MẬT TÔNG TÂY TẠNG.
Định danh
Kim Cang Thừa (Vajrayana) hay Mật
điển (Mantra) là thừa cao nhất trong Phật Giáo. Nhiều người đã trình bày sai lầm
về nguyên ủy Mật Tông. Có người cho là do những Lạt Ma Tây Tạng đặt ra. Có người
cho là do sự biến dạng của Ấn Độ Giáo; lại có giả thuyết về truyền thừa của một
tôn giáo từ Mông Cổ. Sự thật không phải như vậy.
Kim Cang Thừa do đức Thích Ca Mâu
Ni đặt ra. Trong tất cả những giáo lý Phật Giáo, thì Kim Cang Thừa là giáo lý
cao nhất, thù thắng nhất, cũng là khó khăn nhất trong việc tu trì và chứng ngộ.
Muốn hiểu được Kim Cang Thừa, phải trải qua Tiểu Thừa và Đại Thừa. Đức Phật đã
thuyết pháp tùy theo trình độ của đệ tử. Có người đạt đến trình độ cao; có người
ở mức trung bình; lại có người ở mức độ thấp. Thành thử tùy theo căn cơ và trình
độ của mỗi hạng người, đức Phật đã thuyết giảng những giáo lý trình độ khác
nhau. Phải tùy cơ để thâm nhập.
Chẳng hạn dùng giáo lý cao siêu để
giảng dạy cho những người có trí thức bình thường hay thấp, chẳng mang lợi ích
gì vì họ không am hiểu; từ đó sinh chán nản trong tu tập. Với những người coí
trình độ thấp, Ngài giảng giáo lý Tiểu Thừa.Với người có trình độ trung bình,
Ngài giảng giáo lý Đại Thừa. Duy có những người có trình độ rất cao, Ngài mới
giảng Kim Cương Thừa. Khi thuyết giảng cho từng hạng chúng sanh, Ngài cũng hoá
thân những hình tướng khác nhau. Chẳng hạn như khi thuyết giảng về giáo lý Tiểu
thừa, thì Ngài hoá thân Tỳ Kheo. Khi thuyết giảng về giáo lý Đại thừa, Ngài hoá
thân thành Bồ Tát. Còn khi thuyết giảng về Kim Cang Thừa thì Ngài hoá thân thành
Đạo Phật Như Lai hay Thiên Thần Đạt Minh.Kim Cang (Phạn ngữ là Vajra), Tây Tạng
gọi là rDo-rje (Dorje) có nghĩa là: Khả năng chứa đựng cái bản chất của viên kim
cương. Vajra cũng giống như viên kim cương, rất cứng và rất quý.
Khi
con người tu tập theo Kim Cang Thừa của Tantra (Mật Giáo) bản tánh sẽ
"cứng đầu như trâu" (nguyên nghĩa), không thể để cho một sức cám dỗ nào có thể
chi phối. Người tu hành theo Kim Cang Thừa không để cho một xảo thuật hay một
thuật ngữ nào ảnh hưởng được. Vì nếu bị chi phối bởi xảo thuật hay thuật ngữ
khác nào thì vĩnh viễn không hiểu được thế nào là Kim Cang Thừa. Trên nguyên tắc
tu trì của giáo lý nầy, thì sự kiên cố của tâm và bản tánh kim cương chỉ là sự
biểu hiện của một tâm thức lành mạnhtuyệt đối. Con đường đi đến Kim Cang Thừa
phải trải qua nhiều giai đoạn:phải tiến từ giáo lý Tiểu Thừa, tiếp theo theo
giáo lý Đại Thừa; đủ căn bản của hai tông phái nầy sau đó mới tiến đến lãnh vực
của Kim Cang Thừa. Những vị Lạt Ma Tây Tạng thường khuyến cáo những ai vội vàng
đi vào Kim Cang Thừa theo con đưòng tắt. Điều nầy rất nguy hiểm. Đã không hiểu
được ý nghĩa chân chính, lại còn vấp sailầm, vô bổ.
Tu chứng Kim Cang Thừa
Pháp môn tu chứng rất
nhiều, tùy thời để học, tùy nơi để hành, nhưng mục đích vẫn là một: Làm thế nào
để người tu hành đi vào cõi viên mãn, cho nên chỗ "trở về" chỉ là nhất thừa
(Phật Thừa). Hiển Giáo Mật Tông gồm thâu cả tánh và tướng. Nghĩa lý Mật Tông
chia ra làm 5 thời, gọi chung là Tô Đạt Lãm (Kinh). Mật bộ bao gồm ba tạng, gọi
chung là Đà Ra Ni (tức Thần Chú). Người học Mật Tông cho rằng: Những vấn đề
Không, Hữu, Thiền, Luật trái nghịch với nhau, cho nên một số người đã không xem
xét tận đến viên lý, đến cứu cánh.
Thông thường, những tu sĩ Mật Tông
thường lấy 4 loại: Đàn, Ấn, Chư, Tiếng làm phép tắc tu trì, nhưng rồi vẫn chưa
đạt đến chỗ bí áo của Mật Giáo. Lạt Ma Choegyam Trungpa khi đề cập đến vấn đề
nầy đã cho rằng: "Nhiều người đã không thông hiểu thấu đáo Mật Tông cho rằng
trong giáo lý có nhiều điều mâu thuẫn lẫn nhau, "Tánh Tông" và "Tướng Tông"
không ăn khớp nhau. Do đó, đã gây ngộ nhận, thường lên tiếng bài xích. Nguyên
nhân là họ chỉ nhìn một vài khía cạnh của Mật Tông, mờ mịt về tánh Viên Thông.
Con đường đi đến với Mật Tông phải qua từng giai đoạn, không tắt ngang, nếu
không phải là bậc Chánh Trí, hiểu biết về Tiểu Thừa và Đại Thừa, thì khó đi vào
Kim Cang Thừa (Mật Tông)".
Những điểm chính về con đường tu
học đó như sau:
Về Tiểu Thừa: Phải thấu đáo lý
thuyết: vạn pháp do nhân duyên sanh, thấu đáo chân lý chân không, tu hành tự
lợi, chứng quả Tiểu thừa.
Về Đại Thừa: Phải hiểu những điều
căn bản về Pháp Tướng Tôn, Vô Tướng Tôn và Nhất Thừa Chung Giáo. Hiểu được những
khó khăn nầy, cho nên, từ nhiều thế kỷ trước Kim Cang Thừa chỉ được truyền bằng
miệng trong một số tu sĩ hạn chế. Tuy hiểu được "sức cứng" của Kim Cang Thừa
vượt lên trên hết, nhưng không vì thế mà bỏ qua phần căn bản, đi ngay vào chánh
lý, để gánh lấy nguy hại.Nhìn chung giáo lý Đại Thừa và Kim Cang Thừa rất vi
diệu và rộng rãi, trong đó, đièu cơ bản là lòng nguyện độ khắp chúng sanh như
nhận định của Lạt Ma Choegyam Trungpa (Rinpoche) - giáo sư Tạng Học đại học
Nalanda.
Giải lý ngộ nhận Kim Cang Thừa
Tính uyên áo của Kim Cang Thừa khi
truyền bá sang Tây Phương đã bị xuyên tạc; họ thường hiểu giáo lý nầy là con
đường đưa đến giác ngộ một cách đột ngột, nhanh chóng; có học giả khác ở đây thì
nhấn mạnh đến "sự tự do của hành động", "hành động phóng túng" hay thế hơn thế
nữa là "phương thức thăng hoa của xác thịt". Nhiều nhà Tạng Học đã lên tiếng về
sự nhầm lẫn này cho nên hạn chế trong việc "Điểm Đạo" (Abhisheka) tức là Lễ kết
nạp đệ tử và truyền thụ giáo lý.
Trong những bài giảng đầu tiên về
Kim Cang Thừa, họ thường nhấn mạnh "Kim Cang Thừa không thể tồn tại độc lập
ngoài các tông phái Phật Giáo". Tại Tây Phương hiện nay, những tư tưởng đặc dị
về Kim Cang Tông (còn gọi là Mật Tông) phát triển với những ứng dụng, không
những sai lầm đến mức độ trầm trọng, mà còn mang tính phá hoại, xuyên tạc Phật
Giáo, đồng thời cũng gây tai hại đến các hành giả Kim Cang.
Những
hành giả Kim Cang Thừa nếu không thông suốt căn bản Giáo lý Phật Giáo là
một việc làm đầy nguy hiểm. Những tư tưởng chính của Kim Cang Thừa là tư tưởng
kiên cố bất hoại, là sự trở về với chính mình, với sự tỉnh thứccủa bản thể và
nhận biết Tự Tánh Kim Cang của bản thân. Vì những ý nghĩa vô cùng sâu sắc về đàn
pháp (Mandala = Mạn đà la) cho nên không ít người nghĩ đến bùa phép, phù thủy.
Thông thường, họ đã quên một điều tiên quyết là: Kim Cang Thừa vốn là con đường
nối tiếp của Tiểu Thừa và Đại Thừa. Hành giả không bắt đầu từ 2 Thừa kể trên, đi
tắt vào Kim Cang Thừa, sẽ thường vấp ngã, sai lệch, thậm chí gây nhiều nhiễu
loạn, khủng hoảng tâm thần nữa. Tantra (Mật Giáo), nếu đem dịch cho sát nghĩa là
"sự nối kết". Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa vốn là một chuỗi nối kết với
nhau. Không có nền tảng Phật Học của hai Thừa trên, dù đọc thiên kinh vạn quyển
của Mật Học chẳng khác nào xây toà lâu đài trên cát.
Kim Cang Thừa chính là sự phát
triển sâu xa hơn và rộng rãi hơn của hai Thừa trước. Đây là sự phát triển của
những thiện cảm và ý thức lành mạnh qua công phu thực hành các pháp trong Tiểu
Thừa và Đại Thừa. Sự sai lầm căn bản của những học giả Tây Phương khi tìm hiểu
Kim Cang Thừa là không được giảng dạy theo trình tự và đúng đắn. Do sự uyên áo
của Thừa nầy cho nên ở những trường đại học Tây Tạng đều có phân khoa Huyền Học
(Gyud). Có lẽ chỉ có nền giáo dục Tây Tạng mới có ngành học nầy.
Chương trình học nầy đều được tổ
chức rất quy củ. Những sinh viên theo học phải qua những kỳ thi về Phật Học Tiểu
Thừa và Đại Thừa, đồng thời cũng được trắc nghiệm về năng khiếu. Có trường hợp
phải có sự hướng dẫn của những vị chân sư thấu đáo trước khi muốn bước chân vào
con đường tu học nầy. Những lớp học nầy tổ chức học theo phương pháp khẩu
truyền, học riêng từng người và thường diễn ra trong vòng bí mật. Trên nguyên
tắc giảng dạy, sinh viên theo học không bao giờ được tiết lộ những điều học hiểu
của mình cho người khác. Không bao giờ có những tranh luận công khai về giáo lý
Kim Cang Thừa tại các khuôn viên Đại học Tây Tạng.
Những sinh viên theo học có thể
tin hay không tin những giáo lý. Họ cũng có thể xin thôi học, vì trình độ chưa
thấu đạt. Những danh sư cũng đồng ý với họ, vì thiếu căn bản Phật Học, sẽ gây ra
những nguy hại trong khi hành trì Mật Tông mà thôi. Phải qua những thử thách, họ
mới có thể trở thành những "Gyud Pas” (đắc giới) và được mọi người kính trọng.
Khi bước qua được ngưỡng cửa nầy rồi, họ được xem như là đã có khả năng tiếp cận
với cõi vô hình, sử dụng được những huyền thuật. Họ có thể thiết lập những đàn
pháp cầu mưa gió, cầu nắng ráo hay cầu khẩn những đấngthần linh giúp cho một vài
điều gì đó và được ứng nghiệm ngay. Họ được đưa về các làng mạc để giúp đỡ cho
dân chúng để trừ yêu, phục ma.
Ngày trước, khi Trung Cộng chưa
chiếm cứ Tây Tạng, những thức giả muốn nghiên cứu Kim Cang Thừa đều sang đây để
tìm thầy học đạo. Tại đây, từ ngàn xưa vẫn nổi tiếng về những truyền thống tâm
linh huyền bí khác hẳn nhiều quốc gia khác. Có người lại lý giải rằngđất Tây
Tạng ở vùng cao, quanh năm giá lạnh, nhiều rừng núi thâm u, cho nên những năng
lực siêu hình thường tập trung ở đây. Các tu sĩ Tây Tạng có thể phát triển trong
môi trường nầy. Những danh tăng Ấn Độ hay Trung Hoa đều giành một thời gian để
sang đây học hỏi.
Các giai đoạn hành trì
Những nhà nghiên cứu về Kim Cang
Thừa trong thời gian gần đây,đã có một số ngộ nhân về nền tảng Giáo Lý nầy. Có
người cho rằng: Kim Cang Thừa do những vị Lạt Ma tổng hợp các Giáo Lý trên đất
nước Tây Tạng để dựng nên. Có người nói đến sự chuyển hoá của Cổ thư do đạo Bon
Pa trong truyền thống Tây Tạng. Từ những sai lầm nầy đã đưa đen nhận thức sai
lầm khi đi vào những nguyên tắc căn bản của Kim Cang Thừa.Giáo lý của Kim Cang
Thừa là do chính đức Bổn Sư Thích Ca giảng dạy cho hàng đại đệ tử của mình.
Trong số những giáo lý căn bản do đức Phật thuyết giảng khi còn tại thế, thì Kim
Cang Thừa (MậtGiáo) là giáo lý cao siêu và thù thắng nhất. Nhận định chung thì
chính Kim Cang Thừa mới là sự kết tinh vè quyết định tối hậu của đức Thế Tôn.
Giáo lý của đức Phật bao gồm những kinh điển Tiểu Thừa và Đại Thừa. Chính những
Giáo lý nầy đã là nền tảng để xây dựng nên Kim Cang Thừa.
Những nguyên tắc của Mật Điển phải
được xây dựng và hành trì trên cơ sở chính yếu của Kinh Giáo. Không thể nói đến
Kim Cang Thừa mà không nói đến Phật Giáo. Những tín đồ của đức Phật do những
xuất xứ khác nhau, trình độ khác nhau và bắt nguồn từ nhiều hệ tư tưởng khác
nhau trước khi thọ nhận yếu lý của đức Phật. Thành thử những lời dạy của Ngài
cũng theo các yêu cầu khác nhau, tùy theo căn cơ và trình độ hiểu biết, thọ nhận
khác nhau. Phương tiện tuy khác, cứu cánh vẫn là một. Chỉ có những đệ tử nào có
trí tuệ phát triển cao, hiểu biết quảng bá, đức Phật mới giảng dạy Kim Cang
Thừa, sau khi họ đã quán triệt Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Nếu đi vào Kim Cang Thừa mà không
có căn bản về hai Thừa kia, thật khó tiếp thu và thường ngộ nhận. Phép tu theo
Mật Tông cũng phải trải qua những giai đoạn như thế.
Việc thực hành Kim Cang Thừa sau
khi qua phần lý thuyết cũng có những cấp bậc khác nhau, đi từ thấp đến cao, qua
nhiều giai đoạn tu chứng, thì lãnh ngộ vững vàng hơn. Có 4 loại thực hành Kim
Cang Thừa là: Mật điển hành động, Mật điển Tư duy, Mật điển Du Già (Yoga) và
Mật điển Tối Thượng Du Già. Phải trải qua từng giai đoạn một để bước vững
vàng, tránh sai lầm.
Căn cứ theo khả năng riêng biệt của
từng hành giả trong khi tuchứng, để có thể chuyển hoá phúc lạc của mình thành
con đường tu tập cần thiết trong từng giai đoạn.
Những hành giả nào theo Mật
điển Hành Động (Action Tantra): trước hết là phải cố phát huy cao độ
phúc lạc (bliss) của mình bằng phương pháp quán tưởng đến một vị Phật, Bồ Tát
hay vị Thần nào đó. Phúc lạc chỉ phát sinh trong khi tập trung việc quán tưởng
đến đối tượng đó mà thôi.
Nhờ vậy, tâm hoan lạc tập trung
thiền quán về chân không.
Những hành giả nào theo Mật
điển Tư Duy (Perfomance Tantra): Tập trung để gây phát sinh phúc lạc,
nhờ quán tưởng đến vị Phật, Bồ Tát hay vị Thần với những nét hoan lạc, thoát
tục, hiền hoà. Sử dụng phúc lạc nầy để thiền quán chân không, để có thể chuyển
hoá phúc lạ thành pháp môn tu tập của mình.
Những hành giả nào theo Mật
điển Du Già (Yoga Tantra): Tập trung để phát sinh phúc lạc, bằng cách
lại gần và sờ tay vào vị Phật, Bồ tát hay vị thần mà mình đã quán tưởng. Khi
niềm phúc lạc do việc cảm xúc khởi động lên, hành giả dùng thứ lạc nầy để thiền
quán chân không. Do đó chuyển phúc lạc thành phép tu.
Những hành giả nào theo mật
điển Tối Thượng Du Già (Highest Yoga Tantra): Hành giả ôm vào một người
thật hay quán tưởng là mình đã ôm như vậy, rồi phác lạc. Nhờ đến thiề quán chân
không, phúc lạc nầy sẽ chuyển thành con đường tâm linh vi diệu. Nhìn chung lại,
tất cả những pháp hành nầy đều được đặt cơ sở trên hạnh Bồ Đề Tâm. Nhờ đến Mật
Chú, có thể đưa tất cả hữu tình đến giác ngộ Vô Thượng Bồ Đề.
Ẩn dụ của huyền thoại Mật Tông
Câu chuyện sau đây nói về tình
trạng vọng động trên đường tu học và ứng xử, thường được nêu ra để làm gương,
được nhắc đến nhiều trong những tu viện. Nội dung do bà Alexandra David Neel kể
lại trong cuốn "Mystiques et Magiciens du Tibet":
Câu chuyện xẩy ra tại vùng
Tachienlu, trung tâm của những người tu hành theo Phù Chú Giáo. Có một vị Lạt Ma
nổi tiếng là người tu luyện thành công nhất trong vùng nầy về Huyền thuật tên là
Chogs Tsang (Ông thầy cao). Theo truyền tụng, thì vị nầy có tài tiên đoán được
mọi sự việc trong tương lai. Quan sở tại trong vùng nghe tiếng, cho nên thường
hậu đãi. Một lần, nhân có việc hệ trọng, vị quan đến nơi tu luyện của vị Lạt Ma
nầy. Hai bên trò chuyện và giải lý tâm đắc. Nhưng ngay sau đó, thì Lạt Ma Chogs
Tsang lại đòi cưới đứa em gái duy nhất của viên tùy tướng. Vấn đề xẩy ra quá đột
ngột cho nên viên quan tùy tướng không thể nào chấp nhận, vì danh tiếng của Lạt
Ma bao trùm cả vùng từ xưa đến nay. Vì không được thoả mãn yêu cầu, vị Lạt Ma
nổi giận, đập vỡ hết đồ đạc trong bữa tiệc, lên tiếng mắng nhiếc thậm tệ và dọa
sẽ dùng những bùa phép để viên quan sẽ chết trong vài ngày tới. Dĩ nhiên, mọi
người chỉ cho rằng lời dọa của một người trong cơn say, nên không ai quan tâm,
dù đó là lời của một vị Lạt Ma nhiều quyền năng siêu đẳng.
Nhưng rồi chuyện xẩy ra. Hai hôm
sau, viên tùy tướng đang mạnh khoẻ bỗng lăn đùng ra chết. Mọi người cho rằng lời
dọa dẫm của vị Lạt Ma đã thành sự thật và đây là cảnh cáo đầu tiên. Những điều
trọng vọng vị Lạt Ma trước đây của dân chúng cũng tiêu tan. Gia đình của viên
tùy tướng liền đến nhờ vị quan đứng ra điều đình, bằng lòng gả người em gái cho
vị Lạt Ma. Nhưng ông ta từ chối, cho rằng đáp ứng nầy đã quá muộn màng. Về phần
vị Lạt Ma, từ đó đã có những thái độ khác thường, mà chính các đệ tử cũng lo
ngại. Một đêm khuya, bỗng nhiên chợt nhớ ra điều gì, vị Lạt Ma nầy trởdậy, sai
đệ tử mình chuẩn bị mọi thứ để lên đường theo ông. Dù nghi hoặc nhưng người nầy
cũng vâng theo. Khi ra đến bờ sông thì ông bảo dừng lại, nhìn ra giữa dòng.
Chẳng bao lâu, có vật gì lấp lánh giữa dòng sông, rồi tấp vào bờ cạnh đó. Đó là
một xác chết chưa kịp rửa nát đang trôi ngược dòng. Lạt Ma Chogs Tsang sai đệ tử
vớt xác đó, lấy dao cắt cho ông một miếng thịt rồi bảo: Nhà ngươi cũng cắt cho
mình một miếng để ăn. Đây là món quà hy hữu của người bạn ta từ xa gửi đến.
Người đệ tử hoảng sợ, cắt một miếng cho thầy và miếng cho mình thì nhét vào
trong bị và giả vờ ăn. Khi trở về lại tu viện, Lạt Ma nói: "Ta tưởng là ngươi có
được đạo hạnh khá cho nên ban cho ngươi món quà nầy; nhưng không ngờ lại nhát sợ
đến như vậy, thật không đáng thưởng". Vì hỗ thẹn bị khiển trách, anh ta thò tay
vào túi. Nhưng kỳ lạ thay không tìm thấy miếng thịt đâu cả...
Thực ra, dưới mắt người thường câu
chuyện không mang ý nghĩa đơn thuần như vậy. Về chuyện đòi lấy vợ của vị Lạt Ma
chỉ là để thu lấy một khả năng ngoại đạo tà ma quấy nhiễu hiện nguyên hình thành
cô gái của viên tùy tướng. Dưới mắt của người Tây Phương, vị Lạt Ma nầy đã làm
bại hoại danh giá của mình; nhưng với người Tây Tạng, thì đây là hành động siêu
việt của một con người có Pháp Nhãn thì mới có thể nhìn sâu vào bản chất của
loài ma quỷ để trấn áp.
Có hàng ngàn giai thoại kỳ lạ về
các Lạt Ma, nhưng khi chiêm nghiệm, người Tây Tạng không chỉ nhìn bề ngoài để
suy đoán một cách dung dị. Thế giới vô hình bao trùm hầu hết vùng đất nầy, đã
khiến cho các hành giả phải tìm đủ cách đến tận nơi để chứng kiến.
Hành trì Mật Tông
Phật Giáo Tây Tạng bắt nguồn từ
Phật Giáo Ấn Độ, được hội nhập trong nhiều yếu lý khác nhau trong đó có Tịnh Độ
Tông. Có nhiều trường hợp dùng đến pháp môn tọa Thiền, nhưng có lúc lại dùng đến
pháp môn Tịnh Độ; chẳng hạn khi con người lìa cõi đời. Theo Tử Thư (Bardo
Thodol) của Lạt Ma Giáo thì: khi con người đã chết, sẽ đi vào cảnh giới có nhiều
màu sắc khác nhau; tùy theo tâm thức và mức độ giác ngộ của những người nầy, mà
những màu sắc, thanh âm, cảnh quan nầy sẽ được thể hiện với màu sáng chói hay
màu ảm đạm.
Trong khi đó, tùy theo căn cơ, có
người trông thấy những hình thù quái dị, gớm ghiếc, những thú hoang, vật dữ;
nhưng lại có người chứng kiến được cảnh giới siêu thoát, có Thiên Thần, Tiên
Thánh. Thiên đàng hay Địa ngục hiện ra cũng tùy theo sự giác ngộ, tu tỉnh của
con người khi còn sống. Ngoài ra, còn nhờ những trợ lực khác nữa. Chẳng hạn: khi
người vừa chết, những người thân, những đạo sĩ cùng nhau tụng niệm hồng danh của
chư Phật, giữ cho linh hồn yên tĩnh để nghe những lời hướng dẫn của những vị Lạt
Ma chủ tế, thì họ sẽ được chứng kiến cảnh giới tươi đẹp, hoát ngộ ngay. Điều nầy
cho thấy ảnh hưởng của Tịnh Độ Tông với Mật Tông với mức độ cao.Pháp môn Tịnh Độ
nầy cũng được Tây Tạng áp dụng trong nhiềutrường hợp: khi trẻ sơ sinh, khi người
mắc bệnh, khi gặp tai nạn, khi đứng trước nguy khổn, việc tụng hồng danh chư
Phật sẽ chuyển hoá được hoàn cảnh.Tại sao có sự cố thay đổi nầy. Sách Tử Thư
viết: "Giá trị của việc tụng hồng danh chư Phật là tạo nên cảnh quan tốt và tạo
căn cơ tốt. Cảnh quan tốt là vạn vật chung quanh mà linh hồn bước vào;căn cơ tốt
là sự giác ngộ bên kia cửa tử". Thành thử, Tịnh Độ Tông được bành trướng trong
giới bình dân, trong giới tu sĩ. Tùy theo bản chất linh hồn để chuyển hoá, tùy
theo sự giác ngộ để đổi thay.
Con đường tu tập Mật Tông
Từ trước đến nay, Phật Giáo Tây
Tạng đã thành lập nên một hệ thống tổ chức rất chặt chẻ cho từng tầng lớp khác
nhau: Những vị tu sĩ nào được thọ giới xuất gia đều được gọi chung là Lạt Ma
(Lamas) theo các cấp bậc và ngôi thứ khác nhau như Gelong, Geshe, Rinpoche hay
Tulku. Gelong là những vị vừa thọ giới, tương đương với Tỳ Kheo, Geshe là những
vị đã tốt nghiệp kỳ thi Tiến sĩ Phật Học chính thức, qua những thời gian hành
trì nhất định. Rinpoche hay Tulku là những vị Lạt Ma tái sanh.
Trong
tổ chức Phật Giáo Tây Tạng, có những bậc cao tăng được xác định là đã
từng tu tập trong nhiều kiếp trước, đồng thời cũng đã được tái sanh, trở lại
trần thế, để tiếp tục hoằng dương Phật Pháp. Những vị nầy thường được lựa chọn
tái sanh và đi vào vòng sinh tử nhiều kiếp, để thực hiện Hạnh Nguyện Bồ Tát.
Trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, có 2 phương pháp để hiểu được sự tái sanh
nầy. Cách thức thứ nhất giúp cho tin vào những đời trước hay chỉ một đời trong
quá khứ. Còn phương pháp thứ nhì khiến ta tin vào những đời sau hay một đời sống
trong tương lai. Trong hai phương pháp nầy, phương pháp thứ nhất mang giá trị
truyền thừa và chuyển kiếp; còn phương pháp thứ hai nhắm vào mục đích tăng tiến
trong tu trì, hầu đạt được sở nguyện trở lại trong tái sinh. Khi đã nhận định rõ
là có kiếp trước thì cũng dễ dàng nhận được là có kiếp sau. Mục đích duy nhất
trong việc chấp nhận tái sanh để khuyến khích công năng tu hành để được đi vào
thế giới của luân hồi, nhân quả có hiệu nghiệm hơn.Về kỹ thuật nhận biết được
tái sanh hay không thì có rất nhiều nhưng tựu trung có 5 cách:
Kỹ thuật thứ nhất: nhờ đến bản
năng và dấu hiệu tâm linh mà chúng ta có thể biết được rằng có một đời
trước.
Kỹ thuật thứ hai: bao hàm sự hiểu
biết và nhận định rõ ràng về dòng tâm tương tục nối tiếp thường
xuyên.
Kỹ thuật thứ ba: sử dụng năng lực
của mộng tưởng để có thể chứng minh được rằng có một đời trước, đã liên hệ đến
việc tái sinh trong đời sau.
Kỹ thuật thứ tư: Nhờ đến năng lực
của những dấu ấn về tái sinh thể hiện rõ nét trên cử chỉ, vết tích, thị
hiện.
Kỹ thuật thứ năm: Nhờ đến năng lực
của những vị cao tăng, thông qua kinh điển, để nhận biết có sự tái sinh. Trong
Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng: "Biết được những chuyển biến về kiếp vãn sanh,
chính là do Tâm Tự Tánh. Còn khả năng thành tựu huệ thân, không do tha ngộ".
Câu kinh trên được hiểu: Khả năng chuyển biến của các kiếp phải do tu hành để
đốn ngộ của bản thân, không do trợ lực nào. Phật Giáo Tây Tạng nói đến nhiều vị
cao tăng đã tu tập trong nhiều kiếp nối tiếp nhau và cũng đã tái sinh, trở lại
trần thế trong nhiều lần, để tiếp tục công việc hoằng pháp độ sinh. Đối với
những bậc đại sư, cao tăng thiền đức có quá trình tu tập và hành trì với hạnh
nguyện cao cả đến như vậy, Phật Giáo đồ Tây Tạng rất ngưỡng mộ và kính trọng,
không khác gì công đức của những Bồ Tát Hoá Thân.Tín đồ Mật Tông thường hướng về
công hạnh "Phát Bồ Đề Tâm" (Bodhichita), như là đối tượng trong việc tu chứng.
Trên con đường tu học, Phật Giáo đồ
ở đây chú tâm đến việc phát Bồ Đề Tâm, phát nguyện tu hành để trở thành vị Bồ
Tát, mang tâm nguyện chuyển hoá trong kiếp sau, để cứu độ chúng sinh. Nhận thức
về Bồ Tát trong tâm thức người Tây Tạng chỉ là một vị đắc đạo, có đức vị tha, từ
bi, đi vào đời để cứu đời.
Trong một thời thuyết pháp gần đây,
đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIV đã chỉ ra rằng: "Theo truyền thống của Phật Giáo
Đại Thừa (Mahayana), tình yêu và lòng từ bi là nền tảng đạo đức của nền hoà bình
thế giới nầy. Tình yêu chân thật không dựa trên sự luyến ái, mà dựa vào lòng vị
tha. Có như vậy, lòng Từ bi của chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi, qua nhiều kiếp, như
một sự đáp ứng nhân đạo đốivới mọi khổ đau; lòng Từ bi nầy sẽ tồn tại cho đến
ngày nhân loại không còn sự khổ đau nữa". Phát Bồ Đề Tâm đến mức độ nào là tùy
theo hạnh nguyện. Chẳng hạn như các vị cao tăng Tây Tạng đã từng phát Bồ Đề Tâm
rộng lớn và sự tái sinh của các vị nầy là để thực hành Hạnh Bồ Tát, tự nguyện
tái sinh trở lại cõi trần trong vô số kiếp, cho đến khi nào hạnh nguyện nầy được
viên mãn. Với một số Lạt Ma khác thì việc tái sinh không phải để tế độ quần
sanh, mà chính là để tu học thêm, từ đó sẽ đem lợi ích cho kẻ khác.
Khác biệt căn bản của hai trường
hợp nầy tùy theo phát nguyện của họ: có vị phát nguyện tái sinh để tạo lợi ích
cho kẻ khác; có vị tái sinh với hạnh nguyện Bồ Tát rộng lớn hơn. Ngay trong thời
gian tu học và độ sinh, các vị Lạt Ma đã ôm ấp hạnh nguyện nầy và suốt đời tiến
hành trong phạm vi đó.
Những trở ngại
Trong những điểm căn bản của giáo
phái Sakya Pa, người giới tử sau khi thọ lãnh Lễ Điểm Đạo, việc trước tiên là
giải trừ những tham luyến. Có bốn tham luyến chính gây những suy thoái trong
cuộc đời tu học và gây những chướng ngại về Thân Trung Ấm sau khi chết đi. Đó
là:
Những tham luyến trong cõi đời cần
phải diệt trừ ngay từ đầu khi nhận chân ra được. Đừng để tham luyến có cơ hội
phát triển. Đạo hạnh hay không là do phương thức dùng để diệt trù
nầy.
Những người tham luyến còn trở lại
trong vòng luân hồi, chính họ đã không thể nào giải thoát được. Vì nghiệp chướng
nặng nề dấy lên, làm nhiễu loạn tâm thanh tịnh. Điều đó gây thêm những ảnh hưởng
khác trong vấn đề chuyển thức.
Những người cứ bị lôi cuốn mạnh mẽ
về những tham luyến, thì không thể giải thoát được. Lôi cuốn càng mạnh, sức giải
toả càng khó, ảnh hưởng càng sâu.
Khi còn người sống theo những tham
luyến liên tục, thì không chứng được thực cảnh. Đây là những phần trong giáo lý
Đại Thừa mà sau nầy Kim Cang Thừa vẫn còn nhấn mạnh nhiều lần trong bí phương
giải thoát. Ngài Sachen Kunga Nyinpo, vị tổ nổi tiếng nhất trong giáo phái Sakya
Pa nhấn mạnh: Những giới tử của Sakya Pa lấy việc cởi sạch hết những tham luyến
để được giải thoát lên hàng đầu. Chỉ khi nào lột bỏ lớp cũ, mới nhận lớp mới.
Con đường tu không hai.
Mật Tông và Cổ Mật
Trong lịch sử phát triển Cổ Mật Tây
Tạng, phải trải qua nhiều giai đoạn để thích nghi với hoàn cảnh. Ngay trong giai
đoạn đầu tiên, Lạt Ma Giáo vẫn là sự pha trộn, dung hợp và ứng chế của tinh hoa
của Phật Giáo từ Trung Hoa và Ấn Độ truyền sang, nhưng về sau đã có những thay
đổi, cải cách từ căn bản của tôn giáo nầy. Nền tảng của tôn giáo cổ nầy chú
trọng nhiều đến phép thuật thần trong khi Phật Giáo lại không chú trọng đến điều
nầy.
Lạt Ma Giáo có nhiều cách tu luyện
lạ lùng, đặc biệt, mà ngườiTây Phương khi đến vùng đất nầy khó có thể nhận thức
được hay chứng minh được. Những pháp môn khinh thân, tàng hình, khổ hạnh, thần
chú, ấn chú có những linh ứng kỳ diệu.Chẳng hạn như pháp môn luyện Pháp Nhãn để
có thể nhìn thấy những cảnh giới khác. Nhiều vị Chân sư của đạo Bon Pa đã dùng
Pháp Nhãn trong cách chữa bệnh. Họ có thể nhìn vào kiếp trước của bệnh nhân, tìm
hiểu nguyên nhân sinh bệnh, do đó tìm cách để cứu chữa.
Pháp Nhãn chính là một loại quyền
năng đặc biệt, có nhiều mức độ khác nhau, tùy theo sự tu luyện của họ đạt đến
trình độ nào. Dựa vào khả năng của Pháp Nhãn với mức độ khác nhau, hành giả có
thể khai thác nhiều lãnh vực khác nhờ Pháp Nhãn. Chẩng hạn như với Pháp Nhãn có
thể nhìn suốt được tiền kiếp rất rõ ràng để biết được sự Hoá Thân để tái
sanh.Tuy nhiên việc dùng Pháp Nhãn không thể nào tùy tiện được. Nhiều đạo sĩ của
đạo Bon Pa đã khai mở quyền năng của Pháp Nhãn, nhưng không thận trọng nên gặp
trở ngại. Họ đã không nhận thức rằng đây chỉ là phương tiện để có thể giúp cho
việc khai thông và giúp việc tu hành, chứ không phải là cứu cánh.
Những vị Chân sư thường cảnh giác
sự lạm dụng nầy. Hơn thế nữa, xây dựng và phát huy Pháp Nhãn không đơn giản và
hiệu ứng trong thời gian ngắn. Thông thường, sự khai mở Pháp Nhãn, dù trong mức
độ thấp, cũng đòi hỏi những công phu tập luyện lâu dài, kiên trì, bền bỉ. Chỉ
những vị Hoá thân, do công phu tu hành của những kiếp trước đã đạt được, mới
thành tựu nhanh chónghơn. Tuy nhiên, nếu không biết vận dụng trúng cách và sử
dụng với thiện niệm, Pháp Nhãn cũng mất luôn.
Trí tuệ thượng thừa
Trong Mật Giáo, khả năng phi thuờng
của trí tuệ thượng thừa được phát huy do huân tập lâu ngày mà nên. Khả năng nầy
chiếu rạng cảnh giới siêu nhiên, nhìn thấy được tiền kiếp của mình và của chúng
sanh. Nhiều vị giác ngộ đã thành tựu trong pháp môn nầy, sau nầy dựatrên căn bản
đó để hướng dẫn và hoá độ chúng sanh. Milarepa là một trong những danh tăng nầy.
Trong những vị Thánh của Mật Tông Tây Tạng, thì Milarepa được ca ngợi là "giác
ngộ phi phàm".
Cuộc đời tu hành của ông trải qua
nhiều khó khăn nhưng nhờ chí kiên quyết tột đỉnh cho nên đã chứng ngộ vô thượng.
Có rất nhiều giai thoại chung quanh vị thánh "áo rách" nầy, do sự sùng bái của
Phật tử và công năng vô thượng do chúng quả mà ra. Người ta kể lại rằng: Trong
giai đoạn Milarepa tu hành trong một hang sâu tại vùng bình nguyên Aksobhya,
miền đồng bắc Tây Tạng, thì có nhiều vị đạo sĩ của đạo Bon Pa thường đến quấy
nhiễu. Ông vẫn quyết tâm thiền định và tu trì. Nhưng những đạo sĩ ấy không buông
ta, tìm cách để hạ nhục.
Một ngày kia đạo sĩ Tsemara đến và
thách thức ông ta chạy đua lên đỉnh núi Kailas. Tsemara nổitiếng về khinh công
đến mức thường thừa và kiêu hãnh vô cùng. Milarepa khước từ nhưng không thoát
khỏi. Sau cùng Milarepa đành chấp nhận để tránh những phiền toái về sau. Sau khi
ước hẹn cuộc đua xong thì Tsemara đã phóng chân với tốc độ phi thường. Milarepa
vẫn ngồi yên để thiền định.
Chẳng bao lâu Tsemara đã gần đến
đích nhưng Milarepa vẫn không dời chỗ. Khi đó mặt trời vừa lên. Những tia sáng
ban mai chiếp khắp vùng. Tsemara tin chắc thắng lợi sẽ về tay mình. Nhưng ngay
khi đó Milarepa đã tập trung tư tưởng đến cao độ, tan vào trong ánh sáng chói
lọi. Tsemara chưa đến đích đã thấy Milarepa đứng trên đỉnh núi rồi. Tsemara ngạc
nhiên, run sợ toan trượt chân té xuống hang sâu thì được Milarepa kéo lên.
Suốt đời Milarepa luôn luôn cầu
học, tinh thần nhanh chóng, nhưng thấy những pháp thuật thượng thừa của mình
không thể tự giúp để giải thoát được , cho nên đã cầu học với ngài Marpa, qua
những thử thách trăm ngàn gian khổ.Milarepa trở thành vị lãnh đạo lừng danh nhất
trong việc xây dựng giáo phái Kargyu Pa.
Yoga Mật Tông
Một trong những pháp môn chủ yếu
của Mật Tông là pháp môn TọaThiền. Pháp môn nầy được vận dụng trong Thiền Tông
của Phật Giáo, hoà hợp với thuật Yoga của Ấn Giáo. Chính đức Milarepa đã nhấn
mạnh đến pháp môn nầy thường được giáo dục trong những tu việncũng như người tu
tại gia.
Với Mật Tông, pháp môn Toạ Thiền
cốt là để thanh lọc khí ô nhiễm. "Khí" đây có thể hiểu là tư tưởng, ý niệm về
tinh thần cũng như trọc khí, uế khí thải ra về phương diện vật chất. Mật Tông
thường nói đến "chín hơi thở" hay là "chín vòng" để có thể thanh lọc được những
luồng ô nhiễm của chúng ta. Khi ta thở vào nên quán niệm đến những
điều tốt đẹp, những hình ảnh giải thoát, thanh tịnh; khi ta thở ra
thì quán niệm đến việc loại trừ, thanh lọc những xấu xa, trọc khí. Cứ mỗi "vòng"
trong khi quán niệm và thiền tập lại mang một sắc thái khác nhau, tùy theo
trìnhđộ tu tập, kiến giải cũng khác nhau.
Những tu sĩ Mật Tông cũng nói đến
phép luyện Yoga, nhưng khi tiếp thu họ đã chọn lọc kỹ càng. Pháp môn Yoga gồm có
5: Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân của mình; pháp môn Kundalini để
luyện những năng khiếu thần thông như Thần nhãn, Thần nhĩ chẳng hạn, pháp môn
Laya Yoga để luyện tập tinh thần và trí nhớ lâu dài và sắc bén khi nhận định vạn
vật; pháp môn Raja Yoga để chuẩn bị những điều kiện cho con người có thể trở
thành bậc Minh triết và pháp môn Samadhi Yoga để đưa đến trạng thái Giác ngộ tối
cao. Đó là con đường tu tập từ thấp đến cao.
Phải tiến hành tuần tự, đi từ kết
quả sơ khởi, đơn giản nhất cho đến mức thượng thừa. Không có lối tu tắt cũng như
không có "bước nhảy vọt" trong pháp môn Toạ Thiền. Những tu sĩ Mật Tông đã cố
thoát ly khỏi những ràng buộc của thế gian, đi vào những hang động sâu để tu tập
và Tọa Thiền quán bích trong 10 năm, 20 năm là chuyện thường. Sức kiên trì của
họ là do niềm tin sẽ đạt đến mức cao nhất trong Samadhi Yoga khi ngồi Thiền.Theo
Mật Tông, nhờ đến pháp môn Tọa Thiền có trình tự và mức độ mà con người có thể
thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nghiệp chướng tiêu trừ, viễn ly khổ ách.
Trong một ngày tu hành, đạo sĩ hay tu sĩ Yoga thường tranh thủ để Toạ Thiền
nhiều hơn và tu tập hiệu nghiệm hơn.
Trong pháp môn tu tập của Mật Tông,
để có thể giao cảm với những người khác hay cảnh giới khác, phải dùng đến Thần
Giao Cách Cảm. Sau nầy được họ là môn "Cảm Xạ Học". Cảm xạ học của Tây Tạng được
vận dụng ứng xử trong nhiều mục đích: Đi vào cảnh giới khác, tìm tia ác xạ, giao
cảm với Thần Linh. Thậm chí nhiều nhà khoa học đã vận dụng trong nhiều ngành
quan trọng về truyền thông hiện đại. Phong Thủy Học cũng cần nhờ đến khoa Cảm Xạ
Học để tìm mạch nước.
Khai mở năng khiếu thần thông
Trong những kinh điển cổ truyền
Phật Giáo Tây Tạng, nhất là của Giáo PháiBon Pa, những điều kiện để có thể khai
mở năng khiến thần thôngcủa người tu tập, hành giả rất quan trọng. Những yếu
quyết nầy bao gồm: Khả năng tiên thiên (bẩm sinh), dùngdược chất, đọc Thần Chú,
ngồi Thiền định, những cách tu luyện, nhận thức vạn vật vô thường. Tuy nhiên,
trong việc thực hiện, phải có trình tự, được Chân sư (Guru) hướng dẫn, đề phòng
phản ứng.
Khả năng tiên thiên
Tiên thiên là khả năng bẩm sinh, vốn bảo lưu từ kiếp trước. Trong khả năng Hoá
thân, điều kiện nầy rất cần thiết. Một vị Lạt Ma hoá thân, ngay từ thơ ấu đã thể
hiện được một số căn cơ tiên thiên từ vô lượng kiếp trước. Chỉ cần khai mở trúng
cách, được hướng dẫn, những khả năng tiên thiên sẽ được phát triển mau chóng.
Khả năng tiên thiên nầy có trường hợp hướng theo một chiều hướng: chiều hướng
nầy dựa theo hạnh nguyện của mình. Chẳng hạn như đức Đạt Lai Lạt Ma được xem là
Hoá Thân của đức Quan Thế Âm Bồ Tát, cho nên trong những bài thuyết giảng của
Ngài thường tập trung vào hạnh nguyện từ bi.
Nhận chân vạn vật là vô
thường Bổn phận và chiều hướng của những người bắt đầu nghiên cứu và tu
tập là: Phải nhận chân vạn vật vốn không hiện hữu trong khi nhận định và sống
với nó. Việc quan trọng bậc nhất đối với người tu tập là nhận chân các hình
tướng, các hương vị, các màu sắc, cảm thọ, sắc và không sắc đều là sự hiện hành
của vô thỉ, không hiện hữu và vô ngã. Những kinh nghiệm bản thân về sự "không
hiện hữu" nầy vô cùng quan trọng, vì nó không thuộc về các quá trình phân tách
cũng như không kiến giải được. Khi bước vào ngưỡng cửa của Kim Cang Thừa, bắt
buộc phải trải qua kinh nghiệm về sự không hiện hữu của vạn vật. Vấn đề đòi hỏi
nhiều công phu, ứng xử trong lối sống, chứ không chỉ y cứ vào lý thuyết suông.
Dùng các dược chất
Một số Giáo phái Mật Tông Tây Tạng còn dùng những dược chất bí truyền của mình
để khai mở năng khiếu thần thông. Theo họ, những dược chất đặc chế nầy nhằm vào
mục đích kích thích các hệ thần kinh giao cảm (sympathetic), để có thể thu thập
và tàng trữ một số khả năng đặc biệt. Tuy nhiên, nhiều kinh điển nêu lên những
tác hại về việc dùng dược chất. Nếu không điều chế trúng cách, người dùng và
người chế trở nên điên đảo, thác loạn, thậm chí điên cuồng, không thể làm chủ
thân tâm của mình.
Thần Chú (Mantras)
Thần Chú vốn là ngôn ngữ thần diệu do chư Phật và chư Bồ Tát trong khi nhập định
đã phát ra. Ngôn ngữ nầy vốn thần bí, ẩn súc, bất khả tư nghị, nhưng công năng
của Thần Chú vốn rất mạnh mẽ. Hầu hết những pháp môn Mật Tông đều đề cập đến
việc tu trì kiên định đọc Thần Chú liên tục, đúng chỗ, thì sẽ tạo nên được một
khả năng phi thường, không lường trước được. Thần Chú thường được thực hiện theo
một số nghi lễ, phối hợp với âm thanh, màu sắc, ấn chứng, ấn quyết. Khi đọc Thần
Chú, thì việc phát âm đúng đắn thường đòi hỏi nhiều công phu và tâm trí tĩnh
lặng.
Trước khi đọc Thần Chú, phải chuẩn
bị những điều kiện cho thân tâm an lạc.Thần Chú (Mantra) có nghĩa là sự che chở
tâm (Mind protection). Cũng nhờ việc tụng Thần Chú để che chở tâm của chúng ta
khỏi các tướng và những khái niệm phàm tình khác. Tất cả những thể tướng ta thấy
hàng ngày đều là những bất tịnh tướng. Vì những tướng bất tịnh mà con người cứ
trong vòng sinh tử, luân hồi. Thực hành giáo lý Mật Tông một cách kiên trì, tụng
Thần Chú để có thể phá được tướng bất tịnh, che chở tâm của ta.
Tu luyện Tu luyện
được thi hành chặt chẻ sau khi dự lễ Quán Đảnh và GiaTrì. Trước đó, những phương
pháp tu hành chỉ để làm quen với MậtGiáo. Tu sĩ Cổ Mật Tây Tạng có nhiều cách tu
luyện khác nhau, từ lối tukhổ hạnh cốt để tăng cường ý lực cho đến những cách tu
luyện thầnbí, quái dị. Dù phương pháp nào chăng nữa, thì cứu cánh vẫn là loại
trừ những chướng ngại trên đường tu học và tìm đến Giải thoát. Đây là phương
pháp cần thiết, đòi hỏi những cố gắng kiên trì để kiểm soát Tâm và Thân.
Thiền định Thiền
định là phương pháp tu luyện chân xác nhất, cũng là phápmôn khó nhất trong tu
tập; tuy nhiên cũng mang lại những kết quả vi diệu nhất trên bước đường tu
học.Thiền định cho đúng cách, theo lối nhận định của những vị Chân sư Kim Cang
Thừa đòi hỏi phải áp dụng lối công phu gấp trăm lần những phép tu khác như đọc
Thần Chú, tu khổ hạnh, quán tưởng. Trước khi Thiền định, phải chuẩn bị cho thân
tâm thanh khiết, an lạc, bỏ tạp niệm, tạo quang cảnh trống vắng.
Giai đoạn đầu trong việc tu Thiền
định theo Mật Tông là phải luyện tập cho xác thân không mệt nhọc trong thời gian
ngồi thiền, phải chọn cách luyện tập thích hợp, từ dễ đến khó. Phải chọn tư thế
đem lại sự thoải mái, bình thản, tự tại trong khi Thiền định. Việc luyện tập nầy
đòi hỏi một thời gian để làm quen để uốn nắn gân cốt mình vào vị trí nhất định,
đem lại sự bình thản, tự nhiên cho cơ thể.
Giai đoạn thứ hai là tập luyện hô
hấp, dựa theo phương pháp đặc biệt, để có thể mang lại sự thoải mái toàn vẹn cho
thân xác. Luôn luôn theo dõi, để xem có những phản ứng gì không. Tùy theo tuổi
và tùy theo sức khoẻ, để chọn cách Thiền định, thời gian thích hợp. Như thế mới
có thể kiểm soát được tâm và Thân của mình, đạt được kết quả tối đa trong hành
trì tối thiểu. Đây là cách tu luyện khó khăn tối đa, những lại là phương pháp
độc nhất được ghi nhận trong Cổ Thư của Giáo phái Bon Pa Tây Tạng.
Các giáo phái
Do
những nhu cầu khác nhau và ảnh hưởng xã hội khác nhau, PhậtGiáo Tây Tạng phân
chia ra nhiều giáo phái:
Phái Cổ Mật:Giáo phái dầu tiên được gọi
là phái Cổ Mật (Nyingma Pa) do đại sư Padma Sambhava, xuất hiện vào hậu bán thế
kỷ thức XIII và thịnh hành trong những thế kỷ IX và X sau đó. Đây là giáo phái
phát khởi đầu tiên trong việc truyền bá Mật Tông tại Tây Tạng. Chẳng bao lâu ảnh
hưởng của giáo phái nầy lan truyền rộng. Vì dung hợp những tăng sĩ và tu sĩ tại
gia cho nên được gọi là giáo phái mũ đỏ. Vì có công lực trừ những ngoại đạo tà
ma cho dân chúng cho nên được xem là một vị Bồ Tát; về giáo lý, Ngài đã đạt được
giáo lý tối thượng, cho nên được ca tụng là vị đạo sư liễu ngộ thuợng thừa.
Nhiều truyền thuyết nói về tài năng của Ngài trong việc nhiếp phục những phe
phái chống đối, loại trừ những ảnh hưởng tai hại cho dân chúng đồng thời xiển
dương Mật Tông rộng lớn và sâu sắc. Gọi là giáo phái Cổ Mật, vì trong việc tu
tập, thường tập trung về "mật", từ những nghi lễ huyền bí, cho đến việc dùng
thần chú, ấn quyết, trị bệnh. Về những lễ Điểm Đạo, chủ trương của giáo phái nầy
rất nghiêm nhặt trong việc chọn đệ tử qua những cuộc thanh lọc, chọn lựa vô cùng
công phu, theo đúng nguyên tắc truyền thống. Trong vòng năm năm mới tổ chức một
lần ở một địa phương và mỗi lần không quá 10 giới tử được nhập đàn. Theo lịch sử
Mật Tông thì những đàn tràng Mạn Đà La đầu tiên do giáo phái Cổ Mật đề ra.Trong
giai đoạn đầu, giáo phái nầy không tổ chức thành lập nhữngtu viện, những tăng sĩ
chỉ tu trì trong những hang động, mậtthất; mãi đến thế kỷ thứ XI mới lập Tu viện
đầu tiên, nhưng việcchọn lựa đệ tử rất ít ỏi và có quy củ. Giáo phái
Sakya Vị tổ sư khai sáng giáo phái Sakya là Ngài Khon Koncho Gyalpo,
được tôn vinh là "ánh sáng rạng ngời Tây Tạng". Khởi đầu vào hậu bán thế kỷ XI
tại vùng tây bắc Tây Tạng; sau phát triển sâu rộng khắp nơi, đến cả vùng Buttan,
Kashmir và Trung Hoa. Nguyên tắc căn bản của giáo phái nầy gồm có những điểm
chính sau đây:
Về
giáo lý: Quán triệt tất cả giáo lý Mật Tông nguyên ủy. Tu sĩ ổ cấp bậc nào thì
học hỏi những mật ngữ ở cấp bậc đó.
Tăng đoàn: Phân chia ra làm 12 cấp bậc khác nhau. Mỗi
cấp bậc phải theo đúng giáo quy. Từ cấp nầy sang cấp cao hơn, phải qua những thử
thách khó khăn. Tăng sĩ phải theo 312 giới luật. Đàn pháp Mandala được thiết trí
do những cao tăng thiền đức đã đốn ngộ. Tôn thờ các Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát
(Avalokitesvara) Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjusri), Kim Cang Thủ Bồ Tát
(Vajrapani). Những vị đại sư nổi tiếng về kinh điển và hạnh nguyên trong giáo
phái nầy phải kể đến Ngài Kunga Gyaltsen (1182 - 1251) và Ngài Phagpa Lodro
Gyaltsen (1235 - 1280). Cho đến nay, nhiều vị Lạt Ma nổi tiếng ở trong giáo phái
nầy.
Giáo phái Kagyu Pa Trong Phạn kinh, từ
"Kagyu" có nghĩa là: giáo lý được truyền thụ bằng mật ngữ từ vị Kim Cang Sư. Đây
cũng là điểm quan trọng trong Mật Tông, nhưng trong giáo phái Kagyu Pa, những vị
danh sư thường tu tại mật thất và trong hai ba năm mới tạm trở ra, và truyền thụ
những mật ngữ (chơn ngôn). Những kinh điển của giáo phái rất nhiều tuy nhiên,
các giới tử phải trải qua những thực chứng khó khăn mới được truyền ý nhiếp tâm.
Vị đệ nhất sư tổ của Kagyu Pa là Ngài Tipola (988 - 1069). Ngài vốn là người Ấn,
nổi tiếng chân tu vào đạo hạnh. Theo truyền thuyết, Ngài là hoá thân của Kim
Cang Phật, trải qua 42 lần chuyển hoá. Đạo hạnh của Ngài rất uy nghiêm và thận
trọng trong cách chọn đệ tử và tổ chức Điểm Đạo. Những vị chân sư của giáo phái
nầy phải kể đến: Ngài Naropa (1016 - 1100), Ngài Marpa (1012 - 1098), Ngài
Milarepa (1040 - 1123).
Giáo phái Gelug Pa (mũ vàng): Được sáng lập vào năm 1409, do Ngài Tsong Khapa. Đến
nay những vị Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo Tây Tạng đều xuất thân từ giáo phái nầy.
Ngài Tsong Khapa nổi tiếng về thuyết pháp và đàm luận, đồng thời cũng có những
tư tưởng canh tân Phật Giáo Tây Tạng để thích nghi tùy theo hoàn cảnh xã hội.
Cũng nhờ những biến đổi trong tổ chức và hoạt động văn hoá, xã hội, giáo dục cho
nên giáo phái nầy trở nên hưng thịnh và ảnh hưởng lớn nhất. Những luật tắc của
giáo phái nầy rất nghiêm minh, cho nên trong những Tu viện của giáo phái đã đào
tạo nhiều cao tăng nổi tiếng về nhiều phương diện.
Giáo phái Rime Vào thế kỷ thứ XIX, có một
số biến chuyển trong Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng, điều mà những nhà nghiên cứu
gọi là "cải cách Phật Giáo". Vị chủ trương nầy là Ngài Jampon Kongtrui, khai
sinh ra giáo phái Rime. Theo nguyên nghĩa Rime là "không thành kiến". Có người
dịch là "chủ nghĩa đại đồng". Cả hai cùng trong một nhận định chung: các giáo
phái thường có những tranh luận. Cần phải hoà hợp thì Mật Tông có thể đi xa hơn.
Như đã nói, Ngài Jampong Kongtrui đã nhận lễ Điểm Đạo
của 135 đại sư các giáo phái. Vị nầy chủ trương thu thập những tinh hoa của các
giáo phái, để rồi từ đó tạo cho phái Rime có sắc thái phong phú hơn. Tuy nhiên,
giáo phái nầy nhấn mạnh nhiều đến "Thiền quán" hơn là "Mật". Theo Ngài Jampon
Kongtrui, cần phải học hỏi lẫn nhau, mới có thể theo kịp trào lưu tiến hoá. Vị
nầy cũng than phiền Tây Tạng thường bị những nước xâm lăng vì đã không chú trọng
về mặt nầy để bảo vệ quốc gia, vì Hội đồng Chánh Trị Tây Tạng đều là những nhà
sư.Về phương diện "Mật" và Điểm Đạo, Ngài Jampon Kongtrui nhấn mạnh: "Những hạn
chế và bí mật truyền thừa gây trở ngại. Tại sao chúng ta không tiếp tục "mua" lễ
Điểm Đạo như cho đến nay chúng ta vẫn làm? Phải xét lại 2 vấn đề chính của Mật
Tông: Hành trì và truyền thống. Hành trì nghiêm ngặt đã khiến cho nhiều người
ngại ngùng trong khi mỗi một chúng sanh đều có Phật Tánh và cần khai mở Phật
tánh đó. Truyền thống của Tây Tạng có những hủ tục, cần sửa đổi...".
Trong nhận thức Điểm Đạo đang thực
hiện khắp nơi, Ngài viết: "Người ta đã tìm đến lễ nầy như những người thích
sưu tầm những đồ la. Kỳ thực, Điểm Đạo chỉ là bước dẫn nhập. Còn bao nhiêu điều
cần học hỏi và hành trì sau nầy". Theo Ngài, việc tập hợp 8 hệ phái lớn của
Mật Tông là điều quan trọng. Những Giáo phái lớn như phái Gelupsa (mũ vàng),
Sakya Pa (áo vải), Kagyu Pa (mũ đen), Nyingma Pa (Cổ Mật) cần dấn thân trong
việc hoà hợp nầy. Ngài kêu gọi: -" Các vị lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng nên
cùng nhau họp lại. Hã ycùng nhau thực hành pháp môn thiền định! hãy tỉnh thức
trong sự truyền thừa, thay vì việc mời hàng trăm người về xây lên những ngôi đền
tráng lệ. Không nên quá chuộng hình thức như thế. Hãy cảm nhận sảng khoái khi
ngồi trên toạ cụ, đi sâu vào việc chiêm nghiệm đạo lý và cuộc đời. Trở về hành
trì chính là trọng điểm của cuộc cải cách tôn giáo Tây Tạng...".HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.25/10/2012.
No comments:
Post a Comment