- ĐẠO ĐỨC NGƯỜI XUẤT
GIA
- Đại sư Liên
Trì
- Chương
III
- HẠNH TÔN SƯ
3.1. Nỗ lực làm ruộng,
nhà
Đời nhà Tấn, ở Trường An,
chùa Ngũ Cấp, có pháp sư Đạo An, mười hai tuổi xuất gia. Sư trời sanh bẩm tánh
thông minh, nhưng ngoại hình rất xấu, nên không được sư phụ coi trọng, gọi sư
làm những việc ruộng đồng, làm như vậy được ba năm. Chấp lao cần khổ, chưa từng biểu hiện thái độ oán
hận. Sau mấy năm, mới đi tìm sư phụ muốn cầu thụ kinh điển. Sư phụ đưa cho sư
một quyển kinh Biện Ý có hơn 5 ngàn câu chữ. An đại sư mang cuốn kinh này đi ra ruộng, lúc nghỉ ngơi
mang kinh ra đọc, đến tối mới trở về, lại xin sư phụ truyền cho kinh điển khác,
sư phụ nói: “Hôm qua mới đưa cho thầy
cuốn kinh đã học xong chưa lại xin học cuốn kinh khác!”. Ngài trả lời: “Dạ, con đã đọc thuộc kinh rồi!”. Sư phụ
tuy rằng rất kinh ngạc nhưng vẫn chưa tin lắm, lại đưa cho ngài một cuốn kinh
Thành Cụ Quang Minh, cuốn kinh này gần một vạn câu chữ. An đại sư lại mang kinh
đi ra đồng, hoàng hôn lại mang kinh trở về, sư
phụ bảo ngài tụng lại, ngài tụng không sai một chữ, sư phụ mới vô cùng
kinh hãi, hết lời khen ngợi.
Bình
luận:
Thiên tài của An đại sư giống như bảo ngọc
trong cung điện của tổ tông hoặc thánh hiền để lễ lạy, vậy mà bảo ngài đi cày
ruộng, nhưng ngài vẫn cam chịu lao khổ không than oán. Các đệ tử ngày nay, có
được một chút tài năng, đối sử với nó một chút không khách khí là muốn bỏ đi,
huống nữa là gọi nó đi làm những việc ruộng đồng cần lao phục dịch? Mà là lao
động phục dịch lâu ngày nữa chứ?! Nghĩ đến đây, tôi không cầm được lời than thở
không thôi!.
3.2. Tự đánh trách
mình
Triều nhà Tấn, tại Kinh Châu, chùa Trường Sa,
Thiền sư Pháp Ngộ, lạy Thiền sư Đạo An
làm thầy, sau đó trú trì chùa Trường Sa, ở Giang Lăng, diễn giảng nhiều kinh, có
hơn bốn trăm người đến học Phật với ngài.
Có một hôm, một vị Tăng trong chùa lén uống
rượu, đại sư Pháp Ngộ tiến hành sử phạt, nhưng chưa đánh thì vị Tăng ấy chạy vụt
ra cửa. Đại sư Đạo An ở xa nghe chuyện này, dùng một ống tre lắp đặt một cây roi
trong đó rồi phong bao lại gởi đi cho đại sư Ngộ. Đại sư Ngộ mở phong ra thấy
một cây roi, liền nói:
“Đây là do cái chuyện ông thầy uống rượu mà
ra, ta không đủ năng lực dạy dỗ và lãnh đạo, phải khiến cho sư phụ ở xa lo lắng
mà ban cho ta cây roi này!”.
Thế rồi sư đánh kiềng chuỳ
triệu tập đại chúng lại. Đại sư Ngộ đem cây roi ra đặt trước mặt, đốt hương đảnh
lễ chí kính, tự mình nằm xuống trên đất,
sai thầy duy na cầm roi đánh mình ba roi, sư rơi nước mắt tự trách. Một lần như
thế, Tăng tục ở địa phương đó không ai là không khen ngợi và bội phục, nhân vì
sự việc này mà mọi người cảm kích phấn phát tinh tấn cũng rất nhiều.
Bình
luận:
Ôi!
Giả sử người hiện nay mở phong bao ống tre của sư phụ gởi ra, thấy một cây roi,
mà không đập vở ống tre, chặt đứt cây roi, mở lời chửi rủa sợ rằng còn rất ít.
Còn như sư phụ là thánh nhân, đệ tử là hiền nhân đây, tuy thời gian đã quá hơn
ngàn năm đến nay, tôi vẫn tiếp tục vì hai đại sư đây làm mãi vẫn không thể than
nhiều!
3.3. Vì thầy lễ Phật sám
hối
Triều nhà Tấn, ở Thế Thanh
Sơn Trúc, có pháp sư Pháp Khoáng, người họ Phi, sớm mồ côi cha mẹ từ thuở ấu
thơ, phụng thờ kế mẫu rất hiếu thuận và có tiếng tăm hiếu
thuận.
Sau xuất gia, bái pháp sư
Đàm Ấn làm thầy. Có một lần Ấn pháp sư bịnh rất nặng, rất nguy hiểm, thế là
Khoáng đại sư 7 ngày 7 đêm, thành kính lễ Phật sám hối hồi hướng cho sư phụ. Đến
ngày thứ 7, hốt nhiên thấy hào quang năm sắc chiếu sáng khắp phòng đại sư Đàm
Ấn, Ấn đại sư tỉnh dậy thấy có một người dùng tay xoa đến thân thể của mình, thế
là ngay sau đó lành bệnh.
3.4. Tuyết ngập quá
gối
Triều đại nhà Lương (502-255), Tổ Bồ Đề Đạt Ma
từ Ấn Độ sang, lúc đầu yết kiến vua
Lương Vũ Đế, nhưng thấy không độ được vị vua này nên sang đất
Ngụy.
Triều nhà Ngụy (534-550), (thuộc bắc Triều),
đại sư Thần Quang (Huệ Khả), ở huyện Nghiệp Trung, đương thời là một người đứng
đầu trong giới học vấn, giải nghĩa.
Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang, đến đất Nguỵ, ở ẩn trên Thiếu
Lâm, động Thiếu Thất, sư Thần Quang đến động Thiếu Thất muốn bái sư làm thầy,
Đạt Ma ngồi quay đầu vào vách không nói một lời. Cả một ngày một đêm tuyết rơi
lớn, Thần Quang đứng trầm mình trong tuyết lạnh giữa sân, tuyết rơi đầm đìa chôn
vùi ông đến đầu gối, Đạt Ma mới quay đầu lại hỏi : “Ông đứng trầm mình trong tuyết lâu như vậy,
muốn cần gì?”.
Thần Quang rơi lệ thưa: “Ngưỡng mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ,
rộng độ chúng sanh”
Đạt Ma nói “Diệu pháp vô thượng của chư Phật phải nhiều
kiếp tinh cần, khó làm làm được, khó nhẫn nhẫn được, hạng tu tập như ông có thể
tu chứng được sao? Hôm nay ông đem lòng khinh mạn, dò hỏi muốn cầu chân đế Phật
pháp, quả là làm mộng, lao khổ vô ích”.
Thần Quang nghe quở vậy, vì
muốn biểu thị quyết tâm cầu pháp không sợ lao nhọc bản thân, liền lấy dao chặt
đứt cánh tay trái đặt trước mặt Đạt Ma.
Đạt Ma nói : “Chư Phật lúc cầu đạo đều vì pháp quên thân,
hôm nay ông chặt đứt một cánh tay cũng có thể cầu pháp được
rồi”.
Thần Quang thưa: “Tâm con không được an, xin thầy an tâm cho
con”.
Đạt Ma nói: “Ngươi đem tâm ra đây ta an cho”
Thần Quang nói : “Con tìm tâm mãi mà không thấy”
Đạt Ma nói : “Vậy ta đã an tâm cho người rồi đó!”
Ngay câu nói ấy Thần Quang
bừng ngộ, tâm pháp thiền môn truyền cho ngài, trở thành tổ thứ 2 thiền tông
Trung Quốc.
Bình luận:
Nhị tổ Thần Quang được
truyền tâm pháp là do lòng tinh cần đã đến cực độ, cơ duyên đã chín muồi. Có như
đá nam châm hút sắt, hổ phách nhặt hạt cải, một cái vỗ tay, một cái đánh tức là
khế hợp, một chút tức đã tinh thông. Không nhất định phải chặt tay. Người ngu si
muốn bắt chước sư Thần Quang, không biết học tinh thần của Ngài, chỉ bắt chước
cầm dao chặt đứt thân thể. Ôi! Nếu như truyền pháp nhất định phải chặt tay, như
vậy thì lịch đại chư vị tổ sư thân thể đều không nguyên vẹn, mỗi mỗi tàn phế;
muốn thành Phật tất phải thiêu thân thể, như vậy thì tiên thánh, tiên hiền chẳng
có ai còn mạng sống. Thật ra, chặt tay là chặt tay phiền não, thiêu thân là
thiêu thân vô minh! Hi vọng người muốn tu tập thiền nên giúp đỡ nhau, để cổ vũ
nhau như vậy.
3.5. Xa thầy tự trách
mình
Đời nhà Đường, ở Tương Châu,
chùa Biện Giác, có pháp sư Thanh Giang.
Pháp sư Thanh Giang từ nhỏ
đã lãnh ngộ chân lý cuộc đời là huyễn mộng, như bọt nước, như ánh chớp, tất cả
các pháp đều vô thường, nên đến yết bái luật sư Đàm Nhất làm thầy, thân cận gần
gũi theo luật sư Đàm Nhất, đọc kinh học pháp một lần qua mắt là hiểu rõ. Ngài
Minh Nhãn nói : “Vị Tăng này là con ngựa
thiên lý của Phật pháp”. Có một thời gian, ngài với sư phụ Đàm Nhất nhân
duyên không hợp, thế là ngài đành xa sư phụ đi hành cước tham học các nơi, đi
đến đâu đều mở pháp hội giảng kinh. Sau đó, ngài tự trách mình, nói : “Hầu như đi khắp một nửa thiên hạ, tham học
vô số pháp sư, nếu so sánh khả năng với sư phụ Đàm Nhất của ta trước đây, người
hơn thật chẳng có nhiều”. Thế là ngài trở lại với luật sư Đàm
Nhất.
Lúc chúng Tăng đang vân tập,
sư vạn lần xấu hỗ cúi đầu nhận tội, nói : “Con, Thanh Giang, hôm nay trở về gần gủi
với sư phụ, hi vọng sư phụ từ bi mà thâu nhận lại con làm đồ
đệ”.
Lúc ấy, Đàm Nhất đại sư
trách Ngài, không muốn nhận Ngài trở lại, Thanh Giang khóc như mưa, lạy thầy sám
hối và than thở: “Trước đây do con vô
tri, giờ đây đã hiểu rõ, khẩn cầu sư phụ từ bi chấp nhận cho con trở lại hầu
dưới toà, để cho con được mãn nguyện làm tròn bổn phận người học trò”. Ba
lần bi thiết khẩn cầu như thế, Đàm Nhất thương hại sư, khôi phục lại quan hệ
thầy trò lúc đầu. Sau Đại sư Đàm Nhất viên tịch, Thanh Giang lại đến Nam Dương
bái yết Huệ Trung Quốc sư, được Quốc sư coi trọng truyền yếu quyết tâm pháp
cho.
Bình luận:
Giác ngộ được rằng mình đã
xa rời bậc thánh hiền là một hành động sai lầm, chấp nhận sự thống mạ mà vẫn
không thối tâm, có thể nói đó là người minh trí và lại thành kính nữa; sau lại
được quốc sư Huệ Trung coi trọng và truyền cho
tâm pháp cũng vì Ngài là người minh trí và thành kính vậy ! Những kẻ hậu
bối thiển kiến, niềm tin mỏng manh, đối xử với nó một chút không tốt, thì muốn
bỏ đi, một khi đi không bao giờ trở lại, mới quở trách nó một vài câu, thì đã
luôn luôn ôm hận trong lòng, như vậy thì dù có gặp được sư phụ cao minh, lại có
thể dùng được sao? Giống như kẻ bình dân được vận may gặp hoàng đế và kết giao
với anh ta mà chẳngđược nửa chức quan, thật đáng tiếc thay !.
3.6. Đón thầy về ở chính
đường
Đời nhà Đường, tỉnh Trường Sa, núi Thạch
Sương, có Thiền sư Khánh Chư, được đại sư Đại Ngộ Tông Trí, ở Đam Châu, truyền
tâm ấn, sau sư đến ẩn cư ở Đông Sơn Lưu Dương, có khi tôn xưng là Lưu Dương Cổ
Phật. Rất nhiều người đến nương tựa sư
tu đạo. Lúc đại sư Đạo Ngộ sắp viên tịch, đặc biệt coi trọng đại sư Khánh Chư,
đem y bát chính truyền của mình trao cho sư, rồi bỏ chúng đi đến ở với sư. Sư
Khánh Chư mời đại sư Đạo Ngộ lên ở chính đường rồi tự mình chăm sóc cúng dường,
lúc đi ra đường nhất định dìu thầy đi, lúc ngồi nhất định đứng hầu một bên, lễ
phép, kính dưỡng hết sức tận tình.
3.7. Hầu thầy lâu
năm
Đời nhà Đường, tỉnh Chiêu
Hiền, có Thiền sư Hội Thông.
Thiền sư Hội Thông lúc tuổi
còn nhỏ làm Lục quan đại sứ (quan liên lạc trong cung đình vương thất) của triều
vua Đường Đức Tông (780-805), nhưng không muốn công danh phú quý, nên đến yết
bái thiền sư Đạo Lâm Ô Khoa, cầu thế độ
xuất gia, thiền sư không nhận. Ngài bi thiết khẩn cầu, cuối cùng Thiền sư xuống
tóc thế độ và nhận ngài làm đệ tử. Ngài hầu hạ thiền sư, tuỳ tùng hai bên, siêng
năng cần mẫn chưa từng thay đổi, trải qua 16 năm, vẫn chưa được thiền sư khai
thị. Thế rồi có một ngày, Ngài tâm sự với thầy, ý muốn đi xa, thiền sư Ô Khoa
hỏi ông muốn đi đâu? Ngài đáp: “Muốn đi
đến các địa phương tham học Phật Pháp”.
Ô Khoa Thiền sư nói: “Phật pháp ta đây cũng có một ít”, nói
xong Sư nhặt lấy một sợi lông vải nơi y phục thổi một cái. Thông pháp sư hốt
nhiên đại ngộ. Nhân một sợi lông vải rơi
xuống mà khai ngộ, cho nên người ta gọi ngài là “thị giả bố
ma”.
Bình luận:
Người ta chỉ thấy Thông Thiền sư nhân một sợ
lông vải rơi xuống mà khai ngộ, chứ không biết rằng trước đây Thiền sư đã trải
qua 16 năm tinh cần không giãi đãi, nghiên tập Phật pháp và thường ngày tiếp
nhận, huân tập một cách vô hình trung nơi Thiền sư Ô Khoa, đã đến lúc, giống như
giây cung đã giương lên, một khi chạm đến liền phát ra cảnh giới, nếu như chưa
từng có công phu nhiều năm tinh cần thì làm sao có ngày khai ngộ đó? Gặp được người minh sư như trên, hi vọng
không cần quá cấp bách !
3.8. Cẩn thận giữ gìn di
mệnh của thầy
Triều nhà Tống, ở Nam Nhạc,
am Thạch Đầu, Thiền sư Hoài Chí, người Kim Hoa, lúc tuổi thanh niên học giảng
kinh, do vì bị kích thích bởi một vị tu thiền, bỏ giảng kinh đi tham thiền khắp
4 phương. Sau sư đến đạo tràng Động Sơn (Đạo tràng tông Tào Động, Tổ sư Động Sơn
Lương Giới), được Thiền sư Chơn Tịnh Văn khai thị cho mà ngộ đạo, theo hầu Thiền
sư Chơn Tịnh Văn rất lâu. Có một hôm, lúc Ngài muốn xa Văn Thiền sư, Văn Thiền
sư nói với Ngài: “Thiền học của thầy tuy
cao siêu thoát tục, chỗ ngộ cũng rất lớn, nhưng nhân duyên hoá độ chúng sanh của
thầy không tốt, miễn cưỡng hoá độ chỉ là dẫn đến sự huỷ báng, cẩn thận kẻo trở
lại tạo nghiệp”. Chí thiền sư lãnh mệnh bái biệt, khắc ghi lời dạy trong
lòng.
Đến Viễn Châu, người trong
châu thỉnh ngài trú trì chùa Dương Kỳ, nhưng vì bị người trở ngại nên bỏ đi. Sau
lại du lịch đến Hồ Nam, Tương Giang một lần, quan mục Đàm Châu thỉnh ngài trụ
trì chùa Thượng Phong hoặc Bắc Thiền, ngài đều từ chối. Rồi ngài trụ lại trong
một túp lều tranh ở Hành Sơn hơn 20 năm. Ngài có một bài kệ như vầy:
“Thấy rõ vạn sự, bỏ hết vạn
duyên, việc đời chẳng tranh đua, giả vờ thành một kẻ si ngốc, thật thà chất
phát, ta rong chơi trong núi rừng, làm bạn với lũ nai cùng nhau du ngoạn, gai
gốc bám cũng chẳng thèm gỡ, lấy nắm tay gối đầu, gập cánh tay mà ngủ. Từ vô
lượng kiếp đến nay ta trôi lăn trong sanh tử, có bao nhiêu cuộc sống, bao nhiêu
thế giới giống như cuộc sống hôm nay, ở am tranh trong núi rừng cây cỏ xanh um
như thế này không?”
Cuối cuộc đời, Sư tham bái
Thiền sư Long An Chiếu. Chiếu Thiền sư an bài cho sư trú trì “An Lạc Cung” trong
chùa. Sư ở tại đó cho đến khi viên tịch.
Bình luận:
Người ta ai cũng thích nổi
danh, chứ còn tôn trọng giữ gìn di mệnh của thầy, từ chối mời thỉnh mọi phương
diện, hiện tại rất khó tìm! Người bây giờ chỉ tìm cầu danh lợi, ném bỏ lễ nghĩa
không thèm nhìn tới, người ta không thỉnh không mời tự mình tìm đến rất nhiều,
như thế đó còn nhớ đến lời huấn thị của thầy
sao?!
3.9. Tôn trọng lời dạy của
thầy suốt đời ẩn cư
Đời nhà Tống, thiền sư Thanh
Tố, sau khi được thiềøn sư Từ Minh Sở Viên, ở Thạch Sương, Đàm Châu truyền pháp,
Ngài ẩn cư trong chúng. Thiền sư Đâu Suất Duyệt bấy giờ cũng ở chung. Có một
hôm, trời tối, Đâu Duyệt nghe nói chuyện trong đêm, hỏi ra mới biết thiền sư
Thanh Tố từng là thị giả thiền sư Từ Minh, một phen kinh hải. Hôm sau, Đâu Duyệt
chỉnh đốn dung nghi trang nghiêm đến yết bái Tố thiền sư. Về sau lại thường
xuyên thỉnh giáo Tố thiền sư, trải qua mấy lần khai thị và khảo phát, Duyệt Công
cuối cùng đại ngộ.
Nhưng tố thiền sư cảnh giác
Duyệt Công rằng: “Ta do vì phước báo cạn
mỏng, tiên sư dạy ta không được truyền pháp độ chúng, hôm nay ta thấy ngươi cũng
chí tâm thành ý, thương ngươi mà quên đi lời giáo giới của tiên sư, hi vọng từ
đây về sau ngươi không được nói pháp do
ta truyền”.
Tố Thiền sư ẩn cư mai danh
trong chúng suốt đời hầu như không có ai biết Ngài là một Đại Đức đã khai
ngộ.
3.10. Binh nạn không
lìa
Triều nhà Nguyên ở Bắc Kinh,
Thiền sư Ấn Giản, người Sơn Tây Ninh Viễn, 8 tuổi bái thiền sư Trung Quán Chiểu
làm thầy. Lúc 18 tuổi, quân Nguyên dấy binh đánh hạ thành Ninh Viễn, dân chúng
đều đi tị nạn, sư Giản vẫn phục thị thiền sư Trung Quán như cũ, không có ý chạy
trốn. Quán thiền sư nói với Ngài:
“Ta tuổi đã lớn, chẳng biết
làm gì, thầy tuổi đang thanh niên còn có việc làm, hà tất phải lưu lại nơi đây,
bên lão già sắp chết này làm gì? Thầy hãy tự mình đi lánh nạn
đi!”
Sư Ấn Giản rơi lệ nói: “Nhân quả một sợi tơ kẻ tóc không sai, sống
chết có số, con làm sao có thể bỏ Sư phụ mà đi, hoá ra là kẻ tham sống
sao?”
Hôm sau thành Ninh Viễn bị
phá vở, quân lính đầøu hàng. Thống sự quân Nguyên, Sử Công Thiên, hỏi sư Giản: “Ngươi là người thế nào?”. Sư Giản
đáp: “Là người xuất gia”. Sử lại hỏi:
“Ngươi ăn thịt chứ?”. Giản sư đáp: “Thịt gì?”. Sử nói: “Thịt người”. Giản sư đáp: “Hổ là loài súc sinh hung dữ còn không ăn
thịt đồng loại, huống chi là con người?”.
Sử nghe nói rất khen thưởng, nhân đó thả Ngài
đi.
3.11. Sư Tánh
Không
Ở huyện Ngô, chùa Tứ Châu,
có một vị Tỷ-kheo pháp hiệu là Tánh Không, bỏ đạo tràng tụng kinh sám hối, đến
bế quan ở Hiểu Phong sơn. Thầy đã từng cho tôi những bài văn thệ nguyện và những
bẩm cáo mười phương v.v… của thầy, tôi rất khen ngợi, tán thán hoằng nguyện của Thầy. Nhưng không bao
lâu Thầy bị ma nhập, điên rồ phát cuồng mà chết. Tôi đau đớn tưởng niệm Thầy, vô
cùng thương xót, vừa giận vừa tiếc, truy cứu nguyên nhân, thì ra duyên cớ là vì
lúc mới phát tín tâm, có tín tâm nhưng không có trí tuệ! Người xưa, trước khi
tâm chưa khai ngộ, không ngại đường xa vạn dặm tìm thầy học đạo, xa một Tòng Lâm
này liền vào một đạo tràng khác, cho đến cùng trời cuối đất, đi học khắp nơi,
chưa có một giờ một khắc nào dừng nghỉ, mỏi mệt, lười biếng. Sau khi tâm địa đã
minh bạch, mới vào ẩn cư trong rừng, bên suối, dùng công phu để nuôi lớn và giữ
gìn minh tâm kiến tánh. Còn giống như thầy này đây không dễ gì xuất gia tu hành
được, chỉ muốn thoát li năm uẩn mạnh mẽ như lửa thiêu đốt nhà thế tục, bèn nhắm
mắt bước vào tử quan, tự tuyệt huệ mạng ư ? Do vì lỗi lầm của bản thân mình chưa
được minh bạch, những nghi hoặc trong tâm chưa phân biệt rõ ràng, cho nên mới
biến khéo thành vụng, muốn cầu tiến bộ mà ngược lại bị đoạ lạc. Có rất nhiều
người lúc mới phát tâm tu hành, ở am tranh trong rừng sâu núi thẳm, ở một mình
tu đạo, tự lấy làm thanh cao. Giỏi lắm! Tuy nhiên không bị ma nhập phát điên,
nhưng cũng vì vậy không thể biết được lỗi lầm, không được giải nghi, vô cùng bất
lợi cho việc tu hành, người mắt sáng thử nghĩ xem.
3.12. Lục quần
Tăng
Thời Phật còn tại thế, có
sáu vị Tì kheo, tên là: Đơn Đà, Ca Lưu Đà Di, Văn Đạt Đa, Mã Sư, và Mãn Túc kết
bè kéo cánh làm toàn những việc không hợp oai y, không như pháp, vì vậy thường
bị Đức Phật quở trách, bị các đệ tử lớn coi thường. Nhưng, từ xưa đến nay, người
ta vẫn nói lục quần Tỷ-kheo thời Đức Phật còn tại thế giống như chư vị Bồ tát Mã
Minh, Long Thọ sau này, khi đức Phật đã diệt độ. Ôi! Khổng Phu Tử đã từng chỉ
trích Tử Lộ khoẻ mạnh mà thô lỗ, Nghiễm Cầu thì dùng chính sách phiền nhiễu tàn
khốc ngược đãi nhân dân, nói Phàn Tu là kẻ tiểu nhân, nhưng mà, nếu như dùng Tử
Lộ và Nghiễm Cầu làm quan thì sửa trị chính sách được. Tuy nhiên, so sánh những
người mà Khổng Phu tử khen ngợi lúc bấy giờ có chỗ bằng, nhưng ngày nay, thì là
trác việt và cả thế giới cũng hiếm có, người hiền thì có thể làm thái phủ hoặc
huyện lệnh, giỏi lắm thì làm tướng! Sau này các danh tướng như Uyên Hà, Tào
Tham, Cung Thắng, Hoằng Bá, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Diêu Sùng, Tống Cảnh,
Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Âu Dương Tu, cũng chưa hẳn có thể so sánh được
với những người trên! Nếu như Lục quần Tỳ theo là những người thù thắng sau này
lại có thể làm điều kỳ quái vậy sao? Cho nên, trong kinh ‘Đại Phương Đẳng Đại Tập’, ở phẩm ‘Nguyệt Tạng Diêm Phù Đề’, đức Phật nói
nội dung như sau: “Sau khi ta diệt độ
trong khoảng 500 năm đầu, các Tỷ-kheo giải thoát giống như pháp của ta rất kiên
cố, 500 năm tiếp theo, chánh pháp Thiền tông tam muội của ta được trụ kiên cố,
500 năm tiếp theo nữa, những người đọc tụng, đa văn được trụ kiên cố, 500 năm
tiếp theo nữa trong pháp của ta kiến tạo nhiều chùa tháp được trụ kiên cố, và
500 năm tiếp theo nữa là thời kỳ đấu tranh kiên cố, lời tụng pháp trong sáng bị
ẩn đi, nhưng chưa thật sự tổn giảm”. Cách Phật càng lâu thì đạo càng khắc
nghiệt, càng mạt pháp, tu hành càng kém. Trong Hoài Nam Tử, Truỵ Hình Chương
cũng nói : “Vũ gia sinh Phi Long, Phi
Long sinh Phượng Hoàng, Phượng Hoàng sinh Loan Điểu, Loan Điểu sinh Vũ Điểu,
phàm là vũ đều sinh chim hết”. đây không phải cũng là sự biểu thị một đời
không như một đời sao? thật tại nói rất có lý! sao có thể không vì vậy mà thốt
lên ba tiếng ai thán! Mặc dù như thế, nhưng Mạnh Tử nói : “Kẻ sĩ hào kiệt tuy rằng sinh phải thời
không có người trọng dụng như minh quân Văn Vương, nhưng cũng có thể tự mình
sáng tạo một sự nghiệp”. Nếu như câu nói này không sai như thế thì quả là
đại vạn hạnh cho chúng sanh! Tôi mỗi ngày đều hi vọng như
vậy.
TỔNG LUẬN:
Thời xưa, kẻ làm đệ tử, sau
khi sư phụ chết, kính ngưỡng rất kiên định, không trái di mệnh của thầy, tín thọ
phụng hành. Ngày nay kẻ làm đệ tử, sư phụ hãy còn chưa chết tín ngưỡng đã dao
động, thay đổi, nguyên nhân vì sao? Thật tại là vì, lúc mới phát tâm xuất gia,
tất cả không phải ai cũng chân chính muốn nương vào chánh tri, chánh kiến của
thầy để liễu thoát sanh tử, là mà nhất thời hứng khởi, ngẫu nhiên trùng hợp bái
thầy mà thôi. Cho nên, thấy có danh lợi có thể mưu đồ được thì bỏ sư phụ liền,
hoặc giả gặp bạn bè xấu mê hoặc dụ dỗ rồi bỏ thầy mà đi, hoặc giả làm việc sai
bị thầy quở trách, dạy dỗ mà căm hờn bỏ sang chỗ khác, thậm chí có thầy bạn tốt
không theo ngược lại đi theo bạn ác, thầy hư, giống như từ cây cao bóng mát lại
bỏ đi đến khe núi sâu tối, càng đi xuống chỗ chênh vênh. Mạnh Tử có nói trong
chương Đặng Văn Công rằng, bấy giờ,
học trò của Trần Lương là Trần Tương, sau khi thầy chết rồi, liền theo Hứa
Thành, người rợ Man phương Nam, học cày ruộng; lại có pháp sư Linh Nghiệp bỏ học
Phật đi làm đạo sĩ cầu trường sanh, thậm chí giống như thị giả của thiền sư Thái
Dương (gọi là Bình thị giả) đem di thể của sư phụ từ trong tháp ra để phá huỷ,
đạp nát đầu, tự lấy làm cao minh, cũng có nhiều! Luân lý đạo thầy trò đã mất,
thật đáng buồn!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.21/9/2012.)
No comments:
Post a Comment