Monday 22 October 2012

Ba yếu tố cốt lõi của thiền tập.
 
Ngày nay, Thiền tông đang phát triển nhanhnước Mỹ, những quốc gia phương Tây khác cũng đang được nhiều người quan tâm hơn, đặc biệt trong giới trẻ. Tuy nhiên, nhiều người cảm thấy thích thú đối với Thiền ngay từ lúc đầu, nhưng chỉ một số ít người theo đuổi cho đến mục đích cuối cùng.
Tại sao như vậy? Tại sự quan tâm của họ không được xây dựng trên nền tảng vững chắc, nhiều người đã từ bỏ sự theo đuổi đối với Thiềngiữa chừng. Sự quan tâm của họ chỉ đơn thuần sự , đến rồi đi, vào rồi lại ra một cách dễ dàng như sự thay đổi áo quần vậy. Để kiên trì theo con đường của Thiền thì ngay từ đầu cần phải biết rèn luyện ba nhân tố cốt lõi của thiền tập.
Bước đầu tiên đó phải niềm tin sâu sắc. Khi chúng ta chấp nhận thực hành thiền thì chúng ta phải niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, phải duy trì niềm tin ấy xuyên suốt toàn bộ quá trình thực tập thiền của mình. Tuy nhiên niềm tin được đòi hỏi trong Thiền tông khác nhiều so với niềm tin được yêu cầu trong những tôn giáo khác. Những tôn giáo khác thì yêu cầu chúng ta đặt niềm tin vào một đấng siêu nhiên chúng ta phải đồng ý với một vài lời xác nhận liên quan đến bản chất, thuộc tính hành động của đấng siêu nhiên ấy; chúng ta thể gọi niềm tin theo kiểu này niềm tin vào người khác. Ngược lại, niềm tin trong Thiền niềm tin vào chính mình. Theo như lời Đức Phật dạy, mọi chúng sanh đều Phật tánh, đều khả năng thành Phật. Chúng ta chưa phải những vị Phật tại chúng ta chưa khám phá ra được Phật tánh ấy. Niềm tin sâu sắc được nói đến trong Thiền tông sự tin tưởng rằng Phật tính hiện hữutrong ta với sự tu tập theo phương pháp Đức Phật đã dạy, ta thể đạt đến sự chứng ngộ Phật tánh ấy. Để nhận chân được Phật tánh của mình điều không đơn giản. đòi hỏi sự thực tập không ngừng nghỉ sự chiến đấu cam go trường kỳtrong bản thân chúng ta. Bởi thiền tập khó khăn như thế cho nên nhiều người đã bỏ giữa chừng, thế không nhiều vị Phật trên thế giới. Đấy chính do tại sao cần phải niềm tin sâu sắc. Điều đầu tiên quan trọng nhất đó tin vào khả năng tiềm ẩn bên trong chúng ta, tin rằng hạt giống của sự giác ngộ nằmbên trong chúng ta, chúng ta không từ bỏ niềm tin này cho gặp nhiều nội ma, ngoại chướng trên đường tu.
Chúng ta thể tin chúng ta khả năng thành Phật không? Tại sao không? Đức Phật vốn cũng một người bình thường như chúng ta. Ngài cũng máu đỏ nước mắt mặn, thân tâm của Ngài cũng không khác so với chúng ta bao nhiêu. Khi Ngài chưa giác ngộ, Ngài cũng đã những tình cảm thường tình, cũng những lo âu, những sự mâu thuẫn những điều hoài nghi. Nhưng nhờ sự tham thiền Ngài đã tự trau dồi khám phá ra được Phật tánh của Ngài, thế Ngài đã thành Phật, một đấng Giác ngộ. Chúng ta cũng vậy, với tất cả những rắc rối, với tất cả những yếu điểm, những chướng ngại của mình, chúng ta vẫn khả năng để trở thành một vị Phật. Nếu phát triển niềm tin này theo đuổi cho đến đích điểm cuối cùng thì sẽ không chướng ngại lớn lao nào chúng ta không thể vượt qua được.
Nhiều người cho rằng con người được tạo nên bởi hoàn cảnh môi trường. Theo Thiền tông thì con người tạo nên môi trường thế chính con người kiến tạo bản thân họ. Bất cứ nhữngchúng ta trở thành, vớicách nhữngnhân, đều phụ thuộc vào tâm thức của chính chúng ta. Bất cứ nhữngthế giới này trở thành, đều tùy thuộc vào tâm thức tập thể của mọi người. Thông qua xu hướng ý chí của chúng ta, khả năng cấu thành của tâm thức, chúng ta thể thay đổi thế giới này trở thành một thế giới tốt hơn, thay đổi chính chúng ta trở nên những con người tốt hơn. Có một câu nói trong Thiền tông rằng: “Sanh tử niết bàn, niết bàn từ trong sanh tử”. Thế giới này luân hồi sanh tử hay niết bàn đều hoàn toàn phụ thuộc vào trạng thái tâm thức của chúng ta. Nếu tâm chúng ta giác ngộ thì thế giới này cảnh giới niết bàn; nếu tâm chúng ta chưa giác ngộ, thì thế giới này cõi luân hồi sanh tử, đầy khổ đau, lo âu bất hạnh. Có một vị thiềnđã từng nói, nước vốn một tính chất thôi, nhưng nếu một con bò uống nước vào thì chuyển hóa thành sữa, trong khi một con rắn uống vào thì biến thành chất độc. Tương tự như vậy, cuộc đời này hạnh phúc hay đau khổ đều tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của chúng ta, chứ không phải tùy thuộc vào thế giới. Vì thế chúng ta phải tìm cách chuyển hóa tâm thức, phải để cho tâm đạt được trạng thái tỉnh thức, điều này đòi hỏi một niềm tin sâu sắc ngay từ lúckhởi, tin vào chính mình tin vào sức mạnh tiềm tàng trong tâm chúng ta.
Nhân tố thứ hai trong Thiền tông đó ‘đại nghi’. Phương pháp của Thiền rất khoa học. Trong khoa học, chúng ta được chỉ dạy rằng đừng bao giờ tin bất cứ một điều gì trừ khi điều đó được chứng minh bằng thực nghiệm. Thiền cũng quan điểm như vậy. Chúng ta không tin tưởng bất cứ điềumột cách mù quáng; đúng hơn bản thân chúng ta phải chứng minh tính đúng đắn của . Đức Phật đã dạy rằng, tất cả chúng sanh đều Phật tánh. Nếu thế thì Phật tánh ấy ở đâu? Chính chúng ta phải khám phá điều đó tiếp tục hoài nghi cho đến khi nào chúng ta khám phá ra mới thôi. Không giá trị gì cả nếu như chúng ta chỉ học những lời dạy của Đức Phật như một con vẹt. Chúng ta phải xác chứng những lời dạy của Phật bằng cách tìm kiếm trong nội tâm của chúng ta cũng như kiếm tìm ở thế giới xung quanh ta. Vì thế hoài nghi một phần rất quan trọng trong thiền tập. Một thiền sư, một giáo viên hay một vị tu thể dạy nhiều thứ. Một vài điều trong đó chúng ta thể tin, còn những điều khác thể chúng ta không tin. Nhữngđược chấp nhận hay từ chối tùy thuộc vào sự nhận định của chúng ta. Chúng ta quyền đánh giá; thật sự nói thì tốt hơn hết tự mình đánh giá. Chúng ta đi theo nhữngchúng ta cho tốt từ chối nhữngchúng ta cho không tốt. Mặc thiềndạy những phương pháp thực tập thiền cho các học trò định hướng cho sự phát triển của họ, nhưng thiềnkhông bao giờ xem chính họ một hành giả đứng giữa Đức Phật con người hoặc giữa niết bàn sanh tử luân hồi. Thiền sư xem những lời dạy, những phương pháp của mình chỉ ngón tay chỉ mặt trăng. Chỉ như ngón tay dùng để định hướng cho việc nhìn thấy mặt trăng, cho nên những lời dạy của họ được sử dụng như sự dẫn dắt để thấy chân . Và một khi chúng ta thấy được mặt trăng rồi thì chúng ta không cần bám theo chiều hướng của ngón tay nữa. Đôi khi vị thiềnnói đúng, nhưng đôi khi vị ấy thể không đúng. Vì vậy chúng ta không nên tin tưởng đi theo chiều hướng của vị ấy một cách mù quáng, hãy kiểm tra bằng chính kiến thức kinh nghiệm của mình. Nếu tốt cho bản thân chúng ta cho người khác thì chúng ta thể tin tưởng . Ví dụ: Nếu một người không quen lắm với Los Angeles bị mất phương hướng, anh ta thể lái xe vào một trạm xăng hỏi nhân viên cây xăng làm sao để đến được địa chỉ anh ta đang tìm kiếm. Đôi khi người nhân viên ấy đưa ra những hướng đi đúng, người ấy lái xe đến đúng địa điểm cần tìm một cách dễ dàng. Nhưng cũng đôi khi người tài xế được chỉ đi về hướng Đông, trong khi đó sự đánh giá tốt hơn của anh ta nói với anh ta rằng, anh nên đi về phía Tây. Thế thì anh ta phải làm gì? Anh ta nên tin vào người nhân viên từ bỏ tất cả niềm tin vào chính mình? Hay anh ta nên không nên làm thế, hãy tin vào sự nhận định tốt hơn của anh ta tìm ra những phương hướng đúng ở một nơi khác? Vì thế, nếu chúng ta tìm kiếm lời khuyên của nhân viên ở trạm xăng, chúng ta nên chấp nhận lời khuyên ấy kèm theo một chút hoài nghi. Chúng ta nên nhận diện khả năng rằng anh ta thể đúng hoặc anh ta thể sai.
Cho nên yếu tố thứ hai trên suốt con đường thực tập thiền nghi vấn hoài nghi mọi thứ cho đến khi chúng được kiểm chứng. Yếu tố thứ hai này rất hữu ích. Tuy nhiên thái độ hoài nghi quá đáng thì cũng không tốt tí nào cả. Nhưng cần phải thái độ hoài nghi. Có một thái độ hoài nghi được sinh ra từ quan điểm trí hạn hẹp, từ chối tin tưởng vào bất cứ điều cảm thấy vui đối với việc duy trì một thái độ tiêu cực. Và một loại thái độ hoài nghi lành mạnh, đấy thái độ hoài nghi đưa chúng ta bước lên những bậc cấp trên con đường dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn. Nếu chúng ta đi theo thái độ hoài nghi thứ nhất thì chúng ta sẽ hoài nghi về chính tiềm năng bên trong của chúng ta, về khả năng thành Phật của chúng ta, cũng như hiệu quả của những sự thực tập được đưa ra để dẫn dắt chúng ta đến đích. Loại hoài nghi này chỉ dẫn đến một cái đích tiêu vong. Nhưng nếu chúng ta đi theo loại hoài nghi phóng khoáng hơn, giữ cho tâm chúng ta luôn cởi mở đánh giá mọi thứ một cách phê bình để rồi xác định đúng hay sai, điều đó quả thật rất hữu dụng. Chẳng hạn, khi một thiềnnói với một nhà tâm học rằng, tham thiền thể giúp những người bị tâm bệnh hoặc bị căng thẳng, nhà tâm học ấy sẽ không vội tin nhữngvị thiềnnói, ông ta sẽ đặt câu hỏi cho vấn đề đó. Ông ta sẽ kiểm tra giả thuyết này thậm chí dùng các công cụ để kiểm nghiệm. Chỉ sau khi lặp đi lặp lại việc kiểm tra, thử nghiệm ông ta mới đi đến kết luận. Tương tự như vậy, khi chúng ta thực tập thiền, câu hỏi chúng ta nên đặt ra : tại sao tôi phải tọa thiền? Nếu tôi tiếp tục thực tập theo phương pháp này thì tôi sẽ đạt được kết quả gì? Tiếp tục trả lời, hỏi thực hành. Một lúc sau, nếu chúng ta nhận thấy rằng tham thiền giúp làm chủ tâm, rằng tham thiền giúp chúng ta hiểu bản thân hiểu người khác nhiều hơn, rằng dẫn đến sự điềm tĩnh, lòng khoan dung, niềm hạnh phúc sự thanh bình thì chúng ta tiếp tục thực tập. Còn nếu không đem đến lợi ích gì thì chúng ta nên tiếp tục thực tập không? Có lẽ những pháp tu khác sẽ tốt hơn. Vì thế chúng ta phải đặt nghi vấn hoài nghi. Chính những kinh sách về thiền cũng đã dạy rằng: “Đại ngộ xuất phát từ đại nghi”.
Yếu tố cốt lõi thứ ba sự quyết tâm mạnh mẽ. Sau khi chúng ta đã giải quyết xong những hoài nghi của mình đã sẵn sàng để bắt đầu quá trình thực tập, chúng ta phải nâng cao tinh thần quyết tâm. Chúng ta phải tạo ra sự kiên định vững vàng để tiến về phía trước tiếp tục thực tập cho bao nhiêu chướng ngại chúng ta thể gặp phải trên đường tu của mình. Chúng ta phải phát nguyện không bao giờ từ bỏ, ngược lại còn tinh tấn thực tập. Để phát triển sự quyết tâm mạnh mẽ, chúng ta phải kiên nhẫn nghiêm khắc với chính mình. Nếu thiếu những thứ này, khi chúng ta vấp phải những khó khăn trong việc thực tập thiền, chúng ta sẽ nghi ngờ về khả năng đat được sự giác ngộ của mình sẽ sớm từ bỏ. Do vậy chúng ta không bao giờ đạt đến đích của mình. Chúng ta không được nôn nóng về những thành quả của sự tu tập, bản thân chúng ta phải nghiêm khắc để thực tập không sự mong cầu, cũng không dự phòng. Như Khổng Tử đã nói: “Không mong cầu sớm đạt được kết quả, cũng không trông đợi những điều lợi nhỏ”. Nếu ai tìm kiếm những kết quả nhanh chóng, người ấy sẽ không đạt đến kết quả tuyệt đối. Nếu người nào bị dẫn đi lạc đường bởi những lợi ích nhỏ thì người đó sẽ không bao giờ đạt được những thứ lớn lao. Nói chung, đối với người phương Tây, thật khó cho họ khi thực tập không hướng đến những kết quả ngay tức thì. Một vị thiềnngười Nhật đã từng nói: “Con đường học thiền không giống như con đường học vấn ở trong trường đại học. Chúng ta không xác định một khoảng thời gian để luyện tập rồi sau đó nhận văn bằng tốt nghiệp. Học thiền không phải vấn đề vài tháng, vài năm suốt cuộc đời. Có thể bạn xem tôi như một vị thầy, nhưng tôi lại xem bản thân tôi như một học viên thực tập mỗi ngày.” Hầu hết những người phương Tây luôn sống trong sự vội vàng. Khi họ đến với thiền, họ thực tập rất khó khăn trong thời gian đầu, nhưng khi họ không đạt được những kết quả nhanh chóng thì họ lại từ bỏ. Cho nên chúng ta không được mong chờ những con đường tắt. Nếu chúng ta trông đợi những con đường tắt thì chúng ta sẽ không duy trì được lâu.
Thiền trong Phật giáo không hứa hẹn bất kỳ con đường tắt nào cả. Các con đường tắt thể đem đến những kết quả nhanh chóng, nhưng chúng không kéo dài chúng cũng không ảnh hưởng lâu bền đối với đời sống của một người được. Trong thiền tập, chúng ta phải nghiêm khắc với chính mình mỗi ngày, thực tập nâng dần từng bước chứ không từ bỏ giữa chừng. Thông qua hành thiền, chúng ta không chỉ được những trải nghiệm đích thực hơn còn khiến cho những trải nghiệm ấy tồn tại lâu hơn với chúng ta. Chúng sẽ được hòa quyện vào trong cuộc sống của chúng ta, tạo ra những thay đổi đáng kể theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn, tiến dần đến sự thực chứng giác ngộ. Và điều quan trọng nhất những thay đổi này do chính chúng ta tạo ra.
Chỉ một loại tốt nghiệp trong việc học thiền, đấy chính đạt được sự giác ngộ tối thượng, thành Phật. Tuy nhiên, trong chúng ta ai cũng Phật tánh, nhưng thành Phật thì không phải dễ. Điều này không chỉ xảy ra đối với chúng ta đối với chư Phật cũng thế. Chính Đức Phật đã nói: “Trên vũ trụ này, không một điểm nhỏ như hạt cải nào trên mặt đất này Ngài chưa từng hy sinh tánh mạng hoặc chưa từng bị chôn vùi xương ở đấy”. Thật khó tưởng tượng không biết bao nhiêu kiếp Ngài đã tái sinh trong vũ trụ này, trau dồi trí tuệ đức hạnh để đạt được Phật quả. Vô số lần, không chỉ trong quá khứ cả trong đời hiện tại, Ngài đã dành trọn 6 năm để tu khổ hạnh 49 ngày đêm tọa thiền. Ngài Bồ-đề Đạt-ma cũng đã thực hành 9 năm sau khi ngài đến Trung Quốc. Đối với vấn đề này, một số vị Thiền sư khuyên rằng, nếu tâm được xem như một cái gương soi thì “hãy giữ cho luôn được sách sẽ, đừng để bụi bám lên nó”. Nói cách khác, các Thiền sư khuyên hành giả phải thực tập thiền mỗi ngày, đừng bao giờ rút ngắn, đừng bao giờ từ bỏ hãy tiếp tục.
Trong truyền thống của nhà thiền, đặc biệt trong đời sống ở thiền viện, người tu thường sắp xếp một khoảng thời gian nhất định cho việc thực tập thiền chuyên sâu. Những khoảng thời gian này gọi “nhập thất”, thể 3 ngày, một tuần, 3 tuần, 3 tháng hoặc lâu hơn. Trong thời gian nhập thất, thiền sinh phải sắp xếp thời gian để tham vấn thiền sư, để nói lên những nghi vấn trình bày những điều thiền sinh hiểu hoặc những kết quả đạt được. Trong hầu hết các trường hợp, khi thiền sinh trình bày kiến giải của họ, các thiềnđều trả lời: “Chưa được, cần phải thực tập nhiều hơn nữa”. Thiềnphải nói như thế. Nếu như thiền sư tán đồng, thế hết, không còn gì thêm nữa. Họ phải nói chưa đạt để khuyến khích các thiền sinh thực tập. Nếu người nào không hiểu về phương pháp tu thiền, họ sẽ bị thất vọng từ bỏ, không bao giờ thực tập trở lại. Nhưng nếu thiền sinh hiểu rõ lối giáo dục này, họ sẽ không bị thất vọng, ngược lại còn tiếp tục thực tập với quyết tâm mạnh mẽ hơn. Câu trả lời “chưa được” thiềnnói với thiền sinh không ý chối bỏ, một cách để khuyến khích thiền sinh tiến về phía trước, cố gắng nhiều hơn nữa. Thiềnkhông muốn học trò của mình dừng lại trong sự hài lòng với những thành quả nhỏ bé, với tâm từ bi, họ muốn hướng dẫn cho người học trò trên lộ trình từ bến mê đến nơi bờ giác, từ trầm luân sanh tử đến niết bàn an vui. Vì thế, quyết tâm dũng mãnh rất quan trọng. Hành thiền một quá trình lâu dài trong suốt cuộc đời. Cũng giống như việc chúng ta hít thở ăn uống mỗi ngày, chúng ta phải thực tập thiền mỗi ngày. Cả hai vấn đề hít thở ăn uống đều rất quan trọng cho cuộc sống, hành thiền cũng vậy, thiền định giúp cho chúng ta giữ được sự cân bằng trong cuộc sống, hiểu hơn về chính mình, về bản chất của cuộc đời. Thiền tạo ra nền tảng vững chắc cho sự hòa hợp giữa ta người, giữa ta vũ trụ. Vì thế, thiền không phải vấn đề trong một vài ngày, vài tuần, vài tháng, vài năm, vấn đề của cả cuộc đời mình. Nếu chúng ta quyết tâm mạnh mẽ trong sự thực tập, không còn hoài nghi thì chúng ta sẽ đạt được kết quả cuối cùng, trạng thái giác ngộ, thực chứng với trí tuệ siêu việt từ bi vô lượng.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.23/10/2012 ).

No comments:

Post a Comment