- ĐẠO ĐỨC NGƯỜI XUẤT
GIA
- Đại sư Liên
Trì
- CHƯƠNG
5
- HẠNH TRUNG
THÀNH
5.1. Giảng rõ về báo
ứng
Vào thời Tam Quốc (220-280),
nước Ngô (222-280), thủ đô là Kiến Nghiệp, sư Khương Tăng Hội (người Việt Nam),
sang truyền đạo và lập chùa Kiến Sơ (247-Xích Ô năm thứ
10).
Có một hôm vua Ngô Tôn Quyền
xuống lệnh triệu kiến sư, hỏi: “Sư có thể
nói cho trẫm nghe một ít đạo lý thiện ác, báo ứng của Phật pháp không?.”
Sư đáp: “Bậc quân chủ anh minh có thể dùng hiếu
thuận và từ bi để cai trị thiên hạ thì chim sắc màu hồng sẽ bay lượn*, thọ tinh xuất hiện; dùng nhân thiện và
từ bi để giáo dục vạn dân thì trên đất sẽ vọt ra dòng suối ngọt, ngon, tươi mát,
sản xuất các loại ngũ cốc tốt đẹp, tròn đầy … làm chính trị bằng điều thiện đã
có báo ứng tốt đẹp như vậy thì làm việc ác cũng có ác báo tương tự. Cho nên
trong lòng làm ác, tuy người không biết, nhưng quỷ thần muốn giết y, làm ác rõ
ràng trong nhà tích chứa điều thiện thì niềm vui vẻ có dư”.Trong kinh thi cũng
khen Dương Quân Tư cầu phước phải làm đều chánh hành việt thiện, không thể đi
vào con đường tà ma, ác đạo, đây tuy là những lời dạy của các ông chu công,
Khổng Tử… nhưng Phật giáo cũng dạy rõ ràng như
vậy.
Vua lại hỏi: “Chu Công, Khổng Tử đã đưa ra những đạo lý
như vậy, hà tất phải dùng đến chân lý của Phật
giáo?”.
Sư đáp: “Những thánh hiền nhà nho như Chu Công,
Khổng Tử không muốn đi sâu vào vấn đề chi tiết này, cho nên chỉ đại lược nói như
vậy; còn như sự giáo hoá của Phật, không
chỉ trình bày những vấn đề trước mắt mà còn nói rõ cả quá khứ vị lai, tinh tường
vi tế, cho nên diễn bày rất đầy đủ.Thánh nhân chỉ sợ pháp thiện không nhiều, bệ
hạ thêm phiền phức là đạo lý gì?
Vua Ngô nghe rồi rất tán
đồng
5.2 Khuyến thiện trừ
hoạ
Triều nhà Tấn, tại Thế
Thanh, Sơn Trúc, sư Pháp Khoáng.
Có một hôm, Giản Văn Đế
(371-373) xuống thư thăm hỏi sư hàng
ngày sống có được an lạc không? Đồng thời thỉnh giáo sư về hiện tượng xuất hiện
yêu tinh là thế nào và nhờ sư nghĩ biện pháp. Sư viết thư trả lời : “Vua Tề Cảnh Công thực hành chính trị bằng
lòng nhân từ, tích âm đức, yêu tinh xuất hiện xưa nay đều tiêu mất hết, nay dám
xin bệ hạ cũng nên cần tu nhân, tích đức mà cai trị thiên hạ để phòng ngừa sự
quở trách và giáng hoạ thiên thượng! Bần Tăng nhất định dốc hết tâm lực làm việc
diệt trừ tai hoạ cầu phước may”. Thế rồi sư và đệ tử cùng nhau chí thành lễ
Phật sám hối, không bao lâu yêu tinh biến mất.
5.3. Luận về giữ
giới
Triều nhà Tấn, ở huyện
Nghiệp, sư Phật Đồ Trừng, người Trung Thiên Trúc; sau nhân vì Triệu Vương Thạch
Lạc hiếu sát, sư liền đến chỗ của Thạch Lạc. Lạc hỏi sư: “Đạo Phật có gì linh
nghiệm?”
Sư biết Lạc không hiểu đạo
lý, đối với Phật giáo chưa có tín ngưỡng gì, chắc phải hiển thị một ít thần
thông, pháp thuật để đã động tâm y trước, thế là sư cầm một bát nước, đốt hương
niệm chú, không bao lâu trong bát hiện lên một hoa sen xanh, Thạch Lạc bấy giờ
liền tín phục.
Sư thừa thế tiến đến nói: “Người làm vua một nước nếu như dùng sức
mạnh của lòng nhân để nhiếp chính thiên hạ, dùng ân đức ban bố bốn biển, thì sẽ
có bốn loài vật linh: thần long, chim phượng, kỳ lân, và thần quy xuất hiện,
biểu thị cho vận nước tốt đẹp, xương long; còn nếu như làm chính trị mà bất
nhân, hoành hành vô đạo thì trên trời xuất hiện các yêu tinh như sao chổi, sao
chổi rực sáng… biểu hiện trong thiên hạ sắp có tai hoạ, loạn lạc khởi lên, vận
nước không tốt. Tinh tượng đã hiện rõ ràng, kiết hung, hoạ phước tức thì sẽ đến,
thiện thì được thiện báo, ác thì ác báo, đây là biểu tượng thường có từ xưa đến
nay, người trời đã cảnh cáo như vậy!”
Thạch Lạc nghe rồi rất vui
mừng, hoan hỉ. Nhiều người sắp bị giết nhân đây mà được tha
mạng.
Bình
luận:
Các thời đại Nguỵ, Tấn, Nam
Bắc triều rất kỳ lạ, đặc biệt có rất nhiều cao Tăng đại đức thánh hiền xuất
hiện, không chỉ trong thời thái bình mà ngay cả trong thời loạn lạc. Nguyên nhân
vì sao ? Thật ra, nguyên do là vì lúc bấy giờ, thế vận nguy khốn, thời cuộc khó
khổ, nhân dân cùng cực, vật chất thiếu thốn… Chính lúc này là lúc Bồ Tát vận
dụng lòng từ bi cứu khổ cứu nạn! Đây không phải chính là điều mà người ta nói
là. “Thuốc cứu bệnh tật từ trong sắt đá mà trút ra”
sao?
5.4. Khéo luận về giữ giới trai
giới
Thời Nam Bắc triều, vị cao
Tăng Câu-Na-Bạt-Đa, ở chùa Kỳ Hoàn, tại thủ đô, là người vương tộc nước Kế Tân,
Ấn Độ, xuất gia. Nam triều, Tống Văn Đế, sư
Cầu-Na- Bạt-Đa đến Kiến Nghiệp, Văn đế thỉnh giáo đại sư: “Quả nhân muốn ăn chay giữ giới không ăn phi
thời và không sát sanh, nhưng trẫm làm chủ một nước, nắm toàn bộ chính trị của
quốc gia, mỗi cái đều hạn chế, không thể thoả nguyện, không biết sư có biện pháp
gì mới không?”.
Sư đáp: “Phương pháp tu hành của bậc đế vương và của
thần dân trăm họ có chỗ không giống nhau. Dân trăm họ bản thân nghèo hèn, danh
dự bé nhỏ, cuộc sống phải tự khắc khổ, chịu cực nhọc, cần kiệm mà tu hành ; còn
bậc đế vương cai trị thiên hạ, trong tay nắm giữ trăm họ, chỉ cần nói một câu
nhân đức thì cả quần thần lẫn thần dân trăm họ đều rất hoan hỷ, thực hiện một
chính sách nhân từ thì thần dân đều vui mừng mà tuỳ thuận. Tuy rằng có dùng hình
phạt nhưng không lạm sát sinh mạng. Tuy có thu thuế nhưng không bốc lột, chèn ép
sức lao động của nhân dân, như thế thì thiên hạ được mưa thuận gió hoà, lạnh
nóng thích đáng, trăm loài cốc phát triển tươi tốt. Trai giới như vậy mới là đại
trai giới, đại công đức! Không sát sanh thì đó mới là sự giữ giới không sát đến
cùng cực! Nếu như trong một bữa ăn mà không ăn mặn thì bảo toàn được sinh mạng
loài cầm thú, đó mới là đại từ đại bi đại công
đức!
Văn Đế vỗ bàn cảm thán: “Người đời đối với giáo lý của Phật sâu sa
mầu nhiệm như vậy lại mê mờ không hiểu, không chịu tín phụng, người xuất gia ở
kinh đô thì không biết biến thông theo thời, vận dụng pháp xuất thế mà giáo hoá,
đưa vào đời. Nghe Ngài nói mấy lời như vậy, thì quả là một cao Tăng đã khai ngộ
thông suốt, hạnh giải thấu cả trời người”.
Rồi vua mệnh lệnh cho quan
lại cúng dường sư, toàn quốc đều sùng bái, cung phụng
sư.
Bình
luận:
Bật Đế Vương sở dĩ không tin
Phật pháp, không phải lỗi lầm riêng bản thân Đế Vương, mà thực tế, người giảng
luận Phật pháp cũng có phần trách nhiệm, do không có khả năng trình bày và phát
huy mọi mặt tích cực, uyên áo, nhiệm mầu của Phật pháp. Tôn giả Cầu-Na-Bạt-Ma
nói Phật pháp, đạo lý vừa chính xác vừa viên dung, uyển chuyển, lời giải thích
khéo léo mà không trái với chân lý, đó mới là người chân chính vận dụng dung
thông giữa đạo và đời mà không trở ngại! Xưa nay, những bậc đại phu hiền lương
dâng lời can gián cũng không quá như vậy. Những phàm Tăng cố chấp, biên kiến mà
nắm giữ chính đạo, họ không biết rằng nguyên nhân bậc đế vương không muốn gần
gũi người xuất gia chỉ là vì những người như họ! Sự biến hoá của thần long không
phải loài giun có thể hiểu được, chính là đạo lý này
vậy!
5.5. Luận về sự cúng
dường
Thời Nam triều, đời nhà
Tề(479-502), chùa Chính Thắng, có sư Phát Nguyện, người Dĩnh Châu. Vua Tề Cao Đế
mời sư làm quốc sư, lấy lễ của đệ tử đối với thầy rất hết lòng. Đến đời Tề Võ Đế
kế vị, cũng đối đãi với sư rất mực cung kính.
Có một hôm thái tử Văn Tuệ
đến chùa thăm hỏi sư rồi xin sư chỉ giáo: “Tôi dùng ca múa, tấu nhạc để cúng dường
Phật và Bồ Tát, phước báo đó như thế
nào?”.
Sư đáp: “Thuở xưa Bồ Tát dùng tám vạn loại ca múa âm
nhạc để cúng dường Phật, công đức còn không bằng đem tâm chí thành thanh tịnh
phụng hành Phật pháp, hôm nay người đem thổi mấy khúc sáo, đánh vào da bò chết
(tức đánh trống) mấy tiếng, lại tính công đức
gì?”
Bình luận:
Làm Phật sự tốt (như trai Tăng, thuyết pháp) mà không hiểu giáo lý
Phật dạy, tuy tốn kém rất nhiều tài lực, chỉ có được phước báo hữu lậu nhân
thiên mà thôi. Sư Nguyện nói một câu, không những cảnh tỉnh sự mê mờ của người
thế tục, mà còn là vị thuốc hay - lời nói trung thực - cho người xuất gia đời
sau nữa!
5.6. Thuyết pháp vua nghe
bừng ngộ
Thời Nam Bắc triều, nước Tề,
huyện Nghiệp, núi Tây Long, chùa Vân Môn, có Sư Tăng Trù, người Xương Lộ, lúc 28
tuổi đến chùa Cảnh Minh, ở Cự Lộc, bái sư Tăng Thật làm thầy, thế phát xuất
gia.
Hoàng đế nước Tề, Văn Tuyên
Đế, hạ chiếu 3 lần mời sư đến Kiến Nghiệp giáo hoá quần sanh, sư từ chối không
đi, thế là Hoàng đế đích thân đến thăm sư, rồi đón sư vào cung. Sư vì Văn Tuyên
Đế giảng giải về tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), xưa nay đều mộng
huyễn như hư không, đất nước quốc gia cũng đều do vọng tưởng mà thành (kinh Lăng
Nghiêm “nhân không lập thế giới, tưởng trừng thành quốc độ), cuộc đời là vô
thường. Kế tiếp sư giảng về bốn phương pháp tu tập quán niệm gọi Tứ niệm xứ. Văn
Đế nghe xong hốt nhiên đại ngộ, kinh khủng, mồ hôi rơi xuống như mưa. Liền sau
đó vua quy y thọ Bồ tát giới với sư, bỏ hẳn rượu thịt, thả tất cả những loài
chim dùng để săn bắt như chim sắt, chim diêu, phá bỏ lưới và các dụng cụ đánh
bắt cá. Hạ lệnh cấm hẳn thần dân trăm họ giết hại súc sinh, mỗi năm ăn chay
trường ba tháng (Tháng giêng, 5, và 9), mỗi tháng còn lại ăn chay 6 ngày (1, 8,
14, 15, 23, 29, và 30), và khuyến khích dân chúng thọ trì Bát quan trai
giới.
5.7. Cảm hoá Đông cung thái
tử
Triều nhà Đường, ở Kinh sư,
chùa Phổ Quang, luật sư Huyền Uyển, người Hoa Âm, tỉnh Hoằng Nông. Vào niên hiệu
Trinh Quán thứ nhất (627), vua Đường Thái Tông nhân thấy từ quan trong triều đến
dân dã đều kính ngưỡng đức hạnh giới luật của sư nên mời sư vào cung vì Hoàng
thái tử và các vương công thái tử khác
truyền thọ giới Bồ tát. Sư viết thư gởi cho thái tử : “Hiện tại tôi chỉ nêu lên bốn điểm trọng yếu
của giáo lý đạo Phật, đơn giản, nhưng hi vọng thái tử dụng tâm phụng trì. Một là
thực hành hạnh từ bi, đây là nương theo phẩm hạnh trong kinh Đại Bát Niết bàn,
chỗ ấy nói về tư cách làm người xử sự, nếu dùng ‘nhân’ thì có thể nhiếp thọ giáo
dưỡng trăm họ và cứu tế sự nghèo khổ. Hai là ‘giảm sát sanh’, Đông cung hoàng
thái tử trong một bửa cơm bình thường cũng đã giết hại bao nhiêu sinh vật chiên
xào nấu nướng; nhu yếu vật thực của điện hạ cũng phải cần rất nhiều sức người đi
tìm kiếm lựa chọn, đến nỗi vì vậy mà mất mạng, không thể nói không vì ngài mà
chết, xin ngài bớt sát sanh để cầu trường thọ ! Ba là ‘hoà thuận’. Cái điều mà
chúng ta gọi là ‘không sát’ ấy chính là lòng ‘nhân’, nhân là biểu thị lá gan
trong cơ thể con người, gan thuộc về ‘mộc’ trong thuyết Ngũ hành, cây thì sinh
trưởng và tốt tươi vào mùa xuân, điện hạ là thái tử, vị trí là ‘thiếu
dương’trong ‘Tứ tượng’, phước nằm ở tháng xuân. Cho nên xin điện hạ vào mùa xuân
không được giết hại chúng sanh lấy thịt mà ăn để điều hoà khí huyết. Bốn là ‘ăn
chay’, mỗi năm ăn chay ba tháng (Giêng, năm và chín), còn lại mỗi tháng ăn chay
sáu ngày. Vì sao phải làm như vậy ? Bởi vì hôm nay điện hạ hưởng thụ hưởng báo
đều do điện hạ đã tích tập công đức từ quá khứ, tu hành mà được, nếu như cuộc
sống hôm nay cố gắng tu tập tích đức thêm, thì càng thêm được hoàn mỹ, phước báo
càng thêm lớn.”
Hoàng thái tử trả lời : “Đa tạ sư phụ đã chỉ dạy cho bốn pháp vi
diệu, con sẽ cẩn thận ghi nhớ trong lòng, luôn luôn tín thọ phụng trì, luôn luôn
lấy bốn điều này làm phương châm, kim chỉ nam cho cuộc sống và công việc, ngưỡng
mong quỉ thần trên cao thường luôn ủng hộ”.
5.8. Khuyên bỏ sát
sanh.
Đời nhà Đường, tại Chung Nam
Sơn, chùa Trí Cự, có đại sư Tăng Minh Thiện.
Sư trước đây vốn là một
người bác học đa văn, ôm ấp nhiều hoài bảo và có tài sửa trị việc đời, cứu dân
(kinh bang tế thế). Vua Đường Tông nghe danh sư, hạ chiếu thư mời sư vào Hoàng
cung, xin thỉnh giáo mấy vấn đề. Sư trình bày cặn kẻ nội dung chủ yếu việc trị
nước đồng thời lợi dụng cơ hội lấy đạo lý từ bi của đạo Phật làm tôn chỉ cho
việc cứu dân giúp nước. Đường Thái Tông nghe xong rất hoan hỷ, hạ lệnh cho toàn
dân mỗi năm ba tháng ăn chay trường và mỗi tháng còn lại sáu ngày không được
giết hại sinh vật, rồi đích thân đi khắp các địa phương kiến lập chùa
viện.
5.9. Khuyên tu sám
hối
Thời Nam triều, nước Tống,
chùa Linh Muội, có sư Đàm Tông, người Mạt Lăng.
Sư Đàm Tông xuất gia ở chùa
Linh Muội, đã từng có một lần vì vua Tống Vũ Đế soạn năm pháp sám hối của Bồ tát
thực hiện sáu lần trong một ngày (Một ngày đêm có sáu thời tu tập : sám hối,
khuyến thỉnh, tuỳ hỷ, hồi hướng và phát nguyện). Vũ đế cười mà nói với sư rằng :
“Quả nhân có tội gì mà sư bảo tu sám
hối?”.
Sư đáp : “Ngày xưa vua Ngu, vua Thuấn là bậc đại
thánh còn nói với vua Vũ rằng: ‘Ta làm trái chánh đạo ngài phải phụ chính cho
ta’. Vua Thành Thang nhà Thương, Võ Vương nhà Chu cũng thường nói : ‘Trăm họ có
lỗi lầm gì đều do ta làm bậc quân vương dẫn dắt cả’. Thánh vương xưa nay đều tự
trách mình, đối với bản thân rất là nghiêm khắc, đối với mọi người rất là lễ độ,
thật là bậc mô phạm của thế gian ! Hoàng thượng và thánh nhân thuở xưa đều là
bậc hiền minh hành đạo của bậc thánh vương càng phải khiêm cung, sao có thể
không giống như những bậc thánh vương mà không tự trách mình?”.
Tống Vũ Đế nghe xong rất tán
đồng.
5.10. Chịu phạt chứ không
nói dối
Triều nhà Tống, tại Đông
kinh, phủ Thiên Ninh, huyện Phù Dung, có Thiền sư Đạo Giai, người Nghi
Thuỷ.
Sư Đạo Giai sau khi được ngộ tâm pháp, cực lực
hoằng dương tông phong Tào Động. Vào đời Tống Huy Tông (1101-1126), khoảng niên
hiệu Sùng Ninh (1102-1107), Hoàng đế xuống thư sai sư trú trì chùa Tịnh Nhân ở
Đông Kinh. Đến niên hiệu Đại Quán (1107-1111), đời Tống Huy Tông, chuyển đến
chùa Thiên Ninh, Hoàng đế phái di sứ ban tặng Tứ tử y cho sư và phong hiệu Định
Chiếu thiền sư. Sư dâng biểu từ chối không nhận. Hoàng đế lại mệnh lệnh cho tri
phủ Khai Phong, Lý Hiếu Thọ, đích thân đi phân trần tỏ rõ tâm ý của triều đình
là muốn tôn sùng kính trọng sư, nhưng sư quyết định không tiếp
nhận.
Việc này đã khiến Hoàng
thượng nỗi giận, lệnh cho quan lại chấp pháp xử lý sư. Quan chấp pháp biết sư là
người trung thành từ trước đến nay, có ý tha cho sư, liền hỏi : “Trưởng lão trông có vẻ tiều tuỵ và kém sức
khoẻ quá, có phải bị bệnh không?”
Sư trả lời : “Không có”.
Viên quan lại nói : “Ngài phải trả lời là có bệnh chứ, như vậy
mới có thể miễn bị gia hình”.
Sư nói : “Tôi dám nói dối có bệnh để khỏi bị gia hình
sao?”.
Quan lại nghe rồi than thở
không thôi. Cuối cùng phải chịu phạt, bị đày đến Sơn Đông, vùng Chuy Châu. Mọi
người thấy sư bị lưu đày không ngăn được sự đau xót, rơi lệ. Nhưng sư vẫn tự
nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đến Chuy Châu, sư ở trong một căn phòng rất
thô sơ, những học giả lại thêm thân cận, số người ngày càng đông. Cách một năm
sau, Hoàng thượng hạ lệnh thả tự do cho sư. Thế là sư dựng một thảo am ở Phù
Dung tu hành.
Bình luận :
Vinh hoa, phú quý, công danh
đem tới nơi thân mà còn từ chối, là điều mà người ta khó làm được, từ chối thì
bị phạt, bị phạt mà không cần phải mở lời van xin, có thể nói là cái khó trong
những cái khó. Trong các truyện kí về Trung thần, làm sao không có một chuyện
như đây? Cho nên, kể chuyện này lại để làm gương mẫu cho người xuất gia trên đời
vậy.
5.11. Vịnh hoa can
gián.
Thời Ngũ đại, nhà hậu Tấn,
vùng Giang Nam, có một hôm Lý Hậu Chủ triệu kiến thiền sư Đại Pháp Nhãn Văn Ích,
ở chùa Kim Lăng Thanh Lương, vào cung. Bấy giờ đang mùa hoa mẫu đơn nở rộ, Hậu
Chủ mời Pháp Nhãn thiền sư làm một bài thơ vịnh hoa mẫu đơn, sư ứng khẩu đọc
:
“Mặc áo lông vải trân qúy,
đối diện với khóm hoa toả ngát mùi thơm, đây là cảnh tượng và không khí của sự
giàu sang. Nhưng năm tháng của cuộc đời thật vô tình, cảnh đẹp cũng vô thường,
tóc trên đầu hôm nay đã bắt đầu điểm bạc dần, những người con gái đẹp xem lại
nhan sắc cũng không còn giống như năm ngoái, sắc đẹp diễm lệ của hoa mẫu đơn đã
theo hạt sương buổi sớm bừng nở long lanh, càng thêm diễm tuyệt, nhưng sương mai
rất mong manh, nhanh chóng tan biến theo ánh dương, người đẹp cũng ngày càng khô
héo, mùi hương của hoa mẫu đơn theo gió đêm nhè nhẹ thoảng đưa khắp nơi, hương
lại càng thêm thanh, nhưng gió đêm đi xa, hương hoa cũng từ từ tan loãng phiêu
linh, do có cái nhìn như vậy, thì hà tất phải đợi đến khi hoa tàn nhị rửa mới
thể hội được đạo lý “các hành vô thường, vạn pháp vốn
không”.
Lý Hậu Chủ xúc động than
thở, ông đã lãnh hội được ý nghĩa của bài thơ này, thiền sư đã mượn hoa châm
biếm sự sống hoang phí trầm mê của vua.
Bình luận :
Ý cảnh của bài thơ này tuy
nhỏ nhưng mỗi câu mỗi chữ đều tràn đầy lòng nhiệt thành ái chủ của bậc trung
thần. Đáng tiếc, Lý Hậu Chủ biết ý nghĩa này nhưng không có thật lòng muốn
chuyển hoá lỗi lầm, rút cuộc không tránh khỏi sự mất nước, sau hối hận cuộc đời
mình như giấc mộng, không biết giác tỉnh. (Lý Hậu Chủ trong bài từ “Lãng Đào Sa”
có câu : “Mộng lý bất tri thân thị khách, nhất hướng tham hoan”). Những danh
hiệu ‘Thơ Tăng’ của người xuất gia không phải là việc đạo, từ việc gió trăng trở
thành đề tài ngâm cứu, dùng từ, tạo câu cho hay, cho đẹp thành thơ, văn mà đối
với thế đạo nhân tâm không giúp gì được cả. Và, bài thơ này của thiền sư Pháp
Nhãn so với gần đây, không phải là vàng
so với đất sao, thật sai biệt quá xa !.
TỔNG
LUẬN.
Người quân tử khi ở trong
nhân gian thì phải lo lắng nhớ đến bậc quân chủ. Còn người xuất gia không có
quan chức, cũng không có trách nhiệm can gián khuyên ngăn mà có thể tận trung
như vậy, ai dám nói những người xuất thế tu tập ngồi dưới cây mát, ở trong núi
rừng không có quan tâm đến vua minh, tôi hiền? Không đem sức lực ra phục vụ?
Không dùng lời tốt đẹp để hưng khởi đức chánh của vua
?
Luân
lý của loài người lại không có chuyện xem bên nào trọng hơn bên nào giữa bậc
quân vương với cha mẹ, cho nên, tôi trước nêu lên những gương hiếu hạnh của
người xuất gia, sau lại nêu lên những tấm gương trung thần của người xuất gia,
mục đích là để cho người đời chấm dứt sự huỷ báng Phật giáo bất trung, bất
hiếu.
* Sử ký ghi
rằng khi Vũ Vương qua sông cólửa từ trên rơi xuống, cho
đến mỗi khi vua ngồi, con chim bơi theo dòng nước, sắc của nó màu đỏ, tiếng của
nó thanh tao.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.21/9/2012.)
No comments:
Post a Comment