Sunday 28 October 2012

Vai Trò Đạo Đức Tôn Giáo Theo Quan Điểm Của B. Ambedkar.
 
Cái tên Babasaheb Ambedkar đã trở nên quen thuộc với nhiều Phật tử. Việc ông cải đạo sang Phật giáo, việc ông dẫn dắt phong trào đấu tranh cho những người Dalit, đã trở thành một huyền thoại. Sự ảnh hưởng của B. AmbedkarẤn thực sự rất lớn, không chỉ ông cha đẻ của hiến pháp Ấn, còn bởi phong trao do ông khởi xướng vẫn còn đang được tiếp nối sự tác động sâu sắc vào hội Ấn. Đối với các Phật tửẤn, ông một bậc thầy lớn, một vị Bồ-tát đã làm hồi sinh lại những giá trị Phật giáođất nước này.
do sao ông theo Phật giáo đã được nhiều người nói đến. thể tóm tắt ngắn gọn rằng, ông theo Phật giáo bởi ông thấy Phật giáo thoả mãn được những đòi hỏi của ông, thể giúp ông trong sứ mệnh đấu tranh cho những người Dalit. Hẳn chúng ta đã biết rằng, trước khi theo Phật giáo, B. Ambedkar một người Hindu. sau khi từ bỏ Hindu giáo với phát ngôn “Tôi sinh ra đã một người Hindu, nhưng sẽ không chết như một người Hindu” ông đã ba thập niên tìm kiếm cho mình một tôn giáo mới. Trong thời gian đó, B. Ambedkar đã tìm hiểu so sanh nhiều tôn giáo khác nhau, mục đích tìm cho mình một tôn giáo tốt nhất, phù hợp nhất. Xin đọc một phát biểu so sánh tôn giáo của B. Ambedkar, qua đó cho thấy một phần sao ông đã chọn Phật giáo:
“Điểm đầu tiên tách đức Phật ra khỏi những người còn lại chính sự xả kỷ của ngài. Khắp Thánh kinh, Jesus khẳng định rằng ngài con của Thiên chúa rằng những ai mong được vào nước Chúa, nếu không xem ngài con Thiên chúa, sẽ không thể vào. Mohammad bước thêm một bước. Giống như chùa Jesus, ngài cũng tuyên bố rằng ngài thiên sứ của Chúa trờitrên trái đất. Nhưng ngài còn khẳng định rằng ngài vị thiên sứ cuối cùng. Trên sở đó, ngài tuyên bố rằng những ai muốn cứu rỗi không chỉ chấp nhận rằng ngài thiên sứ của Chúa trời cũng cần chấp nhận rằng ngài thiên sứ cuối cùng. Krishna bước thêm một bước vượt qua cả Jesus Mohammad. Ngài không thoả mãn với việc chỉ con của Thiên chúa hay thiên sứ của Thiên chúa; ngài không bằng lòng thiên sứ cuối cùng của Thiên chúa. Ngài thậm chí không thoả mãn với việc gọi mình một vị Thiên chúa. Ngài tuyên bố rằng ngài Parameshwa, hay như những tín đồ của ngài tả ngài Devadhideva, Thần của các Thần. Đức Phật không bao giờ nhận những địa vị như vậy vào mình. Ngài sinh làm con của một con người, hài lòng giữ địa vị một con người thuyết giảng giáo pháp của mình như một con người. Ngài không bao giờ tuyên bố bất cứ nguồn gốc siêu nhiên hay năng lực siêu nhiên nào, ngài cũng không thực hiện những phép mầu để chứng minh những quyền năng siêu nhiên của mình. Đức Phật thực hiện một sự phân biệt ràng giữa một Margadata (người thầy) một Mokshadata (người cứu rỗi). Jesus, Mohammad Krishna khẳng định vai trò Mokshadata của họ. Đức Phật hài lòng với việc đóng vai trò của một Margadata.”[1]
thể thấy rằng việc B. Ambedkar chọn theo Phật giáo không phải việc chọn lựa một con đường tâm linh thông thường với mong muốn nhận lấy sự cứu rỗi từ một đấng quyền năng siêu nhiên nào đó. Tôn giáo theo cái nhìn của ông, không chỉ để thoả mãn những nhu cầu tâm linh còn thể giúp hội ổn định phát triển, nếu đó một tôn giáo đúng đắn. ngược lại, tôn giáo cũng thể trói buộc con người, làm rối loạn ngăn cản sự phát triển hội. B. Ambedkar đã phát biểu:
“Trong khi tôi kết tội một tôn giáo giáo điều, đừng hiểu tôi quan điểm rằng tôn giáo không cần thiết. Trái lại, tôi đồng ý với Burke khi ông nói tôn giáo đúng đắn nền tảng của hội, sở trên đó tất cả những chính quyền dân sự đích thực đặt nền tảng.’ vậy, khi tôi nhấn mạnh rằng các luật lệ sống cổ xưa cần phải được bãi bỏ, tôi mong muốn rằng vị trí của sẽ được nắm giữ bởi một tôn giáo nguyên tắc, chỉ điều đó thể tuyên bố một tôn giáo đúng đắn.”[2]
Một tôn giáo nguyên tắc, theo cái nhìn của B. Ambedkar, tôn giáo những luật lệ đạo đức chúng thể giúp duy trì sự ổn định hội. một tôn giáo như thế thực sự cần thiết. Nhưng trước hết, thế nào tôn giáo? B. Ambedkar viết:
Tôn giáo ? Tại sao cần thiết? Trước hết chúng ta hãy cố gắng hiểu. Nhiều người đã cố gắng định nghĩa tôn giáo. Nhưng trong tất cả những định nghĩa này, chỉ một định nghĩa ý nghĩa nhất thích hợp đối với tất cả: “Điều kiểm soát con người tôn giáo. Đây định nghĩa đích thực về tôn giáo. Nhưng đây không phải định nghĩa của tôi. Chính lãnh đạo lỗi lạc của những người Hindu Sanatani, ông Tilak, tác giả của định nghĩa này. vậy chớ ai vội kết tội tôi đã suy diễn về định nghĩa tôn giáo. Tuy nhiên, tôi không chấp nhận chỉ mục đích tranh luận. Tôi chấp nhận như một nguyên tắc. Tôn giáo nghĩa nhưng luật lệ được đặt ra cho việc duy trì hội. Tôi cũng khái niệm như vậy về tôn giáo. Mặc định nghĩa này cho thấy hợp , lại không hiển lộ hay làm sáng tỏ bản chất của các luật lệ kiểm soát hội. Câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ về những nên bản chất của các luật lệ kiểm soát hội. Câu hỏi này quan trọng hơn câu hỏi về định nghĩa. Bởi câu hỏi tôn giáo nào cần thiết cho con người, không tuỳ thuộc vào định nghĩa của tuỳ thuộc vào động bản chất của các luật lệ ràng buộc kiểm soát hội. Trong khi quyết định câu hỏi này, câu hỏi khác nảy sinh. Những nên mối liên kết giữa con người hội.”[3]
Mối liên kết giữa con người hội luật đạo đức. B. Ambedkar viết:
“Xã hội phải cả luật đạo đức để giữ lấy . Không hai điều này hội chắc chắc bị phân mảnh. Trong tất cả các hội luật đóng vai trò rất nhỏ. chỉ để giữ thiểu số vừa với phạm vi kỷ luật hội. Số đông bị bỏ lại phải bị bỏ lại để duy trì đời sống hội của bằng những quy định giải pháp đạo đức. Tôngiáo ở trong ý nghĩa của đạo đức, do đó, phải duy trì nguyên tắc điều khiển trong mỗi hội.”[4]
Theo cái nhìn của Ambedkar, việc xem xét bản chất của các luật lệ đạo đức tôn giáo đặt ra rất quan trọng. Vậy các luật lệ tôn giáo đặt ra cần được đặt trên nền tảng nào? B. Ambedkar cho rằng một tôn giáo đúng đắn” phải được đặt sở trên ba nguyên tắc: phù hợp với khoa học, tôn trọng những giá trị phổ quát của loài người, không khuyến khích nghèo khó. các điều luật tôn giáo đặt ra phải được xem xét trong cái khung này:
1. “Tôn giáo đó phải phù hợp với khoa học. Tôn giáo bị trói buộc để đánh mất đi sự kính trọng của , thế, trở thành đề tài nhạo báng thì theo đó không chỉ đánh mất đi sức mạnh của như nguyên tắc kiểm soát đời sống thể tan theo dòng thời gian ngã sụp nếu không thích hợp với khoa học. Nói cách khác, tôn giáo nếu phải đóng chức năng, thì phải phù hợp với trí, một tên gọi khác của khoa học.
2. “Tôn giáo đó, một bộ luật đạo đức hội, phải thừa nhận những nguyên tắc căn bản tự do, bình đẳng tình anh em. Nếu một tôn giáo không thừa nhận ba nguyên tắc căn bản của đời sống hội này, sẽ bị kết tội.
3. “Tôn giáo đó phải không thánh hoá sự nghèo khó. Việc từ bỏ giàu của những người thì thể một thái độ cao quý. Nhưng nghèo khó thì không bao giờ thể. Tuyên bố nghèo khó cao quý xuyên tạc tôn giáo, duy trì tội phạm, làm cho trái đất trở thành một địa ngục sống.”[5]
Người theo tôn giáo một mặt vừa tuân thủ theo những giáo thuyết của tôn giáo của họ, nhưng mặt khác phải biết xem xét bằng lý trí những gì là phù hợp và những gì không phù hợp. Một tín đồ tôn giáo, theo B. Ambedkar, không nên trở thành “nô lệ” của chính tôn giáo mà mình đang theo. Phát biểu dưới đây của B. Ambedkar mang hơi hướng tinh thần “khai phóng” của kinh Kalama, nhưng nó có phần “quyết liệt” hơn:
“Tôi gọi một người, người với ý thức sáng suốt thấy các quyền, trách nhiệm bổn phận của mình, người không trở thành lệ của những hoàn cảnh luôn luôn nhất quyết thay đổi chúng, tôi gọi người ấy tự do. Người không trở thành lệ của các tục lệ, tập quán truyền thống, hay của của những giáo thuyết bởi chúng được truyền lại từ tổ tiên, ngọn lửa trí không bị dập tắt, tôi gọi người ấy một người tự do. Người, không chịu chi phối, không hành động theo lời dạy của kẻ khác, không tin vào bất cứ điều trừ khi được xem xét phê bình dưới ánh sáng của học thuyết nhân quả, một người tự do. Người luôn sẵn sàng bảo vệ các quyền của mình, người không sợ sự phê bình của đám đông, người đủ trí tuệ lòng tự trọng để không trở thành công cụ trong tay của kẻ khác, tôi gọi một người như vậy người tự do. Người, không sống đời mình theo sự điều khiển của kẻ khác, tạo ra mục đích của đời mình theo trí của chính mình quyết định bản thân theo cách ấy, theo cách đời sống của mình nên sống, tôi gọi người ấy một người tự do. Tóm lại, một người tự làm chủ chính mình, tôi gọi người ấy một người tự do.”[6]
Tôi không đi vào trình bày chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp cũng như đống góp của B. Ambedkar đối với Phật giáo. Ở trước chỉ là một trình bày ngắn về những phát biểu của ông về vai trò của đạo đức tôn giáo đối với xã hội. B. Ambedkar là một luật sư, một nhà cải cách xã hội. Việc ông chọn lấy Phật giáo thay thế tôn giáo trước đó của ông, như được thấy qua những gì ông viết, là bởi trước hết ông xem đức Phật là một vị giáo chủ vĩ đại nhất, thứ đến Phật giáo có những giá trị đạo đức có thể giúp ông trong công cuộc cải cách xã hội, và thêm nữa là tinh thần bao dung, khai phóng và bình đẳng của Phật giáo./.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.28/10/2012 ).

No comments:

Post a Comment