho tu học lại càng thuận tiện hơn.
Nói chung nghe kinh, niệm Phật và trì chú hàng ngày từ các phương tiện nghe nhìn hiện đại ở mọi lúc mọi nơi là điều tốt. Đây cũng là một cách gieo trồng những hạt giống thiện lành vào tâm thức, có tác dụng làm cho tâm tư an tịnh và thảnh thơi.
Cách nghe kinh, niệm Phật và trì chú này, ở mọi lúc mọi nơi, trong tinh thần phương tiện thì không có gì là bất kính hay phải tội với Tam bảo cả. Tuy nhiên không thể xem đó là một thời khóa công phu tu tập bình thường.
Do vậy ngoài cách nghe kinh chú như từ trước đến nay, bạn cần xây dựng một thời khóa tu tập cố định với một thời điểm và thời lượng nhất định trong ngày, như khoảng 30 phút trước khi đi ngủ chẳng hạn.
Tốt nhất nên ngồi kiết già hay bán già, cũng có thể ngồi bình thường hai chân chấm đất như ngồi ghế. Lưng thẳng, thả lỏng toàn thân, tâm nhiếp vào kinh chú đang nghe, miệng niệm thầm theo.
Ngay giờ phút ấy, ba nghiệp thân khẩu ý được thâu nhiếp và trở nên thanh tịnh. Thực tập được như vậy mới có thể tạm gọi là công phu "trì niệm kinh chú". Sau thời gian công phu (30 phút hay nhiều hơn), bạn cần thư giản toàn thân rồi có thể tùy nghi làm việc hoặc nghỉ ngơi.
Tu niệm đúng Chánh pháp sẽ chuyển hóa nghiệp chướng
Hỏi : Hiện mỗi tối tụng kinh Nhật tụng, lễ Phật xong tôi trì niệm chú Đại Bi 21 biến, niệm danh hiệu A Di Đà Phật 108 lần. Tôi mong muốn được chỉ dẫn thêm để tu niệm đúng Chánh pháp nhằm vượt qua nghiệp chướng và khổ nạn của bản thân. Đáp : Dựa theo kinh Nhật tụng để hành trì hàng ngày, có thể nói là bạn đã tu tập đúng Chánh pháp rồi.
Trong quá trình tụng kinh, niệm Phật bạn phải phát khởi tâm nguyện chí thành, tha thiết, giữ ba nghiệp thân khẩu và ý trang nghiêm thanh tịnh. Sau mỗi thời khóa, bạn sẽ cảm nhận được sự gia hộ của Tam bảo, lòng tin Phật pháp của bạn kiên cố bất động, thân tâm thảnh thơi và nhẹ nhàng hơn. Bạn nên niệm danh hiệu Phật A Di Đà mọi lúc mọi nơi trong đời sống hàng ngày, giữ tâm chánh niệm với hồng danh Phật và lập thệ nguyện vãng sanh Cực lạc.
Để vượt qua nghiệp chướng và khổ nạn của bản thân trong hiện tại, bạn cần phải nỗ lực tu tập thật nhiều, nhất là siêng năng lễ Phật sám hối để diệt tiêu tội chướng, tăng trưởng phước đức. Hẳn bạn biết câu kinh: "Tội từ tâm khởi đem tâm sám/Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu". Cho nên, sự tu niệm hàng ngày phải hướng đến để thành tựu tịnh tâm, nhất tâm.
Trong sự bình yên và tĩnh lặng của thân tâm, tuệ giác phát khởi và bạn sẽ có một quan kiến mới lạc quan hơn về cuộc sống. Một người tu có thể không làm thay đổi một số khuyết tật của thân thể (vì nghiệp đã định hình-trỗ quả trong hiện tại) nhưng hoàn toàn có thể thay đổi nhận thức về cuộc sống cũng như những mặc cảm tự ti về khiếm khuyết và khổ đau của bản thân mình.
Với tuệ giác là hoa trái của chánh niệm, của công phu tu tập, bạn sẽ dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh hiện tại vì đó là nghiệp của chính mình. Không oán thán, trách móc ai cả mà ngược lại biết chấp nhận và nỗ lực tu học để chuyển hóa. Nghiệp do mình tạo ra thì cũng do chính mình chuyển hóa để thăng hoa. Không ai có thể làm thay việc đó cho mình, ngoại trừ sự cố gắng của chính mình.
Bồ tát Chuẩn Đề Hỏi : Chúng tôi là Phật tử, từ trước đến nay thờ phụng Bồ tát Quán Âm với niềm kính tín sâu sắc. Vừa rồi, chúng tôi được biết về Bồ tát Chuẩn-đề (còn gọi Phật Mẫu Chuẩn-đề), với những hình tướng gần giống với Bồ tát Quán Âm (tượng nhiều tay). Có người nói rằng Phật Mẫu Chuẩn-đề chính là một hóa thân của Bồ tát Quán Âm, điều ấy có đúng không ?
Phật Mẫu nghĩa là gì ? Có liên hệ gì với tín ngưỡng Địa Mẫu trong dân gian không ?
Đáp : Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (tập I, tr.962), Chuẩn-đề, Phạn ngữ Cundi, Hán ngữ phiên âm là Chuẩn-chi, Chuẩn-nê, gọi đủ là Chuẩn-đề Quan Âm, Chuẩn-đề Phật Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn-đề hay Thất-câu-chi Phật Mẫu. Chuẩn-đề có nghĩa là thanh tịnh.
Mật tông rất tôn sùng Chuẩn-đề, xếp ngài vào một tôn vị trong Quán Âm bộ. Theo phái Đông Mật của Phật giáo Nhật Bản thì Chuẩn-đề là một trong 6 danh hiệu của Quán Âm, thuộc Liên Hoa bộ. Sáu danh hiệu này là : 1. Thiên Thủ Quán Âm ; 2. Thánh Quán Âm ; 3. Mã Đầu Quán Âm ; 4. Thập Nhất Diện Quán Âm ; 5. Chuẩn-đề Quán Âm ; 6. Như Ý Luân Quán Âm. Như vậy, Chuẩn-đề hay Chuẩn-đề Quan Âm chính là một trong những danh hiệu của Bồ tát Quán Âm.
Tuy vậy, phái Thai Mật của Phật giáo Nhật Bản lại xếp Chuẩn-đề vào một tôn vị trong Phật bộ, gọi là Phật Mẫu.
Theo kinh Thất-câu-chi Phật Mẫu sở thuyết Chuẩn-đề Đà-la-ni thì thân Bồ tát Chuẩn-đề thân màu vàng nhạt, ngồi kiết già trên đài sen, có hào quang tỏa sáng xung quanh. Bồ tát mặc thiên y hoặc lụa trắng mỏng, trên đầu đội mũ ngọc anh lạc, có 3 mắt. Đặc biệt 18 cánh tay đều đeo vòng xuyến. Hai tay trên cùng bắt ấn Thuyết pháp. Các tay còn lại, bên phải : Tay thứ hai kết ấn Thí vô úy, tay thứ ba cầm kiếm, tay thứ tư cầm tràng hoa báu, trên lòng bàn tay thứ năm để trái câu duyên, tay thứ sáu cầm búa, tay thứ bảy cầm móc, tay thứ tám cầm chày kim cang, tay thứ chín cầm chuỗi hạt; Bên trái : Tay thứ hai cầm cây phướn báu như ý, tay thứ ba cầm hoa sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm cái bình, tay thứ năm cầm dải lụa, tay thứ sáu cầm bánh xe pháp, tay thứ bảy cầm vỏ ốc, tay thứ tám cầm hiền bình, trên lòng bàn tay thứ chín để hộp kinh Bát Nhã chữ Phạn.
Ngoài ra, còn có tượng Bồ tát Chuẩn-đề 16 tay, 6 tay, 4 tay theo các truyền thống Phật giáo Tây Tạng, Tích Lan. Bồ-tát Chuẩn-đề chuyên hộ trì Phật pháp và bảo hộ những chúng sinh tránh các tai ương, nếu có bệnh tật hoặc mạng sống ngắn ngủi thì được thọ mạng lâu dài.
Tu tập theo pháp môn tu hành của vị Bồ-tát này là trì tụng thần chú: "Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà câu chi nẫm, đát diệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn-đề, ta bà ha". Nếu ai chí thành trì tụng thần chú trên thì sẽ tiêu trừ tai họa, dứt hết bệnh tật, đạt được thông minh, tiêu tan tội chướng, thọ mạng lâu dài, tăng trưởng phước đức đồng thời được chư Phật, Bồ-tát gia bị, đời đời kiếp kiếp xa lìa ác thú, mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.
Phật Mẫu là một thuật ngữ quan trọng trong giáo điển Phật giáo, bao gồm bốn nghĩa như sau : 1- Chỉ cho Ma-da phu nhân thân mẫu của Phật, hoặc chỉ cho Ma-ha-ba-xà-ba-đề di mẫu của Phật. 2- Chỉ cho Bát-nhã Ba-la-mật. Vì Bát-nhã (trí tuệ) có năng lực sinh ra tất cả chư Phật. 3- Chỉ cho Pháp. Vì chư Phật lấy pháp làm thầy, do pháp mà thành Phật, cho nên gọi pháp là Phật mẫu, mẹ của chư Phật. 4- Chỉ cho Phật nhãn tôn. Theo Mật giáo, Bát-nhã Ba-la-mật là pháp có công năng sinh ra các vị Phật, Bồ tát đồng thời đem đến cho chư Phật nhất thiết trí, có tác dụng thị hiện tướng thế gian. Pháp Bát-nhã này được thần cách hóa gọi là Phật mẫu hay Phật nhãn tôn, mẹ của hai bộ Kim cương giới và Thai tạng giới (Sđd, tr.3640-3641).
Còn tín ngưỡng Địa Mẫu (Mẫu, Thánh Mẫu...) là tín ngưỡng dân gian, không có bất cứ liên hệ gì đến Phật Mẫu Chuẩn-đề hay Bồ tát Chuẩn-đề của Phật giáo cả. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.7/11/2012.
         

No comments:

Post a Comment