Lúc bấy giờ, vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Thiên Vương, trời Tứ Thiền, thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả, mà nói ra bài kệ dưới đây, để tán thán công đức của Phật, khiến cho chúng sinh tin sâu và hiểu rõ đạo lý này.
Trời Tứ Thiền gọi là Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa. Ở cõi trời này chẳng có hoan hỷ khoái lạc, chỉ có thọ bình đẳng không thể hình dung. Cõi trời này phân làm ba cõi trời :
1. Trời Thiểu Quảng còn gọi là trời Phước Sinh, chúng sinh cõi trời này chẳng còn hỷ lạc (vui thích), chỉ có tinh thần tồn tại.
2. Trời Vô Lượng Quảng, còn gọi là trời Phước Thọ, vì phước báu của cõi trời này đáng ưa nhất. Chúng sinh cõi trời này xả bỏ hỷ lạc, tu phước đức cầu thăng lên trời.
3. Trời Quảng Quả, chúng sinh cõi trời này siêng tu thiền định, tu thiền hữu lậu thì sinh vế trời Vô Tưởng (ngoại đạo) ; tu thiền vô lậu thì sinh về trời Ngũ Bất Hoàn ( A La Hán và Bồ Tát ở).
Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Tất cả chúng sinh không lường được
Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu
Ý vui rộng lớn không cùng tận.
‘’ Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn.’’ Không nghĩ bàn tức là chẳng có cảnh giới. Bổn lai không nhiều, không ít, không lớn, không nhỏ. Vậy còn có cảnh giới gì ? Nếu nói có cảnh giới tức là chấp trước tướng, cho nên nói không nghĩ bàn tức là chẳng có cảnh giới.
Các pháp không tướng tức là cảnh giới của Phật. Các pháp không tướng là gì ? Cảnh giới này từ hàng Bồ Tát cho đến chúng sinh địa ngục, chúng sinh chín pháp giới này, chẳng có một giới chúng sinh nào biết được, chỉ có Phật mới biết được.
Trong bổn Kinh này có nói :
"Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không".
Tức là nói nếu muốn biết cảnh giới của Phật, trước hết phải quét sạch rác rến trong tâm của mình cho thanh tịnh, không còn sự phân biệt giống như hư không, thì mới biết được cảnh giới của Phật.
Cảnh giới của Phật là gì ? Tức là hư không.
Không vô sở không, sở không cũng không, đó tức là cảnh giới của Phật.
‘’ Tất cả chúng sinh không lường được.’’ Ðạo lý của các pháp không tướng, tất cả chúng sinh không dò được, không hiểu được, không thấu suốt được, không rốt ráo được, cho nên nói tất cả chúng sinh không lường được.
‘’ Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu.’’ Ðức Phật khiến cho tất cả chúng sinh sanh tâm tin hiểu. Học Phật pháp có bốn giai đoạn. Tức là : Tín, giải, hạnh, chứng (tin, hiểu, thực hành và chứng ngộ). Trước hết phải tin. Tin các pháp do đức Phật nói ra, tin Tam Tạng mười hai bộ là chân thật nghĩa. Có tâm tin rồi mới nghiên cứu Phật lý, thấu hiểu rồi, mới y theo những gì Phật nói mà tu hành, từ từ sẽ chứng được quả vị.
‘’ Ý vui rộng lớn vô cùng tận.’’ Phật lấy sự lợi ích của chúng sinh làm ý vui, bao quát hết thảy cho nên rộng lớn không cùng tận. Ðó là kệ của vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương tán thán chư Phật.
Nếu ai thọ được pháp của Phật
Phật dùng thần lực khai đạo họ
Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền
Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Nếu ai thọ được pháp của Phật.’’ Giả sử, có một loài chúng sinh nào, có thể tiếp thọ được pháp của Phật, tức cũng là trình độ có thể gần tiếp thọ được pháp.
‘’ Phật dùng thần lực khai đạo họ.’’ Phật xử dụng đại oai thần lực, để gia bị cho họ, khiến cho họ tiến từng bước từng, bước trên con đường Phật pháp. Phật dùng pháp quyền xảo phương tiện, để dẫn dụ chúng sinh, khiến cho họ đi trên bồ đề đại đạo. Nếu pháp này không thành tựu, thì đổi pháp khác, khi nào họ tiếp thọ được thì thôi. Khiến cho chúng sinh, từ ngu si đắc được trí huệ, từ trí huệ đắc được giác ngộ. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ pháp thế gian là khổ, pháp xuất thế gian là vui, do đó lìa khổ được vui, đó tức là khai đạo.
‘’ Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền.’’ Làm cho chúng sinh thường thấy được phật, không những mở mắt thấy được chân thân của Phật, mà nhắm mắt cũng thấy được kim thân của Phật. Tóm lại, là luôn luôn đều thấy Phật ở trước mắt, luôn luôn vì họ mà thuyết pháp.
‘’ Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương thấy được.
Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói :
"Tất cả chúng sinh có những tâm gì,
Như Lai đều biết đều thấy".
Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng.
Tất cả pháp tánh không chỗ nương
Phật hiện ra đời cũng như thế
Hết thảy các cõi không chỗ tựa
Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.
‘’ Tất cả pháp tánh không chỗ nương.’’ Tất cả pháp tánh vốn là không, không chẳng chỗ có. Vì là không cho nên không cần nương tựa, chẳng có nương tựa chỗ nào hết.
‘’ Phật hiện ra đời cũng như thế.’’ Phật hiện ra trong thế gian, cũng giống như pháp tánh, là không. Không cái gì ? Không tất cả đều có. Nếu không có cái có, làm sao có cái không ?
‘’ Hết thảy các cõi không chỗ tựa.’’ Khắp trong hết thảy các cõi không chỗ nương tựa. Phật là không, không tất cả cõi, không nương tất cả các cõi. Phật là vô tướng, giáo hóa chúng sinh không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Còn bốn tướng này là chúng sinh, không còn bốn tướng này là Phật. Cho nên Phật dạy chúng sinh phá trừ bốn tướng, chẳng chấp trước bốn tướng, mới có thể giác ngộ.
‘’ Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.’’ Nghĩa lý này vị Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương quán sát được cảnh giới này, hiểu được đạo lý này.
Tùy tâm sở thích của chúng sinh
Phật dùng thần lực để thị hiện
Hết thảy khác nhau không nghĩ bàn
Môn giải thoát này Trí Tràng biết.
‘’ Tùy tâm sở thích của chúng sinh.’’ Phải tùy thuận tâm chúng sinh, phải tùy thuận sở thích của chúng sinh, phàm là chúng sinh có mong cầu gì, đều khiến cho họ được như ý.
Mười hạnh nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền phát ra, là tùy sở thích của tâm chúng sinh. Mười hạnh nguyện lớn là :
1. Kính lễ các đức Phật.
2. Khen ngợi Như Lai.
3. Rộng tu cúng dường.
4. Sám hối nghiệp chướng.
5. Tùy hỷ công đức.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp.
7. Thỉnh Phật ở lại đời.
8. Thường học theo Phật.
9. Luôn thuận chúng sinh.
10. Hồi hướng khắp hết.
1. Lễ kính chư Phật : Lễ có bảy thứ :
a. Ngã mạn lễ.
b. Cầu danh lễ.
c. Cung kính lễ.
d. Vô tướng lễ.
e. Khởi dụng lễ.
f. Nội quán lễ.
g. Thật tướng lễ.
Khi nào giảng đến phẩm này, thì sẽ giải thích cặn kẽ.
Trong sự lễ có một thứ lễ "ngã mạn lễ". Tức là khi lạy xuống thì tâm không quán tưởng, không nghĩ ta đang lễ mười phương Phật, lễ mười phương Pháp, lễ mười phương Tăng. Thân cũng chẳng cung kính, chỉ là hình thức mà thôi, là việc phô diễn, cẩu thả, không thành tâm, không trang nghiêm.
Phải lễ như thế nào ? Phải nên thân tâm cung kính lễ. Trong tâm quán tưởng ta đang lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng. Tư thế thân lạy phải tự nhiên, năm thể (đầu, hai tay, hai chân) phải đụng đất, như thế mới có công đức.
2. Khen ngợi Như Lai : Tức là khen ngợi công đức mười phương Như Lai, đem công đức của Phật nói cho chúng sinh nghe, tốt đẹp như thế nào ! Trang nghiêm ra sao ! Khen ngợi tán thán lợi ích của Như Lai, trừ được chướng ác khẩu đắc được biện tài vô ngại.
3. Rộng tu cúng dường : Tức là phải luôn luôn cúng dường Tam Bảo, cúng dường tài vật là tu phước, cúng dường pháp là tu huệ. Phước huệ đều đủ mới có công đức.
4. Sám hối nghiệp chướng : Tức là đem tội lỗi của mình nói ra hết, do đó :
"Tội lỗi tày trời, sám hối liền tiêu".
Những tội lỗi đã tạo trong quá khứ phải thật tâm hối cải, mới mong cứu được. Ðó là cho chúng sinh cơ hội sửa đổi lỗi lầm, làm con người mới. Người xưa nói:
"Người chẳng phải Thánh Hiền,
Ai mà chẳng có tội,
Có tội mà biết cải,
Còn việc thiện nào hơn" !
5. Tùy hỷ công đức : Tức là tùy thuận vui vẻ tất cả công đức pháp lành. Phật thuyết pháp độ chúng sinh, công đức dạy người không mỏi mệt, chúng ta phải tùy hỷ. Công đức của Phật vì pháp mà xả thân cũng phải tùy hỷ. Thậm chí công đức của Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn .v.v., cũng phải tùy hỷ.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp : Tức là chúng sinh thỉnh Phật nói diệu pháp. Ðức Phật vào Niết Bàn rồi thì, chúng sinh thỉnh đại thiện trí thức, đại pháp sư để chuyển bánh xe pháp, tiếp nối huệ mạng của Phật.
7. Thỉnh Phật ở lại đời : Tức là thỉnh mười phương chư Phật và các đại Bồ Tát, các đại A La Hán, các đại thiện tri thức đừng vào Niết Bàn, vì lợi lạc chúng sinh mà ở lại đời.
8. Thường học theo Phật : Tức là thường học theo hạnh của Phật. Mỗi cử chỉ hành động của đức Phật đều là quy cụ, không những phải học theo lời dạy của Phật (ngôn giáo) mà còn phải học theo oai nghi cử chỉ của Phật (thân giáo). Ngôn giáo (lời dạy) là Kinh điển, thân giáo là giới luật.
9. Luôn thuận chúng sinh : Tức là thường tùy thuận căn tính của chúng sinh, khiến cho họ đắc được lợi ích, khiến cho họ đắc được thành tựu. Cúng dường chúng sinh, khiến cho họ hoan hỷ, lấy chúng sinh đáng làm cha mẹ để cung kính, lấy chúng sinh đáng làm chư Phật để cung kính.
10. Hồi hướng khắp hết : Tức là đem tất cả căn lành công đức của mình tu được, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chính mình không cần. Bất cứ pháp hội gì, cuối cùng nhất định phải hồi hướng. Do đó :‘’ Nguyện đem công đức này, hướng vế khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.’’
‘’ Phật dùng thần lực để thị hiện.’’ Trong tâm của chúng sinh thích gì thì đều được như ý. Phật đại từ đại bi dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng sinh đạt được nguyện vọng, không làm cho chúng sinh thất vọng. Tóm lại, phàm là sự mong cầu chánh đáng, đức Phật nhất định có cảm ứng. Chúng sinh mong cầu gì ? Phật bèn thị hiện cái đó.
‘’ Hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.’’ Tất cả tâm chúng sinh đều không giống nhau. Có những người có tín tâm đối với Phật pháp, có những người chẳng có tín tâm đối với Phật pháp. Có những người bán tín bán nghi đối với Phật pháp. Có người vì nghe Kinh điển, cảm thấy có đạo lý mà sinh tín tâm, do đó đến nghiên cứu Phật pháp. Có người nghe Kinh như gió ngoài tai, qua rồi chẳng lưu lại, quên hết tất cả. Có người nghe Kinh thì khởi vọng tưởng, tưởng đi du lịch đến cung trăng. Có người nghe Kinh thì sinh chấp trước, đây là ta, đó là họ, Kinh này là Kinh đời nhà Tấn, Kinh nọ là Kinh đời nhà Ðường, đó là tâm phân biệt. Những người này đều có tư tưởng khác nhau, suy nghĩ khác nhau, cho nên nói hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.
‘’ Môn giải thoát này Trí Tràng biết.’’ Nhiều thứ cảnh giới khác nhau, chẳng có cách chi hiểu được, nhưng vị Vua Trời Tự Tại Trí Huệ Tràng này đắc được pháp môn giải thoát này.
Tất cả cõi nước trong quá khứ
Ðều thị hiện trong lỗ chân lông
Ðó là thần thông của chư Phật
Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.
‘’ Tất cả cõi nước trong quá khứ.’’ Quá khứ chẳng có quá khứ, hiện tại chẳng có hiện tại, vị lai chẳng có vị lai, đó là đạo lý trong Kinh Kim Cang nói. Kinh văn nói như vầy :
‘’ Tất cả chúng sinh không lường được.’’ Ðạo lý của các pháp không tướng, tất cả chúng sinh không dò được, không hiểu được, không thấu suốt được, không rốt ráo được, cho nên nói tất cả chúng sinh không lường được.
‘’ Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu.’’ Ðức Phật khiến cho tất cả chúng sinh sanh tâm tin hiểu. Học Phật pháp có bốn giai đoạn. Tức là : Tín, giải, hạnh, chứng (tin, hiểu, thực hành và chứng ngộ). Trước hết phải tin. Tin các pháp do đức Phật nói ra, tin Tam Tạng mười hai bộ là chân thật nghĩa. Có tâm tin rồi mới nghiên cứu Phật lý, thấu hiểu rồi, mới y theo những gì Phật nói mà tu hành, từ từ sẽ chứng được quả vị.
‘’ Ý vui rộng lớn vô cùng tận.’’ Phật lấy sự lợi ích của chúng sinh làm ý vui, bao quát hết thảy cho nên rộng lớn không cùng tận. Ðó là kệ của vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương tán thán chư Phật.
Nếu ai thọ được pháp của Phật
Phật dùng thần lực khai đạo họ
Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền
Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Nếu ai thọ được pháp của Phật.’’ Giả sử, có một loài chúng sinh nào, có thể tiếp thọ được pháp của Phật, tức cũng là trình độ có thể gần tiếp thọ được pháp.
‘’ Phật dùng thần lực khai đạo họ.’’ Phật xử dụng đại oai thần lực, để gia bị cho họ, khiến cho họ tiến từng bước từng, bước trên con đường Phật pháp. Phật dùng pháp quyền xảo phương tiện, để dẫn dụ chúng sinh, khiến cho họ đi trên bồ đề đại đạo. Nếu pháp này không thành tựu, thì đổi pháp khác, khi nào họ tiếp thọ được thì thôi. Khiến cho chúng sinh, từ ngu si đắc được trí huệ, từ trí huệ đắc được giác ngộ. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ pháp thế gian là khổ, pháp xuất thế gian là vui, do đó lìa khổ được vui, đó tức là khai đạo.
‘’ Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền.’’ Làm cho chúng sinh thường thấy được phật, không những mở mắt thấy được chân thân của Phật, mà nhắm mắt cũng thấy được kim thân của Phật. Tóm lại, là luôn luôn đều thấy Phật ở trước mắt, luôn luôn vì họ mà thuyết pháp.
‘’ Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương thấy được.
Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói :
"Tất cả chúng sinh có những tâm gì,
Như Lai đều biết đều thấy".
Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng.
Tất cả pháp tánh không chỗ nương
Phật hiện ra đời cũng như thế
Hết thảy các cõi không chỗ tựa
Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.
‘’ Tất cả pháp tánh không chỗ nương.’’ Tất cả pháp tánh vốn là không, không chẳng chỗ có. Vì là không cho nên không cần nương tựa, chẳng có nương tựa chỗ nào hết.
‘’ Phật hiện ra đời cũng như thế.’’ Phật hiện ra trong thế gian, cũng giống như pháp tánh, là không. Không cái gì ? Không tất cả đều có. Nếu không có cái có, làm sao có cái không ?
‘’ Hết thảy các cõi không chỗ tựa.’’ Khắp trong hết thảy các cõi không chỗ nương tựa. Phật là không, không tất cả cõi, không nương tất cả các cõi. Phật là vô tướng, giáo hóa chúng sinh không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Còn bốn tướng này là chúng sinh, không còn bốn tướng này là Phật. Cho nên Phật dạy chúng sinh phá trừ bốn tướng, chẳng chấp trước bốn tướng, mới có thể giác ngộ.
‘’ Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.’’ Nghĩa lý này vị Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương quán sát được cảnh giới này, hiểu được đạo lý này.
Tùy tâm sở thích của chúng sinh
Phật dùng thần lực để thị hiện
Hết thảy khác nhau không nghĩ bàn
Môn giải thoát này Trí Tràng biết.
‘’ Tùy tâm sở thích của chúng sinh.’’ Phải tùy thuận tâm chúng sinh, phải tùy thuận sở thích của chúng sinh, phàm là chúng sinh có mong cầu gì, đều khiến cho họ được như ý.
Mười hạnh nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền phát ra, là tùy sở thích của tâm chúng sinh. Mười hạnh nguyện lớn là :
1. Kính lễ các đức Phật.
2. Khen ngợi Như Lai.
3. Rộng tu cúng dường.
4. Sám hối nghiệp chướng.
5. Tùy hỷ công đức.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp.
7. Thỉnh Phật ở lại đời.
8. Thường học theo Phật.
9. Luôn thuận chúng sinh.
10. Hồi hướng khắp hết.
1. Lễ kính chư Phật : Lễ có bảy thứ :
a. Ngã mạn lễ.
b. Cầu danh lễ.
c. Cung kính lễ.
d. Vô tướng lễ.
e. Khởi dụng lễ.
f. Nội quán lễ.
g. Thật tướng lễ.
Khi nào giảng đến phẩm này, thì sẽ giải thích cặn kẽ.
Trong sự lễ có một thứ lễ "ngã mạn lễ". Tức là khi lạy xuống thì tâm không quán tưởng, không nghĩ ta đang lễ mười phương Phật, lễ mười phương Pháp, lễ mười phương Tăng. Thân cũng chẳng cung kính, chỉ là hình thức mà thôi, là việc phô diễn, cẩu thả, không thành tâm, không trang nghiêm.
Phải lễ như thế nào ? Phải nên thân tâm cung kính lễ. Trong tâm quán tưởng ta đang lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng. Tư thế thân lạy phải tự nhiên, năm thể (đầu, hai tay, hai chân) phải đụng đất, như thế mới có công đức.
2. Khen ngợi Như Lai : Tức là khen ngợi công đức mười phương Như Lai, đem công đức của Phật nói cho chúng sinh nghe, tốt đẹp như thế nào ! Trang nghiêm ra sao ! Khen ngợi tán thán lợi ích của Như Lai, trừ được chướng ác khẩu đắc được biện tài vô ngại.
3. Rộng tu cúng dường : Tức là phải luôn luôn cúng dường Tam Bảo, cúng dường tài vật là tu phước, cúng dường pháp là tu huệ. Phước huệ đều đủ mới có công đức.
4. Sám hối nghiệp chướng : Tức là đem tội lỗi của mình nói ra hết, do đó :
"Tội lỗi tày trời, sám hối liền tiêu".
Những tội lỗi đã tạo trong quá khứ phải thật tâm hối cải, mới mong cứu được. Ðó là cho chúng sinh cơ hội sửa đổi lỗi lầm, làm con người mới. Người xưa nói:
"Người chẳng phải Thánh Hiền,
Ai mà chẳng có tội,
Có tội mà biết cải,
Còn việc thiện nào hơn" !
5. Tùy hỷ công đức : Tức là tùy thuận vui vẻ tất cả công đức pháp lành. Phật thuyết pháp độ chúng sinh, công đức dạy người không mỏi mệt, chúng ta phải tùy hỷ. Công đức của Phật vì pháp mà xả thân cũng phải tùy hỷ. Thậm chí công đức của Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn .v.v., cũng phải tùy hỷ.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp : Tức là chúng sinh thỉnh Phật nói diệu pháp. Ðức Phật vào Niết Bàn rồi thì, chúng sinh thỉnh đại thiện trí thức, đại pháp sư để chuyển bánh xe pháp, tiếp nối huệ mạng của Phật.
7. Thỉnh Phật ở lại đời : Tức là thỉnh mười phương chư Phật và các đại Bồ Tát, các đại A La Hán, các đại thiện tri thức đừng vào Niết Bàn, vì lợi lạc chúng sinh mà ở lại đời.
8. Thường học theo Phật : Tức là thường học theo hạnh của Phật. Mỗi cử chỉ hành động của đức Phật đều là quy cụ, không những phải học theo lời dạy của Phật (ngôn giáo) mà còn phải học theo oai nghi cử chỉ của Phật (thân giáo). Ngôn giáo (lời dạy) là Kinh điển, thân giáo là giới luật.
9. Luôn thuận chúng sinh : Tức là thường tùy thuận căn tính của chúng sinh, khiến cho họ đắc được lợi ích, khiến cho họ đắc được thành tựu. Cúng dường chúng sinh, khiến cho họ hoan hỷ, lấy chúng sinh đáng làm cha mẹ để cung kính, lấy chúng sinh đáng làm chư Phật để cung kính.
10. Hồi hướng khắp hết : Tức là đem tất cả căn lành công đức của mình tu được, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chính mình không cần. Bất cứ pháp hội gì, cuối cùng nhất định phải hồi hướng. Do đó :‘’ Nguyện đem công đức này, hướng vế khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.’’
‘’ Phật dùng thần lực để thị hiện.’’ Trong tâm của chúng sinh thích gì thì đều được như ý. Phật đại từ đại bi dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng sinh đạt được nguyện vọng, không làm cho chúng sinh thất vọng. Tóm lại, phàm là sự mong cầu chánh đáng, đức Phật nhất định có cảm ứng. Chúng sinh mong cầu gì ? Phật bèn thị hiện cái đó.
‘’ Hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.’’ Tất cả tâm chúng sinh đều không giống nhau. Có những người có tín tâm đối với Phật pháp, có những người chẳng có tín tâm đối với Phật pháp. Có những người bán tín bán nghi đối với Phật pháp. Có người vì nghe Kinh điển, cảm thấy có đạo lý mà sinh tín tâm, do đó đến nghiên cứu Phật pháp. Có người nghe Kinh như gió ngoài tai, qua rồi chẳng lưu lại, quên hết tất cả. Có người nghe Kinh thì khởi vọng tưởng, tưởng đi du lịch đến cung trăng. Có người nghe Kinh thì sinh chấp trước, đây là ta, đó là họ, Kinh này là Kinh đời nhà Tấn, Kinh nọ là Kinh đời nhà Ðường, đó là tâm phân biệt. Những người này đều có tư tưởng khác nhau, suy nghĩ khác nhau, cho nên nói hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.
‘’ Môn giải thoát này Trí Tràng biết.’’ Nhiều thứ cảnh giới khác nhau, chẳng có cách chi hiểu được, nhưng vị Vua Trời Tự Tại Trí Huệ Tràng này đắc được pháp môn giải thoát này.
Tất cả cõi nước trong quá khứ
Ðều thị hiện trong lỗ chân lông
Ðó là thần thông của chư Phật
Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.
‘’ Tất cả cõi nước trong quá khứ.’’ Quá khứ chẳng có quá khứ, hiện tại chẳng có hiện tại, vị lai chẳng có vị lai, đó là đạo lý trong Kinh Kim Cang nói. Kinh văn nói như vầy :
"Tam tâm liễu bất khả đắc,
Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc".
Sao lại nói tâm quá khứ không thể được ? Vì quá khứ đã qua rồi, qua rồi thì chẳng có, cho nên nói :‘’ Quá khứ tâm bất khả đắc.’’
Sao lại nói tâm hiện tại không thể được ? Vì hiện tại thì không ngừng lại, nói bây giờ là hiện tại, nói xong cũng qua rồi, thời gian không thể ngừng lại bất động cho nên nói ‘’ Hiện tại tâm bất khả đắc.’’
Sao lại nói tâm vị lai không thể đắc được ? Vì vị lai thì chưa đến, không có đến cũng không thể được, cho nên nói : ‘’ Vị lai tâm bất khả đắc.’’
Do đó :
"Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ quán yếu minh kim dã hóa".
Tạm dịch :
Ba tâm không thấu nước khó tiêu
Năm quán tỏ rõ vàng cũng tiêu hoá được.
Nghĩa là nói : Nếu tồn tại tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, dù thí chủ cúng dường một ly nước trà, cũng không tiêu thọ được, càng không cách chi tiêu hóa được tách trà. Nếu hiểu được đạo lý năm quán niệm thì dù vàng cũng tiêu hóa được.
Năm quán là gì ? Tức là khi ăn Quá đường thì phải niệm năm quán niệm :
1. Tính xem công bao nhiêu, thức ăn từ đâu đến ?
2. Xem xét đức hạnh của mình thiếu hay đủ, để nhận đồ cúng dường.
3. Phòng ngừa tâm tạo tội, tham là gốc.
4. Thức ăn là thuốc hay, chữa được bệnh khô gầy.
5. Vì thành đạo nghiệp mới dùng cơm này.
Người xuất gia khi ăn cơm, thì phải quán tưởng năm điều này, mới thọ sự cúng dường.
‘’ Ðều thị hiện trong lỗ chân lông.’’ Tất cả các cõi Phật trong quá khứ, tuy nhiên là vô lượng vô biên, nhưng trong một lỗ chân lông thị hiện ra các cõi Phật.
Có người nói : ‘’ Ðạo lý này tôi không tin.’’ Ðương nhiên bạn không tin, vì bạn là phàm phu. Nếu bạn tin thì minh bạch được cảnh giới của Phật. Vì căn lành của bạn không đủ, gặp được Phật pháp chân chánh, nghe được Phật lý chân chánh, còn không tin. Vì sao không tin ? Vì nghiệp chướng quá nặng, nghiệp chướng quá sâu ! Cho nên bạn không tin Phật pháp là thuốc hay cứu đời cứu người.
Ma vương mong muốn
chúng sinh đừng tin Phật pháp, vì sao ? Nếu chúng sinh tin Phật pháp, thì quyến
thuộc của chúng bớt đi, cho nên Ma vương phái con ma cháu ma phá hoại Phật pháp,
thấy người tu hành thành tựu, thì chúng bèn đến dẫn dụ, đến uy hiếp. Ðịnh lực
của người tu hành không đủ, thì dễ tẩu hỏa nhập ma, chịu sự khống chế của chúng.
Cho nên người tu đạo phải chú ý, phải cẩn thận, bất cứ cảnh giới gì hiện ra, tốt
cũng đừng chấp trước, xấu cũng đừng chấp trước, căn bản tâm đừng lay động. Lúc
này phải một lòng một dạ, niệm danh hiệu của Phật, cảnh giới thật càng niệm càng
sáng sủa, càng niệm càng rõ ràng ; nếu là cảnh giới giả, càng niệm càng đen tối,
càng niệm càng lờ mờ. Ðó là phương pháp Kinh nghiệm thật giả.
Cảnh giới ảo diệu
bất khả tư nghì này, bạn không cách chi thấu hiểu được. Ðợi khi nào có ngũ nhãn
lục thông, thì mới biết là việc rất bình thường, chẳng có gì là lạ. Giống như
hai mươi năm về trước, có người nói con người có thể lên mặt trăng, tương lai có
thể du hành đến mặt trăng, bạn sẽ cho rằng đó là thần thoại. Bây giờ thực hiện
được, mọi người đều tin. Trong một lỗ chân lông, hiện ra cõi nước chư Phật cũng
là đạo lý này.
‘’ Ðây là thần thông của chư Phật.’’ Tức là đại thần thông lực của mười phương chư Phật, mới hiện ra được cảnh giới này.
‘’ Ðây là thần thông của chư Phật.’’ Tức là đại thần thông lực của mười phương chư Phật, mới hiện ra được cảnh giới này.
Phật giáo lấy pháp
giới làm tánh, ai cũng chạy không ra khỏi ngoài pháp giới. Tất cả các tôn giáo,
đều bao dung ở trong Phật giáo. Nhất là bộ Kinh Hoa Nghiêm này, chỗ diệu dụng là
lấy pháp giới làm tông, chuyên nói về đạo lý, lý sự vô ngại trong pháp giới.
‘’ Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.’’ Thần thông lực của Phật là tận hư không khắp pháp giới. Vị Ái Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương diễn nói được đạo lý này.
Tất cả biển pháp môn vô tận
Ðồng vào một pháp trong đạo tràng
Ðó là pháp tánh của Phật nói
Trí Nhãn thấu được phương tiện này.
‘’ Tất cả biển pháp môn vô tận.’’ Tất cả pháp tức là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, lại có tám vạn bốn ngàn pháp môn, là vô lượng vô biên, trùng trùng vô tận, cho nên nói tất cả biển pháp môn vô tận.
‘’ Ðồng vào một pháp trong đạo tràng.’’ Pháp môn có rất nhiều không thể nói, bây giờ đem dung vào thành một pháp môn. Tức cũng là vô lượng pháp môn nhiếp làm một pháp môn, một pháp môn tán làm vô lượng pháp môn, cho nên nói đồng vào một pháp trong đạo tràng.
‘’ Ðó là pháp tánh của Phật nói.’’ Pháp này một tức là nhiều, nhiều tức là một. Một nhiều vô lượng, một nhiều vô ngại, pháp tính này là Phật Thích Ca Mâu Ni nói.
‘’ Trí Nhãn thấu được phương tiện này.’’ Phổ Trí Nhãn Thiên Vương đắc được môn giải thoát : biển tam muội vô tận này, cho nên vị này thấu rõ phương tiện pháp môn này.
Tất cả cõi nước trong mười phương
Ðều ở trong đó mà thuyết pháp
Thân Phật không đến cũng không đi
Ðây là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.
‘’ Tất cả cõi nước trong mười phương.’’ Trên thế giới không những chỉ có thế giới Ta Bà, mà còn có mười phương thế giới, mỗi phương lại có vô lượng vô biên thế giới. Do đó, thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới, cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước.
‘’ Ðều ở trong đó mà thuyết pháp.’’ Trong tất cả cõi nước chư Phật mười phương, trong mỗi cõi nước đều có Phật Thích Ca Mâu Ni, đang thuyết pháp ở trong đó, đang giáo hóa chúng sinh ở trong đó.
‘’ Thân Phật không đến cũng không đi.‘’ Ở trong mỗi thế giới này đều có Phật đang nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Phải chăng thân Phật đi đến mỗi thế giới ? Chẳng phải, vì thân Phật không đến cũng không đi.
Trong Kinh Kim Cang nói :
"Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ,
Cố danh Như Lai".
‘’ Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.’’ Thần thông lực của Phật là tận hư không khắp pháp giới. Vị Ái Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương diễn nói được đạo lý này.
Tất cả biển pháp môn vô tận
Ðồng vào một pháp trong đạo tràng
Ðó là pháp tánh của Phật nói
Trí Nhãn thấu được phương tiện này.
‘’ Tất cả biển pháp môn vô tận.’’ Tất cả pháp tức là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, lại có tám vạn bốn ngàn pháp môn, là vô lượng vô biên, trùng trùng vô tận, cho nên nói tất cả biển pháp môn vô tận.
‘’ Ðồng vào một pháp trong đạo tràng.’’ Pháp môn có rất nhiều không thể nói, bây giờ đem dung vào thành một pháp môn. Tức cũng là vô lượng pháp môn nhiếp làm một pháp môn, một pháp môn tán làm vô lượng pháp môn, cho nên nói đồng vào một pháp trong đạo tràng.
‘’ Ðó là pháp tánh của Phật nói.’’ Pháp này một tức là nhiều, nhiều tức là một. Một nhiều vô lượng, một nhiều vô ngại, pháp tính này là Phật Thích Ca Mâu Ni nói.
‘’ Trí Nhãn thấu được phương tiện này.’’ Phổ Trí Nhãn Thiên Vương đắc được môn giải thoát : biển tam muội vô tận này, cho nên vị này thấu rõ phương tiện pháp môn này.
Tất cả cõi nước trong mười phương
Ðều ở trong đó mà thuyết pháp
Thân Phật không đến cũng không đi
Ðây là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.
‘’ Tất cả cõi nước trong mười phương.’’ Trên thế giới không những chỉ có thế giới Ta Bà, mà còn có mười phương thế giới, mỗi phương lại có vô lượng vô biên thế giới. Do đó, thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới, cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước.
‘’ Ðều ở trong đó mà thuyết pháp.’’ Trong tất cả cõi nước chư Phật mười phương, trong mỗi cõi nước đều có Phật Thích Ca Mâu Ni, đang thuyết pháp ở trong đó, đang giáo hóa chúng sinh ở trong đó.
‘’ Thân Phật không đến cũng không đi.‘’ Ở trong mỗi thế giới này đều có Phật đang nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Phải chăng thân Phật đi đến mỗi thế giới ? Chẳng phải, vì thân Phật không đến cũng không đi.
Trong Kinh Kim Cang nói :
"Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ,
Cố danh Như Lai".
Nghĩa là :
Bậc Như Lai,
Không từ đâu đến,
Cũng không về đâu,
Nên gọi Như Lai.
‘’ Ðó là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.’’ Ðây là cảnh giới của vị Ái Lạc Huệ Toàn Thiên Vương biết rõ được, cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn. Người không hiểu Phật pháp, cho rằng Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, là bộ Kinh đại vọng ngữ, thật ra đạo lý của Kinh này nói là lý chân thật, ngàn chân vạn thật, bất quá chúng ta phàm phu chưa đạt được cảnh giới này, cho nên không hiểu được cảnh giới này.
Phật quán thế pháp như hình bóng
Vào nơi thâm sâu tối u ám
Nói các pháp tánh thường tịch nhiên
Thiện Chủng Tư Duy thấy môn này.
‘’ Phật quán thế pháp như hình bóng.’’ Phật quán sát pháp thế gian như hình như bóng, không thường, không thật. Trong Kinh Kim Cang nói :
"Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng,
Như sương cũng như điện,
Nên quán sát như thế".
‘’ Vào nơi thâm sâu tối u ám.’’ Tức nhiên pháp thế gian không thường, không thật, là hư vọng. Nhưng Phật đến nơi thâm sâu đen tối không thể nghĩ bàn, ở trong thế gian để hoằng dương Phật pháp.
‘’ Nói các pháp tánh thường tịch nhiên.’’ Phật nói các pháp là tướng tịch diệt, không thể diễn nói. Tức là nói không ra, đó là pháp tánh tịch diệt.
‘’ Thiện Chủng Tư Duy thấy môn này.’’ Vị Thiện Chủng Tư Duy Thiên Vương, thấy được cảnh giới này, hiểu được pháp môn này.
Phật khéo biết rõ các cảnh giới
Tùy tâm chúng sinh mưa pháp vũ
Nói pháp xuất thế khó nghĩ lường
Môn này Tịch Tĩnh Thiên ngộ được.
‘’ Phật khéo biết rõ các cảnh giới.’’ Phật không có gì mà không biết, không có gì mà không làm được, không có chỗ nào mà không đến, không có gì mà không thông. Phật biết rõ tất cả cảnh giới, tất cả căn tánh của chúng sinh.
‘’ Tùy tâm chúng sinh mưa pháp vũ.’’ Căn tính chúng sinh giống như cây cỏ hoa lá, rễ lớn thì hút lượng nước mưa nhiều, rễ nhỏ thì hút lượng nước mưa ít. Chúng ta chúng sinh cũng như thế, chúng sinh căn lành sâu dày, thì đắc được mưa pháp của Phật nhiều một chút, chúng sinh căn lành cạn cợt thì đắc được mưa pháp của Phật ít hơn một chút.
‘’ Nói pháp xuất thế khó nghĩ lường.’’ Vì mở bày diệu pháp không thể nghĩ bàn, đó là pháp môn xuất thế quan trọng hơn hết.
‘’ Môn này Tịch Tĩnh Thiên ngộ được.’’ Vị Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương minh bạch được cảnh giới này.
Thế Tôn thường dùng đại từ bi
Lợi ích chúng sinh hiện ra đời
Mưa pháp cam lồ nhuận hết thảy
Thanh Tịnh Quang Thiên diễn nói được.
‘’ Thế Tôn thường dùng đại từ bi.’’ Phật là đấng chí tôn, Ngài thường dùng tâm đại từ đại bi, để giáo hóa chúng sinh, bất cứ chúng sinh có sai lầm gì, Phật cũng đều tha thứ, cho nên nói Thế Tôn thường dùng đại từ bi.
‘’ Lợi ích chúng sinh hiện ra đời.’’ Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên mới xuất hiện ra đời, hiện tám tướng thành đạo ở thế giới Ta Bà.
‘’ Mưa pháp cam lồ nhuận hết thảy.’’ Phật là bình đẳng nhất, chẳng có quan niệm phân biệt, về giai cấp, về chủng tộc, về quốc tịch. Ngài thuyết pháp thì tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Bồ Tát thì đắc được lợi ích của Bồ Tát, A La Hán thì được lợi ích của A La Hán. Tu pháp đại thừa thì đắc được lợi ích đại thừa, tu tiểu thừa thì được lợi ích tiểu thừa, hết thảy đều có lợi ích khác nhau. Giống như bồn đựng nước, bồn lớn thì chứa nhiều nước một chút, bồn nhỏ thì chứa ít nước một chút.
‘’ Thanh Tịnh Quang Thiên diễn nói được.’’ Vị Quảng Ðại Thanh Tịnh Quang Thiên Vương diễn nói được cảnh giới này.
Ở trên là mười bài kệ của mười vị Quảng Quả Thiên Vương, trời Tứ Thiền thuộc về sắc giới, nói để tán thán công đức của Phật.
Lại nữa, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, thấu rõ phương tiện, con đường giải thoát cho tất cả chúng sinh.
Ý nghĩa ở trước chưa nói hết, bây giờ nói tiếp theo, khiến cho mọi người càng minh bạch càng hiểu rõ.
Vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, thuộc về cõi trời Biến Tịnh, trong cõi sắc giới trời Tam Thiền (cõi trời thứ chín thuộc về sắc giới). Vị này có trí huệ thanh tịnh, ở trong các Thiên Vương, vị này rất có danh vọng được mọi người tôn làm lãnh tụ để chỉ đạo tất cả. Vị này ngộ được Tam muội gọi là : Thấu đạt tất cả đạo giải thoát của chúng sinh. Vị này hiểu rõ chúng sinh trong chín pháp giới. Bồ Tát là chúng sinh đại đạo tâm. Duyên Giác là chúng sinh trung đạo tâm. Thanh Văn là chúng sinh tiểu đạo tâm. Thiên đạo, nhân đạo, A tu la là chúng sinh trong ba đường lành. Súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục là chúng sinh trong ba đường ác. Ðó là chúng sinh trong chín pháp giới, mỗi loài đều có nhân, có quả của mỗi loài.
Do đó trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Tức là trồng nhân lành kết quả tốt, trồng nhân ác kết quả xấu. Trong bổn Kinh này có nói :
‘’ Nếu ai muốn biết rõ,
Hết thảy Phật ba đời,
Hãy quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo.’’
Vạn pháp đều từ tâm tạo ra. Người xưa nói :
"Tâm sinh vạn pháp sinh,
Tâm diệt vạn pháp diệt".
Bây giờ phân tích chữ "Tâm" này, ý nghĩa đại khái là :
"Tam điểm như tinh bố,
Loan quân tự nguyệt nhạ,
Phi mao tùng thử khởi,
Tác Phật dã do tha".
Tạm dịch :
Ba điểm bày như sao
Uốn cong tợ trăng non
Mang lông khởi từ đây
Thành Phật cũng do nó.
Ba điểm chữ tâm, giống như sao bày la liệt trên bầu trời. Chữ tâm, cong giống như hình trăng non mồng ba. Làm trâu bò, ngựa dê đều từ tâm tạo ra ; thành Phật làm Tổ cũng từ tâm tạo ra. Cho nên nói :‘’ Mười pháp giới không ngoài một niệm tâm.’’ Mười pháp giới này do mình lựa chọn. Muốn đến pháp giới nào, thì làm nghiệp pháp giới đó. Tạo ra nghiệp pháp giới nào, thì vãng sinh về pháp giới đó, đó thật là tuyệt đối công bằng.
Tâm của chúng ta không ổn định, giống như hạt bụi trong hư không, lúc cao, lúc thấp, lúc trái, lúc phải, lúc lên trời, lúc xuống đất, lúc cõi Phật, lúc nhân gian.
Lại có lối giải thích khác về tâm :
‘’ Thao chi tắc tồn, xả chi tắc vong,
Xuất nhập vô thời, mạc chi kỳ hướng.’’
Nghĩa là : Giống như một con ngựa, dắt nó thì nó không chạy ; nếu không dắt nó thì nó chạy. Tâm của chúng ta cũng như thế, tiết chế nó, xem giữ nó thì nó ở, không tiết chế, không xem giữ nó thì nó chạy. Cho nên người tu hành tức là tu tâm. Luôn luôn niệm Phật, luôn luôn tham thiền. Tu hành như vậy thì tâm không chạy đi, do đó ‘’ Tâm viên ý mã,’’ tâm không an tĩnh giống như con khỉ, chạy nhảy lăn xăn. Ý không an phận giống như con ngựa, chạy rong bên ngoài. Hai loài súc sinh này khó điều phục được. Chúng ta hằng ngày khởi vọng tưởng, tức là tâm chạy bên ngoài ; niệm Phật tham thiền là pháp môn duy nhất khống chế tâm ý tại một chỗ.
Xuất nhập vô thời : Tức là tâm ra đi lúc nào ? Lúc nào trở về ? Ðều không biết. Mạc tri kỳ hướng : Khi tâm ra đi thì không biết tâm đi về đâu ? Khi đến cũng không biết đến đâu ?
Vị Thiên Vương này thấu đạt được tâm của tất cả chúng sinh, biết cách làm thế nào để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu rõ sự giải thoát. Cho nên vị này dùng đủ thứ phương tiện, khiến cho chúng sinh đắc được môn giải thoát xuất thế.
Tối Thắng Kiến Thiên Vương được môn giải thoát, khắp thị hiện như hình bóng, tùy sự ưa thích của tất cả chúng chư Thiên.
Vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương này, kiến giải nhạy bén phi thường, chính xác phi thường. Vị này đắc được môn giải thoát, khắp thị hiện tùy sự ưa thích của tất cả Thiên chúng như hình như bóng.
Có hình thì có bóng, có bóng mới có hình, hình là ánh sáng, bóng là đen tối. Hình tức là mặt trăng, mặt trăng trong nước tức là bóng. Mặt trăng chẳng đến, nước cũng chẳng đi, đó đây hổ tương chiếu soi, mà sinh ra bóng này.
Lại giống như gương sáng, nếu có vật rọi vào thì hình xuất hiện, vì quan hệ có sáng thì mới hiện ra bóng. Cho nên ánh sáng bóng này thị hiện khắp. Giống như đạo lý một ngàn vũng nước, đều có ngàn mặt trăng trong nước. Bổn thể của mặt trăng chẳng đến trong nước, nó chỉ có một, chỉ cần ngàn vũng nước thì hiện ra ngàn mặt trăng trong nước. Vạn vũng nước thì có vạn mặt trăng trong vũng nước. Bất cứ vũng nước lớn hoặc nhỏ, chỉ cần chỗ nào có nước, thì đều hiện ra bóng mặt trăng. Mặt trăng chẳng có tâm phân biệt, là bình đẳng.
Phật và chúng sinh cũng như thế. Phật tương tợ như mặt trăng, tâm chúng sinh giống như nước. Tâm nước của chúng sinh thanh tịnh thì hiện Phật quang minh ; tâm nước của chúng sinh không thanh tịnh, thì không hiện Phật quang minh. Trong bổn Kinh này nói :
"Bồ Tát thanh lương nguyệt,
Thường du tất kính không,
Chúng sinh tâm cấu tịnh,
Bồ đề ảnh hiện trung".
Tạm dịch :
Bồ Tát như trăng sáng
Thường lơ lửng trên trời
Tâm chúng sinh trong sạch
Bóng bồ đề hiện ra.
Quang minh của Phật, giống như mặt trăng sáng mát mẻ ở không trung, hiện ra ở trong tất kính không, nếu tâm nước chúng sinh thanh tịnh thì, bồ đề giác đạo tùy thời hiện bóng ở trong tâm.
Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương được môn giải thoát, đại phương tiện trang nghiêm thanh tịnh, khắp tất cả cảnh giới của Phật.
Vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương này, có đức tịch tĩnh. Ðức tịch tĩnh là gì ? Tức là có công phu thiền định. Vị này không những có công phu thiền định, mà còn khiến cho chúng sinh, cũng có công phu thiền định. Phàm là chúng sinh thấy được vị này, đều sinh ra thứ định tâm này. Vị này cũng khiến cho chúng sinh, tinh tấn tu thiền định. Lâu dần tích tụ được vô lượng vô biên công đức, có đức tịch tĩnh, cho nên xưng là Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương.
Môn giải thoát của vị này đắc được gọi là : đại phương tiện trang nghiêm thanh tịnh, khắp tất cả cảnh giới của Phật. Vị Thiên Vương này trong khoảng một niệm, có thể trang nghiêm khắp cõi Phật trong mười phương. Ðồng thời, đó đều là trang nghiêm tốt đẹp thù thắng, và thanh tịnh hết thảy tất cả cảnh giới của Phật, lại có thể trang nghiêm thần thông tất cả cõi Phật trong mười phương, và vị này lại có thể hiển hiện cảnh giới này làm đại phương tiện.
Ðại phương tiện là gì ? Tức là phương tiện trong sự bất phương tiện. Bổn lai pháp phương tiện này không thể dùng, nhưng vị này dùng được phương tiện này, không những dùng được mà còn không chướng ngại.
Tu Di Âm Thiên Vương được môn giải thoát, tuỳ thuận các chúng sinh, vĩnh viễn lưu chuyển trong biển sinh tử.
Vị Tu Di Âm Thiên Vương này. Tu Di dịch là "Diệu cao", âm thanh của vị này rất vi diệu, ở cõi trời Ðao Lợi đều nghe được. Môn giải thoát của vị này đắc được là : tùy thuận chúng sinh. Chúng sinh thích gì ? Thì đều làm cho họ thỏa mãn nguyện vọng, làm cho họ được toại nguyện. Nhưng sự mong muốn của chúng sinh chẳng giống nhau.
Nguyện vọng của A La Hán là tự độ mà không độ người, do đó :‘’ Ma Ha Tát bất quản tha, Di Ðà Phật các cố các.’’ Chỉ lo cho mình liễu sinh thoát tử, không muốn đi cứu vớt sự khổ của chúng sinh. Bạn khổ là việc của bạn, chẳng liên can gì đến tôi, tự liễu hán không muốn đi độ chúng sinh.
Dục vọng của chư Thiên là, cứ lo hưởng thụ phước báu, nghĩ đến y phục thì có y phục, nghĩ thức ăn thì có thức ăn. Nghĩ mặc y phục đẹp thì có y phục đẹp, không lớn không nhỏ, vừa vặn thích hợp. Y phục của người trời không những nhẹ nhàng, mà còn không có đường khâu, không bao giờ cần giặt, không dính bụi bặm, sạch sẽ vô cùng. Muốn ăn đồ ngon thì có ngay, có khi nhiều một chút, có khi ít một chút, không giống như thế giới Cực Lạc không nhiều không ít ăn vừa đủ no.
Chư Thiên tuy nhiên sung sướng, nhưng cũng có đau khổ. Ðau khổ gì ? Ðau khổ về sinh tử. Khi phước trời hưởng hết rồi, thì có năm tướng suy hiện ra. Năm tướng suy là gì ?
1. Hoa trên đầu héo : Người trời có mũ bằng hoa, dùng hoa tươi làm thành, hoa này không những không héo, ngược lại ngày càng xanh tươi tốt đẹp. Nhưng đến khi sắp hết tuổi thọ, thì hoa trên đầu khô héo.
2. Y phục dơ bẩn : Y của người trời mặc rất sạch sẽ không dơ bẩn, vĩnh viễn không cần giặt. Nhưng đến khi tuổi thọ hết, thì y phục dơ bẩn. Sự dơ bẩn này từ đâu đến ? Là từ nghiệp chướng hiện ra.
3. Hai nách ra mồ hôi : Thân thể người trời không ra mồ hôi, luôn luôn sạch sẽ. Nhưng đến khi tuổi thọ hết, thì hai nách chảy ra mồ hôi, thân thể nhơ nhuốc.
4. Thân thể có mùi hôi : Người trời thân thể luôn luôn có hương thơm, vì người trời tu mười điều lành, và giữ năm giới cấm, cho nên thân cảm ứng có mùi thơm. Nhưng khi tuổi thọ hết rồi, thì thân phát ra mùi thây chết, làm cho người bịt mũi không dám lại gần.
5. Ngồi không yên : Người trời thường tu thiền định, tham thiền đả tọa, công phu sâu dày thì thăng lên, công phu ít thì trầm xuống. Lúc bấy giờ đã phát sinh ra bốn hiện tượng, biết được thọ mạng sắp kết thúc, cho nên ngồi không yên, ngồi xuống lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, cứ như vậy nhiều lần, thọ mạng chấm dứt thì chuyển sinh trong sáu nẻo luân hồi. Ðó là hiện tượng năm tướng suy, phàm là chư Thiên trong tam giới đều có sinh tử, ngay cả Thượng Ðế cũng còn sinh tử.
Dục vọng của A Tu La là muốn được hưởng phước ở trên trời, muốn chư Thiên sớm về nhân gian, để nhường việc trên trời cho chúng quản lý. Chúng còn ham muốn làm lãnh tụ chư Thiên, việc gì cũng muốn tranh đệ nhất, muốn đứng đầu.
Dục vọng của con người là giàu sang danh lợi. Muốn làm quan, muốn phát tài, không cầu danh thì cầu lợi, không thoát ra được vòng danh lợi.
Hoàng đế Càn Long đời nhà Thanh, giá lâm Trấn Giang Kim Sơn Tự, lên chỗ cao để ngắm phong cảnh bèn hỏi Thiền sư Pháp Khánh :‘’ Mỗi ngày sông Trường Giang này có bao nhiêu chiếc thuyền qua lại ? ‘’
- Thiền sư đáp : ‘’ Chỉ có hai chiếc thuyền.’’
- Hoàng đế lại hỏi : ‘’ Hai chiếc thuyền sao ? ‘’
- Thiền sư đáp : ‘’ Phải ! Một chiếc là danh, một chiếc là lợi.’’ Sự tham muốn của con người không bao giờ ngừng, được danh lại muốn được lợi, được lợi rồi lại muốn có danh, đều muốn được cả danh và lợi, do đó :
‘’ Nhân tâm bất túc xà tôn tượng.’’
Nghĩa là : "Tâm con người không biết đủ giống như rắn nuốt voi", làm được Hoàng đế lại muốn sống mãi không chết.
Dục vọng của loài súc sinh : Vừa có lòng tham ngu si và điên đảo. Sở thích của chúng là không làm mà muốn có đồ ăn. Không phấn đấu sinh hoạt. Chúng ta người tu đạo phải học tinh thần loài ong. Chúng hút mật trăm loài hoa về tụ tập một chỗ, meo lên mà thành mật ong, không những lợi mình mà cũng lợi người.
Dục vọng của loài ngạ quỷ là muốn ăn đồ vật, nhưng chẳng có vật gì để ăn ; dù uống nước, nước cũng biến thành lửa. Vì nghiệp chướng quá nặng, cổ họng nhỏ như cây kim, bụng thì to như trống, không có khi nào ăn no, thật đáng thương !
Dục vọng của loài địa ngục là tâm sân hận, luôn luôn muốn nóng giận, chẳng có tâm từ bi. Chúng sinh nóng giận như lửa thì chịu sự khổ lửa đốt thân ; chúng sinh nóng giận như đao thì chịu sự khổ cắt thịt. Nóng giận như thế nào, thì có phiền não như thế đó.
Các pháp giới chúng sinh đều có lòng tham muốn của họ. Phàm là chúng sinh có lòng tham muốn, thì vĩnh viễn lưu chuyển trong biển sinh tử, ngóc đầu lên lại chìm xuống, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, luân hồi trong sáu nẻo không khi nào ngừng. Ðó gọi là biển sinh tử.
Vị Thiên Vương này hiểu rõ đạo lý này, cho nên tùy thuận chúng sinh lưu chuyển trong biển sinh tử, khiến cho chúng sinh giác ngộ, mà ra khỏi biển sinh tử đắc được giải thoát. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương được môn giải thoát, nghĩ nhớ hạnh của Như Lai điều phục chúng sinh.
Vị Thanh Tịnh Nhãn Thiên Vương này, nhờ công đức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, mà đắc được mắt thanh tịnh. Và còn đắc được định lực nghĩ nhớ của Như Lai. Nghĩ nhớ tức là không quên. Không quên ai ? Không quên Như Lai. Cho nên chúng ta là người tu đạo phải bỏ vọng tồn chân. Khử sạch tâm vọng, chỉ tồn tâm chân thành. Yêu thích cõi nước chư Phật, phát nguyện vãng sanh, đó là nghĩ nhớ. Nghĩ nhớ pháp thân của Phật, nghĩ nhớ hóa cảnh của Phật, nghĩ nhớ Tam Bảo thì hàng phục được các hạnh của chúng sinh.
Chúng sinh trong thế giới Ta Bà, không dễ gì điều phục được, trong Kinh Ðịa Tạng có nói : ‘’ Chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Ðề căn tánh khó điều phục.’’ Chúng sinh thế giới này chấp trước cái ta, ngã mạn, cho nên khó điều phục. Họ không chịu nghe, dù có bạn tốt thầy hiền khéo dụ, khiến cho họ phát bồ đề tâm, lợi mình lợi người, nhưng họ không tin, không nghe dạy bảo. Cho nên chúng sinh thường làm chúng sinh, không siêu thoát được.
Vị Thiên Vương này điều phục được chúng sinh hạnh. Ðiều là điều hòa, giống như nước hòa với sữa, lập tức điều hòa thành một thể. Phục là điều phục, giống như cọp, xem người là thức ăn. Hòa Thượng Hư Vân khiến cho cọp quy y Tam Bảo, không ăn thịt mà ăn chay đó là điều phục. Chúng sinh không giữ quy cụ mà dạy họ giữ được quy cụ, đó là điều phục chúng sinh hạnh. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Khả Ái Lạc Phổ Chiếu Thiên Vương được môn giải thoát, phổ môn chảy ra từ biển Ðà La Ni.
Vị Khả Ái Lạc Phổ Chiếu Thiên Vương này, bất cứ là người ở trên trời, hoặc người ở tại nhân gian, ai thấy được vị này, đều sinh tâm hoan hỷ và ái hộ. Vì quang minh của vị này, chiếu khắp tất cả chúng sinh, thì tất cả đều có nhân duyên. Vị này đắc được pháp Tam muội Phổ môn biển Ðà la ni.
Phổ môn là gì ? Tức là do một cửa mà sinh ra vô lượng cửa (một môn sinh ra vô lượng môn), từ vô lượng cửa trở về một cửa, là cửa viên dung vô ngại chu khắp pháp giới.
Ðà la ni là gì ? Dịch là "tổng trì". Tổng là tổng tất cả pháp, trì là trì vô lượng nghĩa. Tóm lại, tổng thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh. Trì giới, định, huệ ba học viên minh.
Biển tổng trì là gì ? Tức là từ trong một tổng trì sinh ra vô lượng vô biên tổng trì. Trong mỗi tổng trì lại sinh ra bất khả thuyết, bất khả thuyết tổng trì. Sự biến hóa nhiều này giống như biển cả, cho nên gọi là biển tổng trì.
Tuy nhiên có biển tổng trì nhiều như thế, nhưng đừng chấp trước. Không chỗ chấp trước, thì viên dung vô ngại. Chẳng giống như chúng ta có một thì chấp một, có hai thì chấp hai, có ba thì chấp ba, cho đến có vô lượng thì chấp vô lượng. Phải lìa tất cả chấp trước tướng, thì biển tổng trì cũng chẳng có. Nếu không bỏ sự chấp trước tướng, thì chẳng bao giờ được giải thoát. Vị Thiên Vương này được môn giải thoát này.
Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho chúng sinh gặp được Phật thì sinh tín tạng.
Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này, tức là Thiên Chúa hoặc là Thượng Ðế mà một số người tin. Vị này tuy nhiên làm Chúa Trời nhưng vẫn không biết đủ (tri túc). Lại đến nhân gian để làm Tự Tại Chủ, dạy người nhân gian khởi tâm tham, tâm sân, tâm si, dạy người nhân gian tin mình, tín ngưỡng mình, sùng bái mình, còn phán giáo nói rằng :
1. Tin ta thì được cứu, không tin ta thì không được cứu. Người có tâm tham, nghe rồi thì nghĩ rằng họ sẽ được cứu bèn tin Thuợng đế.
2. Người nào tin ta thì được sinh về nước Chúa, ai không tin thì đọa địa ngục. Tóm lại bất cứ có bao nhiêu tội lỗi, chỉ cần tin Thượng đế, thì sẽ được sinh lên thiên đường. Bất cứ có bao nhiêu thiện nghiệp, nếu không tin Thượng đế thì sẽ đọa vào địa ngục. Người có tâm sân hận nghe rồi thì muốn nổi nóng, tạo ra nhiều nghiệp, bây giờ tin Thượng đế thì sẽ được cứu cho nên liền tin.
3. Tin ta thì là con của Thượng đế, không tin ta thì là quyến thuộc của ma quỷ. Người có tâm si mê, nghe rồi thì một lòng muốn làm con của Thượng đế, tôi phải sinh về đất Chúa, do đó bèn tin Thượng đế.
Người ngu si thì bất cứ ai nói điều gì, họ đều tin là thật. Nếu có ai nói : ‘’ Trứng gà đẻ ở trên cây ‘’ họ cũng sẽ tin. Tại sao ? Vì họ chẳng có năng lực biện rõ thị phi, đó tức là mê tín.
Cho nên vị Thế Gian Tự Tại Chủ ở tại nhân gian lập giáo mà hành đại đạo, đến khắp nơi dùng quan hệ tình cảm để thuyết giáo, dạy người tin Chúa trời, Chúa trời là thần vạn năng, sáng được thế giới, tạo vạn vật, xét đoán tội người, nhưng không công bằng, là giáo đồ thì có quyền ưu tiên thăng lên thiên đường, chẳng phải giáo đồ thì không thể tha thứ, còn phải chịu tội.
Nói về vị Chúa trời này bây giờ đã phản tỉnh. Vị này đã kiểm thảo lại những gì đã làm trong quá khứ, biết phạm sự sai lầm, cho nên bây giờ sám hối nói : ‘’ Tin ta thì nương tựa không vững, chết rồi tuy nhiên sinh lên thiên đường, nhưng khi hưởng hết phước trời thì vẫn phải chịu sinh tử, chẳng phải pháp rốt ráo. Chỉ có tin Phật pháp mới chân chánh được cứu, vĩnh viễn chấm dứt sinh tử.’’
Vị Thiên Vương này, khiến chúng sinh gặp được Phật, thì sinh tín tạng. Phật là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ Thần, Thánh, Chúa trời đều không thể so sánh với trí huệ của Phật. Vì Phật có đại trí huệ không thể sánh được. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe pháp tin vui mà ra khỏi ba cõi.
Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương này, có trí huệ quang minh giống như lửa ngọn. Vị này đắc được sự giác ngộ, khiến cho chúng sinh trong chín pháp giới, nghe pháp mà sinh tín tâm, và còn hoan thiên hỷ địa tín thọ. Như vậy mới ra khỏi tam giới, ra khỏi luân hồi, ra khỏi đời ác năm trược. Vị Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
Tam giới là gì ? Tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới thì có dục (tham muốn) nam nữ, tham muốn về vật chất và tư tưởng tham muốn. Cho nên gọi là dục giới. Sắc giới chẳng còn tham muốn nam nữ, nhưng có sự tham muốn vật chất và tư tưởng tham muốn, cho nên gọi là sắc giới. Vô sắc giới chẳng còn tham muốn nam nữ, cũng chẳng còn tham muốn vật chất, chỉ có tư tưởng tham muốn, tức là thức, cho nên gọi là vô sắc giới.
Luân hồi là gì ?
Tức là bánh xe sinh tử, chạy trong vòng sáu nẻo, bị nghiệp lực sở cảm chi phối.
Lúc còn sống, thực hành thượng phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì được sinh
về cõi trời. Lúc còn sống, thực hành trung phẩm mười điều lành, giữ năm giới,
thì sinh về cõi người. Lúc còn sống, thực hành hạ phẩm mười điều lành, giữ năm
giới, thì sinh về cõi A Tu La. Lúc còn sống, thực hành hạ phẩm mười điều ác,
không giữ năm giới, thì sinh về đường súc sinh. Lúc còn sống, thực hành trung
phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì sinh về ngạ quỷ. Lúc còn sống, thực
hành thượng phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì đọa vào địa
ngục.
Ðời ác năm trược là gì ? Thế giới này chúng ta đang ở có năm thứ cấu nhiễm.
1. Kiếp trược : Ðến thời đại mạt pháp, tuổi thọ con người đến lúc thấp nhất thì thành diệt kiếp, có ba tai nạn lớn.
2. Kiến trược : Trong tâm con người đầy dẫy tư tưởng ngũ chủng kiến (năm thứ thấy không chân chánh) tức là : Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến.
3. Phiền não trược : Trong tâm con người đầy dẫy năm thứ ngu độn tức là : Tham dục, sân hận, ngu si, ngã mạn, nghi hoặc.
4. Chúng sinh trược : Sinh mạng của chúng sinh là do năm uẩn giả hợp mà thành, phải chịu sinh già bệnh chết, đủ sự thống khổ và phiền não, vĩnh viễn luân hồi trong sáu nẻo.
5. Mạng trược : Sinh mạng của chúng sinh khổ nhiều vui ít, thọ mạng như sương buổi sáng, khoảng nháy mắt thì quỷ vô thường đến, thì sinh mạng sẽ chấm dứt.
Thân chúng sinh dễ được, nhưng thân người khó được, vì con người là thông minh nhất trong các loại chúng sinh, cho nên được thân người chẳng phải dễ. Cổ đức nói :
"Thân người khó được, Phật pháp khó nghe,
Nước lớn khó sinh, bạn hiền khó gặp".
Bây giờ người Mỹ đều có phước báu, nếu không có phước báu thì không thể sinh vào nước Mỹ. Có người nói : ‘’ Tây phương Cực Lạc Thế Giới là nước Mỹ bây giờ.’’ Mới nghe còn có chút nghi ngờ, không tin lời nói như thế, nhưng phân tích tỉ mỉ thì thật có lý. Thế giới Cực Lạc, căn cứ tên gọi mà suy nghĩ nghĩa của nó, là vui sướng đến cùng cực, mà chẳng có chút lo lắng gì. Bây giờ khắp nơi trên thế giới chịu sự uy hiếp về chiến tranh, uy hiếp về lương thực kinh tế, mà nước Mỹ là một nước giàu mạnh, không bao giờ sợ thiếu lương thực và chẳng sợ có chiến tranh, đây là thế giới cực lạc ở nhân gian.
Bây giờ Phật pháp đã truyền đến đất Mỹ, quang minh của Phật chiếu khắp, Phật pháp độ khắp. Phàm là người ở nước Mỹ đều đắc được lợi ích Phật pháp. Hạt giống bồ đề đã trồng xuống mười năm về trước, bây giờ là thời kỳ mầm non, hy vọng thiện nam tín nữ nước Mỹ cố gắng nỗ lực tài bồi, luôn luôn cạo cỏ, luôn luôn thêm phân tưới nước, khiến cho mầm bồ đề lớn dần phát triển tươi tốt, khai hoa kết quả. Ai ai cũng tin Phật pháp thì thế giới chẳng có chiến tranh.
Chúng ta hôm nay sanh vào nước lớn, lại có bạn hiền, thật là cơ hội tốt ngàn năm khó gặp, cho nên phải nắm lấy cơ hội, đừng để trôi qua. Bốn điều khó được đều đã được, thật là hy hữu, may mắn, cũng là nghiệp lực sở cảm. Cho nên nghe pháp phải sinh tín tâm mới có công đức, không sinh tín tâm thì bất cứ nghe pháp gì cũng chẳng ích lợi gì. Bây giờ chúng ta không những tin còn phải tu hành. Do đó :
‘’ Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay đã nghe,
Thân này đời nay không độ,
Còn đợi chừng nào độ thân này.’’
Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương, được môn giải thoát, nhập vào tất cả hạnh điều phục của Bồ Tát, vô biên vô tận như hư không.
Vị Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương này, hoan hỷ tu pháp môn tư duy. Pháp tư duy tức là thiền định. Vị này hiểu rõ tất cả các pháp, biến hóa vô cùng hổ tương vô ngại. Hiểu rõ pháp này, nhập vào được tất cả cảnh giới của Bồ Tát, thấu hiểu điều phục được hạnh chúng sinh, hiểu rõ làm thế nào điều phục loại chúng sinh đó. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Vị này còn hiểu rõ tự tánh như hư không chẳng có bờ mé, cho nên nói vô biên vô tận, chẳng có bờ mé là lớn nhất, chẳng có cùng tột là dài nhất. Thiên Vương này hiểu được pháp môn này, cho nên đắc được môn giải thoát này.
Biến Hóa Tràng Thiên Vương được môn giải thoát, phổ bi trí quán sát vô lượng phiền não của chúng sinh.
Vị Biến Hóa Tràng Thiên Vương này, có tràng báu biến hóa vô cùng, có thể biến lớn biến nhỏ, có thể biến nhiều biến ít, biến hóa đủ loại bảy báu để trang nghiêm tràng báu. Vị này quán sát được tất cả phiền não chúng sinh. Phiền não từ đâu mà có ? Nói đơn giản là từ vô minh mà sinh ra. Vô minh khởi mà biến làm phiền não tham sân si. Phiền não có đại phiền não, trung phiền não và tiểu phiền não. Lại sinh ra vô lượng vô biên phiền não, cho nên nói vô lượng phiền não.
Ðời ác năm trược là gì ? Thế giới này chúng ta đang ở có năm thứ cấu nhiễm.
1. Kiếp trược : Ðến thời đại mạt pháp, tuổi thọ con người đến lúc thấp nhất thì thành diệt kiếp, có ba tai nạn lớn.
2. Kiến trược : Trong tâm con người đầy dẫy tư tưởng ngũ chủng kiến (năm thứ thấy không chân chánh) tức là : Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến.
3. Phiền não trược : Trong tâm con người đầy dẫy năm thứ ngu độn tức là : Tham dục, sân hận, ngu si, ngã mạn, nghi hoặc.
4. Chúng sinh trược : Sinh mạng của chúng sinh là do năm uẩn giả hợp mà thành, phải chịu sinh già bệnh chết, đủ sự thống khổ và phiền não, vĩnh viễn luân hồi trong sáu nẻo.
5. Mạng trược : Sinh mạng của chúng sinh khổ nhiều vui ít, thọ mạng như sương buổi sáng, khoảng nháy mắt thì quỷ vô thường đến, thì sinh mạng sẽ chấm dứt.
Thân chúng sinh dễ được, nhưng thân người khó được, vì con người là thông minh nhất trong các loại chúng sinh, cho nên được thân người chẳng phải dễ. Cổ đức nói :
"Thân người khó được, Phật pháp khó nghe,
Nước lớn khó sinh, bạn hiền khó gặp".
Bây giờ người Mỹ đều có phước báu, nếu không có phước báu thì không thể sinh vào nước Mỹ. Có người nói : ‘’ Tây phương Cực Lạc Thế Giới là nước Mỹ bây giờ.’’ Mới nghe còn có chút nghi ngờ, không tin lời nói như thế, nhưng phân tích tỉ mỉ thì thật có lý. Thế giới Cực Lạc, căn cứ tên gọi mà suy nghĩ nghĩa của nó, là vui sướng đến cùng cực, mà chẳng có chút lo lắng gì. Bây giờ khắp nơi trên thế giới chịu sự uy hiếp về chiến tranh, uy hiếp về lương thực kinh tế, mà nước Mỹ là một nước giàu mạnh, không bao giờ sợ thiếu lương thực và chẳng sợ có chiến tranh, đây là thế giới cực lạc ở nhân gian.
Bây giờ Phật pháp đã truyền đến đất Mỹ, quang minh của Phật chiếu khắp, Phật pháp độ khắp. Phàm là người ở nước Mỹ đều đắc được lợi ích Phật pháp. Hạt giống bồ đề đã trồng xuống mười năm về trước, bây giờ là thời kỳ mầm non, hy vọng thiện nam tín nữ nước Mỹ cố gắng nỗ lực tài bồi, luôn luôn cạo cỏ, luôn luôn thêm phân tưới nước, khiến cho mầm bồ đề lớn dần phát triển tươi tốt, khai hoa kết quả. Ai ai cũng tin Phật pháp thì thế giới chẳng có chiến tranh.
Chúng ta hôm nay sanh vào nước lớn, lại có bạn hiền, thật là cơ hội tốt ngàn năm khó gặp, cho nên phải nắm lấy cơ hội, đừng để trôi qua. Bốn điều khó được đều đã được, thật là hy hữu, may mắn, cũng là nghiệp lực sở cảm. Cho nên nghe pháp phải sinh tín tâm mới có công đức, không sinh tín tâm thì bất cứ nghe pháp gì cũng chẳng ích lợi gì. Bây giờ chúng ta không những tin còn phải tu hành. Do đó :
‘’ Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay đã nghe,
Thân này đời nay không độ,
Còn đợi chừng nào độ thân này.’’
Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương, được môn giải thoát, nhập vào tất cả hạnh điều phục của Bồ Tát, vô biên vô tận như hư không.
Vị Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương này, hoan hỷ tu pháp môn tư duy. Pháp tư duy tức là thiền định. Vị này hiểu rõ tất cả các pháp, biến hóa vô cùng hổ tương vô ngại. Hiểu rõ pháp này, nhập vào được tất cả cảnh giới của Bồ Tát, thấu hiểu điều phục được hạnh chúng sinh, hiểu rõ làm thế nào điều phục loại chúng sinh đó. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Vị này còn hiểu rõ tự tánh như hư không chẳng có bờ mé, cho nên nói vô biên vô tận, chẳng có bờ mé là lớn nhất, chẳng có cùng tột là dài nhất. Thiên Vương này hiểu được pháp môn này, cho nên đắc được môn giải thoát này.
Biến Hóa Tràng Thiên Vương được môn giải thoát, phổ bi trí quán sát vô lượng phiền não của chúng sinh.
Vị Biến Hóa Tràng Thiên Vương này, có tràng báu biến hóa vô cùng, có thể biến lớn biến nhỏ, có thể biến nhiều biến ít, biến hóa đủ loại bảy báu để trang nghiêm tràng báu. Vị này quán sát được tất cả phiền não chúng sinh. Phiền não từ đâu mà có ? Nói đơn giản là từ vô minh mà sinh ra. Vô minh khởi mà biến làm phiền não tham sân si. Phiền não có đại phiền não, trung phiền não và tiểu phiền não. Lại sinh ra vô lượng vô biên phiền não, cho nên nói vô lượng phiền não.
Chúng sinh có phiền
não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng tức là chấp ta quá nặng. Sở tri
chướng tức là chấp pháp quá nặng. Do hai sự chướng ngại này, mà chúng ta lưu
chuyển trong sáu nẻo luân hồi, không giải thoát được.
Mỗi một chúng sinh đều có phiền não của họ. Người giàu thì có phiền não kiêu ngạo, kẻ nghèo thì có phiền não tự ti. Phiền não là gì ? Tức là không biết đủ. Nếu biết đủ thì chẳng có phiền não. Do đó :‘’ Biết đủ thì vui, nhịn được thì yên.’’
Mỗi một chúng sinh đều có phiền não của họ. Người giàu thì có phiền não kiêu ngạo, kẻ nghèo thì có phiền não tự ti. Phiền não là gì ? Tức là không biết đủ. Nếu biết đủ thì chẳng có phiền não. Do đó :‘’ Biết đủ thì vui, nhịn được thì yên.’’
Vị Thiên Vương này
đắc được môn giải thoát : phổ biến từ bi trí huệ, phát nguyện độ chúng sinh, xem
chúng sinh bình đẳng, không phân biệt người thân kẻ oán, hết thảy đều như
nhau.
Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân thân khẩu ý của Phật, để nhiếp hóa chúng sinh.
Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương này, phóng quang minh, quang minh như tinh tú rất vi diệu trang nghiêm các cõi nước chư Phật. Vị này đắc được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân nhiếp hóa của Phật. Phật tức là Phật Thích Ca hoặc là mười phương chư Phật. Tam luân tức là thân khẩu ý. Tam luân của Phật, tam luân của Bồ Tát, tam luân của A La Hán, tam luân của chúng sinh đều khác nhau.
Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân thân khẩu ý của Phật, để nhiếp hóa chúng sinh.
Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương này, phóng quang minh, quang minh như tinh tú rất vi diệu trang nghiêm các cõi nước chư Phật. Vị này đắc được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân nhiếp hóa của Phật. Phật tức là Phật Thích Ca hoặc là mười phương chư Phật. Tam luân tức là thân khẩu ý. Tam luân của Phật, tam luân của Bồ Tát, tam luân của A La Hán, tam luân của chúng sinh đều khác nhau.
Tam luân của Phật
có thể nói là một luân, lại có thể nói là chín luân. Trong mỗi một luân có ba
luân tác dụng. Ví như miệng. Miệng không chỉ riêng thuyết pháp luân, cũng có thể
nói là ý niệm luân, cũng có thể nói là thần túc luân. Như vậy mỗi một luân đầy
đủ công dụng ba luân, luân chuyển không ngừng, chuyển đại pháp luân. Cho nên tam
luân của Phật, với tam luân của chúng sinh chẳng giống nhau.
Tam luân của chúng sinh, thân tức là thân, miệng tức là miệng, ý tức là ý, không thể dùng lẫn nhau, mà có sự chướng ngại.
Tam luân của Phật lấy bốn pháp nhiếp làm chủ, cho nên nói nhiếp hóa chúng sinh. Nhiếp là nhiếp thọ, giống như hút sắt vậy. Nhiếp phân làm hai thứ :
Tam luân của chúng sinh, thân tức là thân, miệng tức là miệng, ý tức là ý, không thể dùng lẫn nhau, mà có sự chướng ngại.
Tam luân của Phật lấy bốn pháp nhiếp làm chủ, cho nên nói nhiếp hóa chúng sinh. Nhiếp là nhiếp thọ, giống như hút sắt vậy. Nhiếp phân làm hai thứ :
1. Nhiếp hữu hình,
giống như có người ở Nữu Ước, tiếp được thơ hoặc điện thoại của bạn bè ở Cựu Kim
Sơn, bèn đến Cựu Kim Sơn.
2. Nhiếp vô hình,
tức là nhiếp tinh thần, tức cũng là thần túc thông, có thể nhiếp người đến. Ví
như có người vốn chưa từng thấy mặt, hoặc là chỉ thấy trong mộng, thì người này
bèn đến, đó là tác dụng về nhiếp tinh thần.
Phật thường dùng nhiếp hữu hình và vô hình, để nhiếp hóa chúng sinh, dùng đủ loại thần thông để nhiếp hóa chúng sinh, dùng từ bi hỷ xả để nhiếp hóa chúng sinh. Tóm lại có bốn loại nhiếp :
1. Bố Thí : Phân làm ba loại :
A. Bố thí tài : Thấy người khốn khổ hoạn nạn, dùng vàng bạc vật chất để cứu họ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
B. Bố thí pháp : Thấy người không rõ sự lý, dùng Phật pháp nhân quả để khai đạo cho họ, khiến cho họ khai mở trí huệ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
C. Bố thí không sợ hãi : Thấy người bất hạnh, dùng lời khéo để an ủi họ, làm cho họ không hoảng hốt sợ hãi, họ sẽ cảm động mà nương tựa bạn. Như vậy sẽ phát sinh cảm tình với chúng sinh thì dễ gần gũi chúng sinh.
Phật thường dùng nhiếp hữu hình và vô hình, để nhiếp hóa chúng sinh, dùng đủ loại thần thông để nhiếp hóa chúng sinh, dùng từ bi hỷ xả để nhiếp hóa chúng sinh. Tóm lại có bốn loại nhiếp :
1. Bố Thí : Phân làm ba loại :
A. Bố thí tài : Thấy người khốn khổ hoạn nạn, dùng vàng bạc vật chất để cứu họ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
B. Bố thí pháp : Thấy người không rõ sự lý, dùng Phật pháp nhân quả để khai đạo cho họ, khiến cho họ khai mở trí huệ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
C. Bố thí không sợ hãi : Thấy người bất hạnh, dùng lời khéo để an ủi họ, làm cho họ không hoảng hốt sợ hãi, họ sẽ cảm động mà nương tựa bạn. Như vậy sẽ phát sinh cảm tình với chúng sinh thì dễ gần gũi chúng sinh.
2. Ái ngữ : Tức là
lời nói thái độ giống như cha mẹ nói với con cái, không những nhu hòa mà còn từ
bi, đối với chúng sinh cũng lại như thế, khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Do đó
:
‘’ Lời hay nửa câu ấm suốt ba mùa Ðông.’’
Lời nói là biểu đạt sự cảm tình. Biết dùng người thì kết duyên lành khắp nơi, không biết dùng người thì kết duyên ác kháp nơi. Cho nên người tu đạo phải rộng kết duyên lành.
Có câu chyện như vầy, lúc Ðức Phật còn tại thế, Ðức Phật và hai vị Tôn giả Ca Diếp và A Nan đi đến xứ nọ thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Gặp lúc mùa hạ thời tiết nóng bức, mồ hôi chảy nhễ nhại, bèn đến nghỉ dưới gốc cây. Lúc bấy giờ Ðức Phật thấy một phụ nữ đến giếng gánh nước bèn sai Tôn giả A Nan đi xin nước. ANan dến bên giếng, người thiếu phu nổi giận,
không những không cho nước, mà còn mắng chửi Tôn giả A Nan. Tôn giả A Nan im
lặng cúi đầu trở về chỗ Phật. Phật sai Tôn giả Ca Diếp đến xin nước, Tôn giả Ca
Diếp đến bên giếng, người phụ nữ cười hỏi : ‘’ Thầy đến đây làm gì ? ‘’ Tôn giả
Ca Diếp nói rõ ý của mình đến, thì người phụ nữ này múc đầy hai bầu nước, một
bầu cúng dường Phật, một bầu cúng dường ngài Ca Diếp. Tôn giả A Nan thấy như
vậy, trong tâm nghi vấn, bèn hỏi Phật là nhân duyên gì ? Phật bèn nói ra một
đoạn nhân duyên trong vô lượng kiếp. Lúc đó người phụ nữ này là con chuột, vì
quan hệ nghiệp chướng, chuột bị xe cáng chết ở giữa đường, thân thể đã hôi thối.
Tôn giả A Nan là một vị Tỳ kheo đi ngang qua, ngửi thấy mùi chuột thối muốn mửa
ra, tâm nghĩ lão chuột đáng chết, rồi bịt mũi đi qua. Ðằng xa cũng có một Tỳ
kheo đi đến, đó là tiền thân Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả phát tâm từ bi, thấy chuột
chết thật đáng thương xót, mới mai táng xác chuột dưới đất, rồi vì nó mà niệm
bảy lần Chú Vãng Sinh, cho nên nó mới có duyên sinh làm người. Ðó là nhân quả
kết duyên lành hoặc kết duyên ác.
‘’ Lời hay nửa câu ấm suốt ba mùa Ðông.’’
Lời nói là biểu đạt sự cảm tình. Biết dùng người thì kết duyên lành khắp nơi, không biết dùng người thì kết duyên ác kháp nơi. Cho nên người tu đạo phải rộng kết duyên lành.
Có câu chyện như vầy, lúc Ðức Phật còn tại thế, Ðức Phật và hai vị Tôn giả Ca Diếp và A Nan đi đến xứ nọ thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Gặp lúc mùa hạ thời tiết nóng bức, mồ hôi chảy nhễ nhại, bèn đến nghỉ dưới gốc cây. Lúc bấy giờ Ðức Phật thấy một phụ nữ đến giếng gánh nước bèn sai Tôn giả A Nan đi xin nước. A
3. Lợi hành : Tức
là có lợi gì thì phân chia đồng đều cho mọi người, không thể chiếm làm của
riêng. Nên học Bảo Thúc Nha và Quản Trọng về việc chia vàng. Hai người hợp tác
làm ăn, đến khi chia lợi nhuận thì Quản Trọng lấy phần nhiều, còn Bảo Thúc Nha
thì ít hơn. Có người cho rằng không công bằng, mới hỏi Bảo Thúc Nha tại sao lại
như thế ? Bảo Thúc Nha nói : ‘’ Quản Trọng có mẹ già còn sinh tiền, ăn uống phải
có dinh dưỡng, cho nên mới lấy phần nhiều.’’ Quản Trọng nghe được điều này rất
cảm động vô cùng, rất cảm kích nói rằng : ‘’ Cha mẹ là người sinh ta, người biết
ta là Bảo Thúc Nha.’’
4. Ðồng sự : Bồ Tát
nghĩ muốn độ người gì, thì hiện ra thân đó, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm có ba
mươi hai thân tướng. Ðáng dùng thân người nam độ được, thì hiện thân người nam
để độ, đáng dùng thân người nữ độ được, thì hiện ra thân người nữ để độ. Ðáng
dùng thân sĩ, nông, công, thương độ được thì hiện ra thân sĩ, nông, công, thương
để độ. Tóm lại, phải hiện ra thân cùng thân, cùng thân phận, thì mới độ được dễ
dàng. Nếu với chúng sinh giống nhau, chẳng có giới hạn, không phân biệt đó đây,
như vậy thì bạn với chúng sinh thành một thể, lúc đó thuyết pháp cho chúng sinh
nghe, thì hiệu quả trăm phần trăm.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát : bốn pháp nhiếp, để nhiếp hóa chúng sinh. Ở trên là môn giải thoát của mười vị Biến Tịnh Thiên Vương. Dưới đây là những bài kệ của các vị đó.
Bấy giờ, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng cõi trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh mà nói ra bài kệ.
Tức là lúc đó, vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, trời Tam Thiền thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp hết tất cả Thiên chúng trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Ở trong ba cõi trời này, lại phân ra vô lượng vô biên trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Vị Thiên Vương này, nói ra mười bài kệ để tán thán công đức của Phật.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát : bốn pháp nhiếp, để nhiếp hóa chúng sinh. Ở trên là môn giải thoát của mười vị Biến Tịnh Thiên Vương. Dưới đây là những bài kệ của các vị đó.
Bấy giờ, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng cõi trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh mà nói ra bài kệ.
Tức là lúc đó, vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, trời Tam Thiền thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp hết tất cả Thiên chúng trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Ở trong ba cõi trời này, lại phân ra vô lượng vô biên trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Vị Thiên Vương này, nói ra mười bài kệ để tán thán công đức của Phật.
Trời Tam Thiền gọi
là Ly Hỷ Diệu Lạc, ở cõi trời này chẳng cần hoan hỷ cảnh giới nữa, cảnh giới
thuần túy rất vi diệu khoái lạc. Trời Tam Thiền này có ba cõi trời :
1. Trời Thiểu Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này đã thoát khỏi tâm vui mừng, đắc được khoái lạc tịch tĩnh vi diệu. Sự khoái lạc này là từ nội tâm sinh ra, chẳng phải từ ngoại cảnh mà có.
2. Trời Vô Lượng Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này, thân tâm đắc được khinh an như hư không, là cõi trời khoái lạc nhất (người tu đạo không nên ở cõi trời này, vì quá khoái lạc mà quên tu hành, rất dễ đọa lạc).
3. Trời Biến Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này, đắc được thuần chân thanh tịnh diệu lạc, tiêu diệt tất cả tâm hoan hỷ.
Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Nói cảnh giới Phật khó nghĩ bàn
Khiến chúng đồng về biển giải thoát.
‘’ Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại.’’ Chỉ có Phật mới biết rõ và hiểu được pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thấy rõ được tất cả các pháp đều viên dung vô ngại. Phật không những tự mình thấy rõ được đạo lý này mà cũng dạy chúng sinh thấy rõ được đạo lý này.
‘’ Hiện khắp mười phương vô lượng cõi.’’ Phật hiện khắp hết cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hóa chúng sinh. Phàm phu chúng ta cho rằng, Phật chỉ hiện ở thế giới Ta Bà, để giáo hóa chúng sinh, thực ra mười phương thế giới, đồng thời đều có Phật xuất hiện ra đời, cho nên nói hiện khắp mười phương vô lượng cõi.
‘’ Nói cảnh giới Phật không nghĩ bàn.’’ Phật ở trong vô lượng vô biên cõi Phật, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu được, cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn, là diệu không thể nói. Tóm lại, tâm phàm phu nghĩ không đến, miệng nói không ra cảnh giới.
‘’ Khiến chúng đồng về biển giải thoát.’’ Khiến cho chúng sinh đồng đắc được giác ngộ, Phật đem chân lý của mình đã giác ngộ để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ đắc được biển giải thoát này.
Thế gian Như Lai không chỗ nương
Ví như hình bóng hiện các cõi
Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi
Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.
‘’ Thế gian Như Lai không chỗ nương.’’ Phật ở trong thế gian, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có quốc độ giáo hóa nhất định. Tại sao ? Vì tất cả cõi nước trong mười phương, đều là nơi Ðức Phật giáo hóa. Trong Kinh Phạm Võng nói : ‘’ Ta đến thế giới Ta Bà này giáo hóa chúng sinh đã tám ngàn lần.’’
‘’ Ví như hình bóng hiện các cõi.’’ Tại sao nói Phật chẳng có chỗ nương ? Chẳng có cõi nước nhất định ? Vì thân của Phật giống như ánh sáng, hình bóng, hiện khắp trong tất cả cõi nước, tất cả thế giới.
‘’ Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi.’’ Bổn thể của pháp tánh rốt ráo chẳng sinh diệt. Trong Kinh Bát Nhã nói : ‘’ Không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt,’’ tức là đạo lý các pháp không tướng.
‘’ Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.’’ Ðây là đạo lý thấy được của vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương, vị này còn nhập vào trong môn giải thoát này, và tinh tấn tu hành pháp môn các pháp không tướng này.
Vô lượng biển kiếp tu phương tiện
Tịnh các cõi nước khắp mười phương
Pháp giới như như thường bất động
Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.
‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’ Phật tu hành công đức thành Phật, chẳng phải trong một đời một kiếp mà thành tựu được, mà là trong vô lượng đại kiếp tu nhiều pháp môn mà thành tựu. Do đó :
"Ba Tăng Kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt".
Trải qua thời gian lâu dài, tu lục độ vạn hạnh, nhiều phương tiện pháp môn, không thể nhẫn cũng nhẫn được, không thể xả bỏ cũng xả bỏ được, không thể nhường cũng nhường được, đó mới là tu hành. Nếu người nhẫn được, bạn nhẫn được, người xả được bạn xả được, người nhường được bạn nhường được, vậy đó chẳng phải người tu đạo, mà là một nhóm người.
Những gì không nhẫn được cần phải nhẫn ? Giống như lúc Ðức Phật tại nhân địa tu hạnh nhẫn nhục. Lúc đó tên gọi là Nhẫn Nhục Tiên Ông, tu hành trong núi Tuyết. Một ngày nọ vua Ca Lợi dẫn cung phi mỹ nữ đi vào trong núi săn bắn. Cung phi mỹ nữ phát hiện có một người ngồi dưới gốc cây, mới đến hỏi Tiên Ông hoàn cảnh tu hành. Lúc đó Tiên Ông thuyết pháp cho bọn cung phi mỹ nữ. Vua Ca Lợi phát hiện bọn cung nữ đi đâu mất mới đi tìm, thấy bọn cung nữ ngồi xung quanh Tiên Ông khi nói khi cười. Vua Ca Lợi bèn sinh tâm hoài nghi, nghi rằng vị Tiên Ông này động lòng phàm tục mới đến hỏi tội, nổi giận hỏi Tiên Ông rằng : ‘’ Nhà ngươi tu hạnh gì ? ‘’
- Tiên Ông đáp : ‘’ Tu hạnh nhẫn nhục.’’
- Vua nói : ‘’ Ta sẽ chặt tứ chi của nhà ngươi ra, xem nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’ Nói xong bèn chặt tứ chi của Tiên Ông, rồi hỏi : ‘’ Nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’
- Tiên Ông nói : ‘’ Nhẫn được.’’
- Vua nói : ‘’ Có gì để chứng minh nhà ngươi nhẫn được ? ‘’
- Tiên Ông đáp : ‘’ Nếu tôi không nhẫn được thì tứ chi đã chặt ra không thể khôi phục lại. Nếu thật sự tôi nhẫn được thì tứ chi của tôi sẽ khôi phục lại như cũ.’’ Vừa nói xong thì tứ chi khôi phục lại bình thường, đó là câu chuyện chứng minh được sự nhẫn nhục.
1. Trời Thiểu Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này đã thoát khỏi tâm vui mừng, đắc được khoái lạc tịch tĩnh vi diệu. Sự khoái lạc này là từ nội tâm sinh ra, chẳng phải từ ngoại cảnh mà có.
2. Trời Vô Lượng Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này, thân tâm đắc được khinh an như hư không, là cõi trời khoái lạc nhất (người tu đạo không nên ở cõi trời này, vì quá khoái lạc mà quên tu hành, rất dễ đọa lạc).
3. Trời Biến Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này, đắc được thuần chân thanh tịnh diệu lạc, tiêu diệt tất cả tâm hoan hỷ.
Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Nói cảnh giới Phật khó nghĩ bàn
Khiến chúng đồng về biển giải thoát.
‘’ Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại.’’ Chỉ có Phật mới biết rõ và hiểu được pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thấy rõ được tất cả các pháp đều viên dung vô ngại. Phật không những tự mình thấy rõ được đạo lý này mà cũng dạy chúng sinh thấy rõ được đạo lý này.
‘’ Hiện khắp mười phương vô lượng cõi.’’ Phật hiện khắp hết cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hóa chúng sinh. Phàm phu chúng ta cho rằng, Phật chỉ hiện ở thế giới Ta Bà, để giáo hóa chúng sinh, thực ra mười phương thế giới, đồng thời đều có Phật xuất hiện ra đời, cho nên nói hiện khắp mười phương vô lượng cõi.
‘’ Nói cảnh giới Phật không nghĩ bàn.’’ Phật ở trong vô lượng vô biên cõi Phật, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu được, cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn, là diệu không thể nói. Tóm lại, tâm phàm phu nghĩ không đến, miệng nói không ra cảnh giới.
‘’ Khiến chúng đồng về biển giải thoát.’’ Khiến cho chúng sinh đồng đắc được giác ngộ, Phật đem chân lý của mình đã giác ngộ để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ đắc được biển giải thoát này.
Thế gian Như Lai không chỗ nương
Ví như hình bóng hiện các cõi
Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi
Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.
‘’ Thế gian Như Lai không chỗ nương.’’ Phật ở trong thế gian, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có quốc độ giáo hóa nhất định. Tại sao ? Vì tất cả cõi nước trong mười phương, đều là nơi Ðức Phật giáo hóa. Trong Kinh Phạm Võng nói : ‘’ Ta đến thế giới Ta Bà này giáo hóa chúng sinh đã tám ngàn lần.’’
‘’ Ví như hình bóng hiện các cõi.’’ Tại sao nói Phật chẳng có chỗ nương ? Chẳng có cõi nước nhất định ? Vì thân của Phật giống như ánh sáng, hình bóng, hiện khắp trong tất cả cõi nước, tất cả thế giới.
‘’ Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi.’’ Bổn thể của pháp tánh rốt ráo chẳng sinh diệt. Trong Kinh Bát Nhã nói : ‘’ Không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt,’’ tức là đạo lý các pháp không tướng.
‘’ Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.’’ Ðây là đạo lý thấy được của vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương, vị này còn nhập vào trong môn giải thoát này, và tinh tấn tu hành pháp môn các pháp không tướng này.
Vô lượng biển kiếp tu phương tiện
Tịnh các cõi nước khắp mười phương
Pháp giới như như thường bất động
Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.
‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’ Phật tu hành công đức thành Phật, chẳng phải trong một đời một kiếp mà thành tựu được, mà là trong vô lượng đại kiếp tu nhiều pháp môn mà thành tựu. Do đó :
"Ba Tăng Kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt".
Trải qua thời gian lâu dài, tu lục độ vạn hạnh, nhiều phương tiện pháp môn, không thể nhẫn cũng nhẫn được, không thể xả bỏ cũng xả bỏ được, không thể nhường cũng nhường được, đó mới là tu hành. Nếu người nhẫn được, bạn nhẫn được, người xả được bạn xả được, người nhường được bạn nhường được, vậy đó chẳng phải người tu đạo, mà là một nhóm người.
Những gì không nhẫn được cần phải nhẫn ? Giống như lúc Ðức Phật tại nhân địa tu hạnh nhẫn nhục. Lúc đó tên gọi là Nhẫn Nhục Tiên Ông, tu hành trong núi Tuyết. Một ngày nọ vua Ca Lợi dẫn cung phi mỹ nữ đi vào trong núi săn bắn. Cung phi mỹ nữ phát hiện có một người ngồi dưới gốc cây, mới đến hỏi Tiên Ông hoàn cảnh tu hành. Lúc đó Tiên Ông thuyết pháp cho bọn cung phi mỹ nữ. Vua Ca Lợi phát hiện bọn cung nữ đi đâu mất mới đi tìm, thấy bọn cung nữ ngồi xung quanh Tiên Ông khi nói khi cười. Vua Ca Lợi bèn sinh tâm hoài nghi, nghi rằng vị Tiên Ông này động lòng phàm tục mới đến hỏi tội, nổi giận hỏi Tiên Ông rằng : ‘’ Nhà ngươi tu hạnh gì ? ‘’
- Tiên Ông đáp : ‘’ Tu hạnh nhẫn nhục.’’
- Vua nói : ‘’ Ta sẽ chặt tứ chi của nhà ngươi ra, xem nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’ Nói xong bèn chặt tứ chi của Tiên Ông, rồi hỏi : ‘’ Nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’
- Tiên Ông nói : ‘’ Nhẫn được.’’
- Vua nói : ‘’ Có gì để chứng minh nhà ngươi nhẫn được ? ‘’
- Tiên Ông đáp : ‘’ Nếu tôi không nhẫn được thì tứ chi đã chặt ra không thể khôi phục lại. Nếu thật sự tôi nhẫn được thì tứ chi của tôi sẽ khôi phục lại như cũ.’’ Vừa nói xong thì tứ chi khôi phục lại bình thường, đó là câu chuyện chứng minh được sự nhẫn nhục.
Những gì không xả
được cần phải xả ? Lúc đức Phật tu hành tại nhân đîa, thì lóc thịt bố thí cho
chim ưng, xả thân cứu hổ đói. Một ngày nọ chim ưng hung ác rượt bắt chim cáp.
Chim cáp kinh sợ bay đến chỗ đức Phật, cầu Phật bảo hộ. Chim ưng bay đến nói với
đức Phật rằng : ‘’ Ông là người tu đạo, đều có tâm từ bi, ông cứu sinh mạng chim
cáp, nhưng tôi phải chết đói, làm thế nào đây ? ‘’ Do đó Phật bèn cắt thịt thân
mình để cho chim ưng, cắt hết thịt mới ngừng. Ðó là hành Bồ Tát đạo.
Một ngày nọ đức Phật tu hành ở trong núi Tuyết, trời tuyết rơi quá nhiều, khắp nơi đều biến thành màu trắng, động vật chẳng có thức ăn, khổ sở khó tả được. Ðức Phật thấy một con cọp mẹ dẫn cọp con đi tìm thức ăn. Cọp mẹ đói quá thể lực kiệt sức, cọp con kiệt sức cũng đi không muốn nổi. Ðức Phật thấy thảm trạng như vậy bèn sinh tâm từ bi : ‘’ Ta xả thân của ta có thể cứu sống hai sinh mạng này.’’ Do đó hy sinh thân mạng cứu sống cọp mẹ cọp con. Ðó là tinh thần thật là vĩ đại ! Chúng ta là người tu đạo ít nhất phải có tâm từ bi, ban bố cho chúng sinh phương tiện. Do đó người xuất gia, lấy từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm gốc, tiến thêm bước nữa phải đạt được sự hy sinh tiểu ngã để hoàn thành đại ngã.
Một ngày nọ đức Phật tu hành ở trong núi Tuyết, trời tuyết rơi quá nhiều, khắp nơi đều biến thành màu trắng, động vật chẳng có thức ăn, khổ sở khó tả được. Ðức Phật thấy một con cọp mẹ dẫn cọp con đi tìm thức ăn. Cọp mẹ đói quá thể lực kiệt sức, cọp con kiệt sức cũng đi không muốn nổi. Ðức Phật thấy thảm trạng như vậy bèn sinh tâm từ bi : ‘’ Ta xả thân của ta có thể cứu sống hai sinh mạng này.’’ Do đó hy sinh thân mạng cứu sống cọp mẹ cọp con. Ðó là tinh thần thật là vĩ đại ! Chúng ta là người tu đạo ít nhất phải có tâm từ bi, ban bố cho chúng sinh phương tiện. Do đó người xuất gia, lấy từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm gốc, tiến thêm bước nữa phải đạt được sự hy sinh tiểu ngã để hoàn thành đại ngã.
Phải nhường những
gì không thể nhường ? Ðức Phật trong quá khứ, làm thái tử nước Diệp Ba tên là Tu
Ðại Noa. Thái tử rộng tu bố thí, sau đó bị vua cha Thấp Ba đuổi ra khỏi hoàng
cung. Thái tử dẫn vợ là Man Viên và hai con trai và gái vào rừng sâu sinh sống.
Thái tử cõng con trai, vợ bồng con gái trải qua nhiều ngày mới đến rừng sâu núi
thẳm làm am mà ở.
Lúc đó, có vị Bà La
Môn từ xa đến xin hai đứa con, thái tử đều bố thí. Trời Ðế Thích biết cũng hiện
ra thân khác đến xin người vợ, thái tử cũng bố thí, nhưng gửi chỗ thái tử, thái
tử thấy lạ bèn hỏi : ‘’ Tại sao ? ‘’ Trời Ðế Thích biết tâm thái tử kiên cố, vì
bố thí mà hy sinh tất cả, mới hiện ra thân trời nói với thái tử : ‘’ Tôi là
Thích Ðề Hoàn Nhân, đặc biệt đến đây để thử tâm của Ngài phải chăng trước sau
như một ? Nay mới thấy, quyết thật như thế, đáng kính đáng phục ! ‘’
Việc không thể nhường mà nhường được, Ðức Phật cũng làm được. Do đó :
"Trong thì xả bỏ đầu mắt tủy não,
Ngoài thì xả bỏ đất nước vợ con".
Sự khổ hạnh khó làm mà làm được, đó là pháp phương tiện, cho nên nói :‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’
‘’ Tịnh khắp cõi nước trong mười phương.’’ Ðức Phật dùng trí huệ quang minh để chiếu soi, để thanh tịnh, để trang nghiêm cõi nước chư Phật trong mười phương. Do đó, quang minh của Phật chiếu khắp tận hư không khắp pháp giới. Tóm lại, không có chỗ nào mà chẳng thanh tịnh, chẳng chỗ nào mà chẳng trang nghiêm.
‘’ Pháp giới như như thường bất động.’’ Pháp giới chẳng có biến đổi, như như bất động.
‘’ Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.’’ Ðạo lý này vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương thấy được.
Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.
‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.
Việc không thể nhường mà nhường được, Ðức Phật cũng làm được. Do đó :
"Trong thì xả bỏ đầu mắt tủy não,
Ngoài thì xả bỏ đất nước vợ con".
Sự khổ hạnh khó làm mà làm được, đó là pháp phương tiện, cho nên nói :‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’
‘’ Tịnh khắp cõi nước trong mười phương.’’ Ðức Phật dùng trí huệ quang minh để chiếu soi, để thanh tịnh, để trang nghiêm cõi nước chư Phật trong mười phương. Do đó, quang minh của Phật chiếu khắp tận hư không khắp pháp giới. Tóm lại, không có chỗ nào mà chẳng thanh tịnh, chẳng chỗ nào mà chẳng trang nghiêm.
‘’ Pháp giới như như thường bất động.’’ Pháp giới chẳng có biến đổi, như như bất động.
‘’ Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.’’ Ðạo lý này vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương thấy được.
Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.
‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.
Che
đậy là gì ? Tức là bị một vật che đậy, chẳng được giải thoát. Giống như La Hầu
La con của Ðức Phật. La Hầu La dịch là "che đậy". Vì nghiệp chướng quá nặng, ở
trong thai mẹ sáu năm mới sinh ra, tại sao ? Vì trong quá khứ, La Hầu La là một
đứa trẻ nghịch ngợm. Một ngày nọ, thấy một con chuột chạy vào hang động, La Hầu
La lấy đá lấp hang động sáu ngày, tạo ra ác nghiệp này, do đó mới thọ quả báo
che đậy ở trong thai mẹ sáu năm.
Có thuyết nói rằng : Ðức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Ðà La. Kết hôn rồi, Gia Du Ðà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Ðức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Ðà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Ðà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Ðà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.
Có thuyết nói rằng : Ðức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Ðà La. Kết hôn rồi, Gia Du Ðà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Ðức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Ðà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Ðà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Ðà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.
‘’
Mù tối thường ở trong sinh tử.’’ Người mù tối thì vừa điếc vừa câm. Nghĩa là
sinh thì hồ đồ mà đến, chết thì hồ đồ mà đi, luôn luôn ở trong biển sinh tử,
vĩnh viễn không được giải thoát.
‘’
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh.’’ Vì người mù tối, không biết đạo lý sinh tử,
luôn luôn sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Cho nên Phật từ bi thương xót
chúng sinh, hướng dẫn chỉ dạy họ tu đạo thanh tịnh. Ðạo thanh tịnh là gì ? Tức
là chẳng có tư tưởng ô nhiễm. Tóm lại, tức là chẳng có quan hệ tình dục nam nữ.
Ai ai cũng đoạn dục khử ái, thì thức thứ tám tuy nhiên có hạt giống, nhưng chẳng
có duyên với cha mẹ thì cũng chẳng sinh ra. Cho nên đoạn dục khử ái, là phương
pháp cơ bản giải quyết vấn đề sinh tử, chẳng có gì là huyền diệu. Ai ai cũng
biết nhưng chẳng làm được. Tại sao ? Vì ngu si che đậy. Vua Ðường Thái Tông có
nói câu này : ‘’ Xuất gia mới là việc đại trượng phu.’’ Xuất gia thật là như
thế, ném vứt năm dục lên chín từng mây, thứ nhất là không tham tài, thứ hai là
không cưới vợ, thứ ba là không cầu danh, thứ tư là không ăn thịt, thứ năm là
không ngủ nhiều. Tại sao phải khổ như thế ? Là vì muốn chấm dứt sinh tử, cầu tự
tại, cầu giải thoát.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này.
Chư Phật tu hành vô thượng đạo
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Thị hiện đủ thứ môn phương tiện
Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.
‘’ Chư Phật tu hành vô thượng đạo.’’ Vô thượng đạo của chư Phật tu hành, là pháp môn cao nhất, sâu nhất và rộng lớn nhất, cho nên nói tu hành vô thượng đạo.
‘’ Tất cả chúng sinh chẳng biết được.’’ Hết thảy tất cả chúng sinh không thể dò biết được vô thượng đạo của Phật tu. Tại sao ? Vì chúng sinh bị vô minh che đậy. Cho nên chẳng có chân chánh trí tuệ, không thể suy lường cảnh giới của Phật, cứu kính là gì ?
‘’ Thị hiện đủ loại môn phương tiện.’’ Vì chúng sinh không cách chi hiểu được cảnh giới của Phật, cho nên Phật từ bi đến chỉ thị cho tất cả chúng sinh, tu vô thượng đạo như thế nào, dùng đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng biết được phương pháp tu vô thượng đạo của Phật.
‘’ Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.’’ Ðạo lý này Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương quán sát thấy rõ, cho nên hiểu được cảnh giới này.
Như Lai thường dùng môn tổng trì
Ví như hạt bụi các cõi nước
Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy
Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường dùng môn tổng trì.’’ Bài kệ này vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được, cho nên mới nói Phật thường dùng pháp môn tổng trì, để giáo hóa chúng sinh. Pháp môn tổng trì này, lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì, rồi lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì nữa. Do đó, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
‘’ Ví như cõi nước số hạt bụi.’’ Môn đại tổng trì này, giống như cõi nước chư Phật, nhiều như số hạt bụi, tóm lại có bất khả thuyết, bất khả thuyết biển cõi nhiều như số hạt bụi.
‘’ Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy.’’ Ðức Phật khai thị giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được môn tổng trì, khắp cùng tất cả cõi nước chư Phật.
‘’ Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Phổ Chiếu Thiên Vương, đắc được pháp môn giải thoát này.
Như lai ra đời rất khó gặp
Vô lượng biển kiếp gặp một lần
Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu
Tự Tại Thiên Vương được môn này.
‘’ Như Lai ra đời rất khó gặp.’’ Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này nói : ‘’ Như Lai xuất hiện ra đời, không dễ gì gặp được.’’ Do đó :
‘’ Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu,
Trăm ngàn ức kiếp khó gặp được,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.’’
Ðây là bài kệ mở đầu Kinh. Bất cứ tụng niệm Kinh gì, thì trước hết đọc bài kệ này. Bài kệ này là pháp khen ngợi, do Võ Tắc Thiên vào đời Ðường trước tác. Tuy trong việc chính trị nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên là người lãng mạn, nhưng trong Phật giáo bà ta là người đại hộ pháp. Nếu chẳng có bà ta đề xướng Phật pháp, thì chúng ta hôm nay sợ chẳng thấy được bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
‘’ Vô lượng biển kiếp gặp một lần.’’ Diệu giác quả vị Phật này, là Phật chí tôn vô thượng, chẳng có gì so sánh cao hơn Ngài được, chẳng có gì so sánh tôn quý hơn Ngài được. Phải trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp mới có thể gặp một lần, chẳng phải thường gặp được.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này.
Chư Phật tu hành vô thượng đạo
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Thị hiện đủ thứ môn phương tiện
Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.
‘’ Chư Phật tu hành vô thượng đạo.’’ Vô thượng đạo của chư Phật tu hành, là pháp môn cao nhất, sâu nhất và rộng lớn nhất, cho nên nói tu hành vô thượng đạo.
‘’ Tất cả chúng sinh chẳng biết được.’’ Hết thảy tất cả chúng sinh không thể dò biết được vô thượng đạo của Phật tu. Tại sao ? Vì chúng sinh bị vô minh che đậy. Cho nên chẳng có chân chánh trí tuệ, không thể suy lường cảnh giới của Phật, cứu kính là gì ?
‘’ Thị hiện đủ loại môn phương tiện.’’ Vì chúng sinh không cách chi hiểu được cảnh giới của Phật, cho nên Phật từ bi đến chỉ thị cho tất cả chúng sinh, tu vô thượng đạo như thế nào, dùng đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng biết được phương pháp tu vô thượng đạo của Phật.
‘’ Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.’’ Ðạo lý này Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương quán sát thấy rõ, cho nên hiểu được cảnh giới này.
Như Lai thường dùng môn tổng trì
Ví như hạt bụi các cõi nước
Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy
Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường dùng môn tổng trì.’’ Bài kệ này vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được, cho nên mới nói Phật thường dùng pháp môn tổng trì, để giáo hóa chúng sinh. Pháp môn tổng trì này, lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì, rồi lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì nữa. Do đó, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
‘’ Ví như cõi nước số hạt bụi.’’ Môn đại tổng trì này, giống như cõi nước chư Phật, nhiều như số hạt bụi, tóm lại có bất khả thuyết, bất khả thuyết biển cõi nhiều như số hạt bụi.
‘’ Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy.’’ Ðức Phật khai thị giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được môn tổng trì, khắp cùng tất cả cõi nước chư Phật.
‘’ Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Phổ Chiếu Thiên Vương, đắc được pháp môn giải thoát này.
Như lai ra đời rất khó gặp
Vô lượng biển kiếp gặp một lần
Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu
Tự Tại Thiên Vương được môn này.
‘’ Như Lai ra đời rất khó gặp.’’ Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này nói : ‘’ Như Lai xuất hiện ra đời, không dễ gì gặp được.’’ Do đó :
‘’ Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu,
Trăm ngàn ức kiếp khó gặp được,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.’’
Ðây là bài kệ mở đầu Kinh. Bất cứ tụng niệm Kinh gì, thì trước hết đọc bài kệ này. Bài kệ này là pháp khen ngợi, do Võ Tắc Thiên vào đời Ðường trước tác. Tuy trong việc chính trị nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên là người lãng mạn, nhưng trong Phật giáo bà ta là người đại hộ pháp. Nếu chẳng có bà ta đề xướng Phật pháp, thì chúng ta hôm nay sợ chẳng thấy được bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
‘’ Vô lượng biển kiếp gặp một lần.’’ Diệu giác quả vị Phật này, là Phật chí tôn vô thượng, chẳng có gì so sánh cao hơn Ngài được, chẳng có gì so sánh tôn quý hơn Ngài được. Phải trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp mới có thể gặp một lần, chẳng phải thường gặp được.
‘’
Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu.’’ Mục đích Phật xuất hiện ra đời là : làm
cho tất cả chúng sinh sanh chánh tín, khiến cho tất cả chúng sinh y theo pháp
mười hai nhân duyên tu hành, mới có thể chấm dứt sinh tử, chấm dứt bốn sự khổ
lớn : Sinh, già, bệnh, chết. Tại sao Phật xuất gia ? Vì muốn biết rõ sinh từ đâu
đến ? Chết sẽ đi về đâu ? Cho nên mới đi tầm đạo sáu năm tu khổ hạnh, cũng không
giải quyết được vấn đề sinh tử. Cuối cùng ngồi tĩnh tọa dưới cội bồ đề, mà ngộ
được sinh tử, pháp mười hai nhân duyên. Pháp này tuy nhiên là pháp tiểu thừa,
nhưng là pháp cơ bản sinh tử. Người đại thừa đừng có chấp trước, cho rằng pháp
tiểu thừa là pháp tự liễu hán, có tư tưởng như thế là hoàn toàn sai lầm. Ví như
Bát chánh đạo trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cơ bản của Phật giáo, nếu không
hiểu rõ Bát chánh đạo, không tu Bát chánh đạo, chỉ tu pháp đại thừa, e rằng công
đức chẳng viên mãn.
‘’ Tự Tại Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này, vị Thế Gian Tự Tại Thiên Vương thấy rõ, đắc được môn giải thoát này.
Phật nói pháp tánh đều không tánh
Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn
Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh
Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.
‘’ Phật nói pháp tánh đều không tánh.’’ Vị Quang Diệm Thiên Vương và vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương, thấy cảnh giới của Phật chẳng giống nhau. Vị Thiên Vương này nói :‘’ Phật nói các pháp đều chẳng có tự tánh.’’
‘’ Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn.’’ Các pháp không tánh, vậy chẳng phải là đoạn diệt chăng ? Chẳng phải. Vì nó là thâm sâu, rộng lớn, không nghĩ bàn. Muốn nói thâm sâu, chẳng thể so sánh sự thâm sâu của pháp này. Muốn nói lớn, chẳng thể so sánh sự rộng lớn của pháp này. Không thể dùng tâm ý để suy lường, cũng không thể dùng lời nói để diễn đạt.
‘’ Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh.’’ Phật dùng sức đại trí huệ, sức đại thần thông của Ngài, khiến cho tất cả chúng sinh sanh ra tâm tin chân chánh thanh tịnh, tức cũng là chánh tri chánh kiến, chẳng phải tà tri tà kiến.
‘’ Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.’’ Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương, khéo minh bạch cảnh giới môn giải thoát này.
Ba đời Như Lai công đức đầy
Giáo hóa chúng sinh không nghĩ bàn
Khiến họ tư duy sinh vui mừng
Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.
‘’ Ba đời Như Lai công đức đầy.’’ Ba đời tức là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Phật tu công đức trong ba đời đều viên mãn. Dù phước nhỏ nhất cũng chẳng mất đi, huệ nhỏ nhất cũng phải tu, phước nhỏ huệ nhỏ cũng phải bảo tồn.
‘’ Giáo hóa chúng sinh chẳng nghĩ bàn.’’ Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Tại sao ? Vì phải tài bồi phước huệ của mình, phước huệ chưa đầy thì phải giáo hóa chúng sinh, phước huệ đầy rồi vẫn giáo hóa chúng sinh. Vì phước huệ càng nhiều càng tốt, cho nên xưng đức Phật là Lưỡng Túc Tôn. Nghĩa là phước của Phật đã đầy đủ, huệ của Phật cũng đầy đủ. Công đức của Phật giáo hóa chúng sinh không thể nghĩ bàn.
‘’ Khiến họ tư duy sinh vui mừng.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có phiền não, suy nghĩ Phật pháp đều sinh tâm vui mừng, đó là niềm an lạc không gì sánh bằng, là sự vui nội tâm chẳng có cách chi có thể hình dung được.
‘’ Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.’’ Ðạo lý cảnh giới này vị Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương hiểu rõ.
Chúng sinh chìm trong biển phiền não
Ngu si kiến trược rất đáng sợ
Ðại sư thương sót cứu ra khỏi
Môn này Hóa Tràng quán sát được.
‘’ Chúng sinh chìm trong biển phiền não.’’ Chúng sinh tức là chúng sinh trược, biển phiền não tức là phiền não trược. Chúng sinh chìm đắm trong phiền não trược, phiền não trược giống như biển. Phiền não có tám vạn bốn ngàn thứ. Nói tổng quát không ra ngoài phạm vi ba độc tham sân si, đơn giản hơn nữa tức là vô minh.
Vì chúng sinh trược là vô biên vô tận, cho nên Bồ Tát phát nguyện muốn độ khắp chúng sinh.
‘’ Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’
Ðó là bốn thệ nguyện lớn của Bồ Tát, dùng bốn thệ nguyện này để độ chúng sinh trong đời ác năm trược, là pháp môn hay nhất. Phàm là người học pháp đại thừa, đều phải phát tâm bồ đề như vậy.
‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau. Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Ðều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất.
‘’ Ðại Sư thương sót cứu ra khỏi.’’ Ðại sư tức là đức Phật, lại xưng là Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người). Bậc Thánh nhân đều có tâm thương xót chúng sinh trôi nổi ở trong biển sinh tử, mới chuyển bánh xe pháp, khiến cho chúng sinh ra khỏi đời ác năm trược, sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, hoặc là sinh về Thế Giới Cực Lạc, chân chánh lìa khổ được vui.
‘’ Môn này Hóa Tràng quán sát được.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Hóa Tràng Thiên Vương quán thấy được.
Như Lai thường phóng đại quang minh
Trong mỗi quang có vô lượng Phật
Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh
Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường phóng đại quang minh.’’ Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, thấy mười phương Như Lai thường phóng đại quang minh, đại quang minh tạng này khắp pháp giới.
‘’ Trong mỗi quang có vô lượng Phật.’’ Ở trong mỗi đạo quang minh hiện ra vô lượng vô biên chư Phật. Mỗi vị Phật lại phóng ra trăm ngàn ức quang minh.
‘’ Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh.’’ Những vị Phật này đều ở tại đó giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh nghe pháp tu hành, đắc đạo thành Phật. Ðó là trách nhiệm của mỗi vị Phật.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương vào được. Ở cõi trời này có mười một vị Thiên Vương.
‘’ Tự Tại Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này, vị Thế Gian Tự Tại Thiên Vương thấy rõ, đắc được môn giải thoát này.
Phật nói pháp tánh đều không tánh
Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn
Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh
Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.
‘’ Phật nói pháp tánh đều không tánh.’’ Vị Quang Diệm Thiên Vương và vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương, thấy cảnh giới của Phật chẳng giống nhau. Vị Thiên Vương này nói :‘’ Phật nói các pháp đều chẳng có tự tánh.’’
‘’ Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn.’’ Các pháp không tánh, vậy chẳng phải là đoạn diệt chăng ? Chẳng phải. Vì nó là thâm sâu, rộng lớn, không nghĩ bàn. Muốn nói thâm sâu, chẳng thể so sánh sự thâm sâu của pháp này. Muốn nói lớn, chẳng thể so sánh sự rộng lớn của pháp này. Không thể dùng tâm ý để suy lường, cũng không thể dùng lời nói để diễn đạt.
‘’ Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh.’’ Phật dùng sức đại trí huệ, sức đại thần thông của Ngài, khiến cho tất cả chúng sinh sanh ra tâm tin chân chánh thanh tịnh, tức cũng là chánh tri chánh kiến, chẳng phải tà tri tà kiến.
‘’ Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.’’ Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương, khéo minh bạch cảnh giới môn giải thoát này.
Ba đời Như Lai công đức đầy
Giáo hóa chúng sinh không nghĩ bàn
Khiến họ tư duy sinh vui mừng
Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.
‘’ Ba đời Như Lai công đức đầy.’’ Ba đời tức là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Phật tu công đức trong ba đời đều viên mãn. Dù phước nhỏ nhất cũng chẳng mất đi, huệ nhỏ nhất cũng phải tu, phước nhỏ huệ nhỏ cũng phải bảo tồn.
‘’ Giáo hóa chúng sinh chẳng nghĩ bàn.’’ Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Tại sao ? Vì phải tài bồi phước huệ của mình, phước huệ chưa đầy thì phải giáo hóa chúng sinh, phước huệ đầy rồi vẫn giáo hóa chúng sinh. Vì phước huệ càng nhiều càng tốt, cho nên xưng đức Phật là Lưỡng Túc Tôn. Nghĩa là phước của Phật đã đầy đủ, huệ của Phật cũng đầy đủ. Công đức của Phật giáo hóa chúng sinh không thể nghĩ bàn.
‘’ Khiến họ tư duy sinh vui mừng.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có phiền não, suy nghĩ Phật pháp đều sinh tâm vui mừng, đó là niềm an lạc không gì sánh bằng, là sự vui nội tâm chẳng có cách chi có thể hình dung được.
‘’ Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.’’ Ðạo lý cảnh giới này vị Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương hiểu rõ.
Chúng sinh chìm trong biển phiền não
Ngu si kiến trược rất đáng sợ
Ðại sư thương sót cứu ra khỏi
Môn này Hóa Tràng quán sát được.
‘’ Chúng sinh chìm trong biển phiền não.’’ Chúng sinh tức là chúng sinh trược, biển phiền não tức là phiền não trược. Chúng sinh chìm đắm trong phiền não trược, phiền não trược giống như biển. Phiền não có tám vạn bốn ngàn thứ. Nói tổng quát không ra ngoài phạm vi ba độc tham sân si, đơn giản hơn nữa tức là vô minh.
Vì chúng sinh trược là vô biên vô tận, cho nên Bồ Tát phát nguyện muốn độ khắp chúng sinh.
‘’ Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’
Ðó là bốn thệ nguyện lớn của Bồ Tát, dùng bốn thệ nguyện này để độ chúng sinh trong đời ác năm trược, là pháp môn hay nhất. Phàm là người học pháp đại thừa, đều phải phát tâm bồ đề như vậy.
‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau. Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Ðều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất.
‘’ Ðại Sư thương sót cứu ra khỏi.’’ Ðại sư tức là đức Phật, lại xưng là Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người). Bậc Thánh nhân đều có tâm thương xót chúng sinh trôi nổi ở trong biển sinh tử, mới chuyển bánh xe pháp, khiến cho chúng sinh ra khỏi đời ác năm trược, sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, hoặc là sinh về Thế Giới Cực Lạc, chân chánh lìa khổ được vui.
‘’ Môn này Hóa Tràng quán sát được.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Hóa Tràng Thiên Vương quán thấy được.
Như Lai thường phóng đại quang minh
Trong mỗi quang có vô lượng Phật
Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh
Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.
‘’ Như Lai thường phóng đại quang minh.’’ Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, thấy mười phương Như Lai thường phóng đại quang minh, đại quang minh tạng này khắp pháp giới.
‘’ Trong mỗi quang có vô lượng Phật.’’ Ở trong mỗi đạo quang minh hiện ra vô lượng vô biên chư Phật. Mỗi vị Phật lại phóng ra trăm ngàn ức quang minh.
‘’ Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh.’’ Những vị Phật này đều ở tại đó giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh nghe pháp tu hành, đắc đạo thành Phật. Ðó là trách nhiệm của mỗi vị Phật.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương vào được. Ở cõi trời này có mười một vị Thiên Vương.
Trên đây là những bài kệ của mười một vị Thiên Vương cõi
Tam Thiền Trời Biến Tịnh, thuộc về sắc giới, nói ra để tán thán công đức của
Phật. Dưới đây bắt đầu giảng về những bài kệ của Quang Âm Thiên Vương thuộc về
trời Nhị Thiền.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.5/4/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment