KÍNH HIẾU CHA
MẸ
Như đã biết, nếu không có cha
mẹ sanh thành dưỡng dục, thì không có chúng ta ở trên quả đất nầy. Quả thật vậy
:
Công Cha như núi Thái
Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy
ra,
Một lòng thờ Mẹ kính
Cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo
con...
Ngoài ra, trong kinh Tâm Địa
Quán, đức Phật cũng đã dạy về công ơn cha mẹ như sau :
Ân cha lành cao như
núi Thái,
Đức mẹ hiền sâu tợ
biển khơi,
Dù cho dâng trọn
một đời,
Cũng không trả hết
ân người sanh ta.
Xuyên qua những lời dạy ở trên,
tuy đơn sơ ngắn gọn, nhưng nó vô cùng trân quý, bởi bổn phận làm con phải biết
hiếu kính với cha mẹ đã được thấm nhuần từ xa xưa của tổ tiên ông bà để lại cho
ngày hôm nay. Hơn nữa, nếu xét về Dương Âm tức Trời Đất, thì người Cha tức
Dương và người Mẹ tức Âm, chẳng khác nào ban ngày và ban đêm hay nói khác đi,
nếu không có Thiên Địa tức Trời Đất, thì không thể tạo nên chúng sanh tức con
người được, cho nên nếu không có "Cha sanh, Mẹ dưỡng" thì không thể có
chúng ta. Bởi vì :
Có Cha, có Mẹ thì
hơn,
Không Cha, không Mẹ như đờn đứt
dây. (*)
(*) Ở đây ngụ ý nói là khi chúng
ta sanh ra rồi, mà mất cha lẫn mẹ thì khốn khổ vô cùng. Người cha tuy không mang
nặng đẻ đau như người mẹ, kể từ cấn thai cho đến nở nhụy khai hoa (sanh nở),
mẹ phải mang nặng cái bào thai suốt trên chín tháng nặng nhọc, rồi bị hành thai,
ăn uống vô cùng khó khăn, làm cho sức khoẻ của mẹ càng ngày tiều tụy, để
rồi đúng ngày sanh nở phải đẻ đau. Nếu việc sanh đẻ suông sẻ, bình thường
là tốt đẹp, thì xem như "Mẹ tròn Con vuông" (thành ngữ). Nếu như sanh đẻ
khó khăn, đôi khi cũng nguy hiểm đến tánh mạng của mẹ, thì không khác gì người
mẹ đi biển một mình, bởi đúng với câu :
Đàn ông đi biển
có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình
(tục ngữ).
Sau khi sanh nở xong, mẹ cũng
phải cận kề để lo cho con liên tục trong ba năm nhũ bộ, rồi cùng cha lo từ tấm
tả, từ manh quần tấm áo, từ giấc ngủ cho đến khi đau ốm. Trái lại, nếu không
có cha tạo thành cũng như lao tâm, lao lực, nhọc trí lo lắng cho con từ tinh
thần đến vật chất để có sự sống và còn tiếp tay với mẹ dạy dỗ con từ tấm bé cho
đến khi khôn lớn, thì không có con ngày hôm nay. Công ơn của cha mẹ đối với các
con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bửa, nào
là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya, nhất là sự lo lắng lúc mọc răng,
ấm đầu phải chạy lo từng liều thuốc hay giọt sữa...Để rồi, khi con khôn lớn,
việc lo toan đó lại càng chồng chất nhiều hơn nữa và mong sao con sau này sẽ nên
danh nên phận, hữu dụng với họ hàng, làng nước. Ngoài ra, trong thời kỳ mẹ mang
thai dạ chửa, cha lúc nào cũng cận kề mẹ, để săn sóc, giúp đỡ mẹ từ miếng ăn,
bởi vì mẹ hết thèm món này đến món nọ, nhất là những trái cây có vị chua hoặc vị
ngọt hay một nồi chè thật ngon ngọt cũng nên, thay vì ăn cơm bình thường như mọi
ngày. Khi con lọt lòng mẹ, cha cũng phải đỡ đần mẹ để pha từng bình sữa, giặt
giũ khi mẹ còn non yếu sau khi sanh nở. Khi con được đầy tháng, cha cũng đứng ra
lo liệu lễ vật nhang đèn để cúng đầy tháng cho con, cha khấn vái cầu xin mụ bà
và các vị thần linh phù hộ cho con mau ăn chóng lớn, có lẽ đó là lần đầu tiên
trọng đại trong đời khi cha mẹ có đứa con đầu lòng. Khi con được hai ba tháng,
nằm ngữa hươ tay hươ chân, mở mắt nhìn ngơ ngác, xoay đầu sang phải, sang trái,
rồi nở nụ cười vô tư hồn nhiên, nhưng làm cho cả nhà vui mừng, quả thật nụ cười
của con làm cho những nụ cười rạng rỡ của các khuôn mặt người thân thương trong
gia đình và xóa mờ những nếp nhăn trên trán của ông bà, bởi vì con đã biết nở nụ
cười đầu đời, để rồi thời gian cứ trôi qua, con lần lượt biết lật, biết bò, biết
ngồi, biết vịn tay cha mẹ đứng lên được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo
vui, tiếng khuyến khích người thân trong gia đình vang lên rộn ràng đầm ấm,
trong đó có lẫn tiếng của cha mẹ. Hơn nữa, cha cũng thường được phân công đút
cho con những miếng ăn đầu tiên... Ôi! làm sao kể cho
hết những công lao của cha dành cho con. Mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng trẻ mới
vừa được làm cha mẹ, sanh được đứa con đầu lòng, thì lúc nào cha mẹ cũng dành
hết tình thương cho con, nhứt là cha sẵn sàng làm trò hề để cho con vui hoặc làm
thân trâu ngựa để cho con cỡi, miễn sao con vui là được... Đó chính là tình
thương của cha dành cho con thật vô bờ bến vậy. Khi con đến tuổi đi học vỡ lòng,
cha mẹ lo lắng đưa đón cho con đến trường, thật đúng với câu : "Cha đưa, Mẹ
đón" (thành ngữ). và hằng đêm cha lại dạy dỗ từng
chữ để con học để nên người sau này. Do vậy, công cha đối với con cũng vô cùng
to lớn như mẹ vậy, nào là lo ăn mặc, cho con ăn học, dạy dỗ cho con... bởi vì,
chỉ có cha con mới sợ đòn, mà chịu nghe lời dạy bảo hơn mẹ, bởi tục ngữ :
Mẹ đánh một trăm (*)
Không bằng cha hăm một
tiếng
(*) một
trăm là để chỉ 100 roi.
Công Cha như thế đó, còn công
Mẹ như thế nào?
Như chúng ta đều biết, sau khi con
đã chào đời, mẹ lúc nào cũng ở cận kề con hơn cha, để cho con bú với bầu sữa
mẹ mỗi khi con khát sữa, (Con không khóc, mẹ không cho con bú), trong
suốt ba năm nhũ bộ, mỗi lần con mọc răng, ngứa nướu con thường cắn vú mẹ, nhưng
người mẹ vẫn cam chịu đau và lại mừng thầm nữa, bởi vì, biết con đã mọc răng
sữa, cho nên người mẹ mới mắng yêu rằng : "Con đã mọc răng, nói năng gì nữa"
(tục ngữ). Khi con được vài tháng, mẹ bắt đầu nấu cháo hay nhai cơm cho
nhuyễn với cá hay thịt, với nước miếng của mẹ làm cho dễ tiêu, rồi mớm cơm vào
miệng cho con ăn. Đó là phương pháp ngày xưa, phương pháp này rất tiện và có cả
tình thương của mẹ dành cho đứa con nữa, mặc dù thấy không hạp vệ sanh như ngày
nay... Do những công lao của mẹ như trên, đã được trong dân gian truyền khẩu qua
ca dao, tục ngữ như sau :
Con mẹ có thương mẹ
thay,
Chín tháng mười ngày mang nặng
đẻ đau.
Cha mẹ sanh thành tạo
hóa,
Nhai cơm, lựa cá, nhai cá lựa
xương.
Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng
biển (ca dao)
Hay là :
Đố ai đếm được lá
rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời
cao,
Đố ai đếm được những vì
sao,
Đố ai đếm được, công lao mẫu
từ.
hoặc
là :
Nhớ ơn chín chữ (**)
cù lao,
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình
(***).
(**) Trong Kinh Thi của Khổng Tử
đã nói đến 9 điểm, gọi là 9 chữ cù lao dành cho người mẹ. Đó lả : Sinh (sinh
nở), Cúc (nâng đỡ), Phủ (vỗ về), Dục (dạy dỗ), Súc (cho bú), Trưởng (nuôi
lớn), Cố (trong nôm), Phục (nuông chiều), Phúc (che chở)
.
(***) Tình ở đây là tình mẹ dành
cho con thật bao la, bát ngát vô tận, mỗi lần mẹ cất tiếng ru con ngủ, thì mẹ
cũng nói lên nỗi niềm ấy như sau :
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh
khó đi,
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường
đời.
hay
là :
Cha mẹ ngoảnh đi, thì con
dại,
Cha mẹ ngoảnh lại, thì con khôn.
(tục ngữ)
Và mẹ cũng hy sanh, dành nơi
khô ráo cho con nằm ngủ, mỗi khi con đái dầm hoặc những đêm vào mùa thu con
không ngủ được, vì trái nắng trở trời, mẹ phải thức thâu đêm để đưa võng ru cho
con ngủ, bởi có câu :
Gió mùa thu mẹ mẹ ru con
ngủ,
Năm canh chày thức đủ năm
canh.
cho đến khi con lên ba tuổi, thì cha mẹ mới đỡ
khổ. Quả đúng vậy, bởi vì :
Ai rằng công mẹ như
non,
Thực ra công mẹ lại còn lớn
hơn.
Khi con khôn lớn, cha mẹ còn lo
dựng vợ gả chồng (khi nhắc đến Đám Cưới, thông thường trong dân gian biểu
tượng Rồng (Long) và Phượng (Phụng) để chỉ
Chồng và Vợ hoặc là trong các nhà hàng ngày nay thường đặt tên
Long Phụng. Bởi do
tứ linh Long, Lân, Quy, Phụng mà ra. Nếu phân tích tứ linh së thấy :
Long (dương), Lân (âm), Quy (dương), Phụng (âm), cho
nên dùng tên Long Phụng cho ngắn gọn, để chỉ sự hạnh phúc bởi có trời
(dương) và đất (âm) tức có chồng có vợ và trong dân gian thường chúc Đám Cưới
: <Long Phụng hoà minh, sắc cầm hão
hợp>).
, nhiều khi còn phải cực khổ với đàn cháu
nhỏ cho đến ngày theo ông bà, cho nên bổn phận làm con phải biết kính hiếu cha
mẹ, đúng như câu ca dao dưới đây :
Công cha ba năm tình thâm lai
láng,
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu
mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con
lăn,
Biết lấy chi đền đáp khó
khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây
lăng phụng thờ.
Công ơn cha mẹ sâu dày như
thế đó, nói làm sao hết được, chỉ khi nào :
Lên non mới biết non
cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu
từ (ca dao).
Nhưng xét cho kỹ, công lao của cha
mẹ đều ngang nhau, cho nên nhân mùa Vu Lan, thiết nghĩ bổn phận làm con, không
những kính hiếu dành cho người mẹ bằng hoa hồng hay hoa trắng, mà phải lẫn người
cha nữa. Bởi vì :
Con có mẹ như măng ấp bẹ (thành
ngữ)
hay là :
Con có cha như nhà có nóc (tục
ngữ)
hoặc là :
Còn cha gót đỏ như
son,
Đến khi cha chết, gót con đen sì.
hay
là :
Còn cha nhiều kẻ yêu
vì,
Một mai cha chết, ai thì yêu con
(ca dao).
Hơn nữa,
Con có cha em
đẻ,
Không ai ở lỗ nẻ mà lên (tục ngữ)
...v.v
Ngày nay, có nhiều chùa tổ
chức lễ Vu Lan không những chỉ dành cho mẹ mà lẫn cha như : cài bông hồng
cho những người nào còn mẹ hay cài bông trắng cho những người đã mất mẹ, còn đối
với cha thì cài nơ màu xanh cho những người nào còn cha hay cài nơ trắng cho
những người đã mất cha. Đây là một hành động vô cùng công bằng, bởi vì hằng năm
đến mùa Vua Lan, cha lẫn mẹ đều được các con kính hiếu. Việc kính trọng và báo
hiếu dành cho song thân, thiết nghĩ không chỉ về vật chất là đủ, mà còn tinh
thần nữa. Bởi vì, nếu những người con lâm vào tình trạng nghèo khó, không đủ
sinh sống hằng ngày, thì lấy đâu mua quà cáp để kính dâng cho cha mẹ những món
ăn ngon vật lạ, mà chỉ có những bửa cơm đạm bạc và lo lắng sức khỏe cha mẹ khi
tuổi về chiều hoặc làm cho cha mẹ vui, bởi những lời hỏi thăm hay những hành
động không làm cho cha mẹ buồn lòng, cũng là việc kính hiếu vậy.
Trái lại, những người con giàu
có thì việc phụng dưỡng cha mẹ già về vật chất thì không khó khăn cho mấy,
nhưng lại cho rằng : nay con đã lớn khôn, giàu có, khỏe mạnh hơn cha mẹ, xem cha
mẹ không ra gì, có những hành động, lời nói vô lễ làm cho cha mẹ buồn phiền,
thì việc kính hiếu của những người con đó sẽ không được trọn vẹn, đôi khi đưa
đến bất kính hiếu là khác, bởi vì, chúng ta dù có giàu có, có lớn xác thì chúng
ta cũng là con của cha mẹ, thì bổn phận làm con vẫn là kính hiếu cha mẹ suốt
đời không bao giờ thay đổi, có như vậy việc phụng dưỡng cha mẹ mới được kính
hiếu trọn vẹn.
Hơn nữa, chúng ta đã thấy
việc làm của Đức Phật đáng cho chúng ta suy nghï, vì Ngài đã có ngai vàng,
điện các, ngọc ngà, chu báu, vợ đẹp, con ngoan...thế mà Ngài đã hoan hỉ xuất
gia từ bỏ tất cả, để ngày nay, Ngài đã đuơc cả trên thế giới kính trọng. Bởi
vi, chúng ta nên nhớ rằng : <Dù chúng ta có giàu sang hay nghèo hèn đến đâu,
khi chết không thể mang hết được>, cho nên chúng ta phải biết thương người
như thể thương thân, huống chi kính hiếu cha mẹ.
Việc kính hiếu đối với cha mẹ,
không những thờ cha kính mẹ ngang nhau, bởi vì cha mẹ là người sanh thành dưỡng
dục, mỗi người đều có công và trách nhiệm để lo lắng, quả đúng với câu :
Mẹ dạy thì con khéo,
Cha dạy thì con khôn (tục ngữ).
Đối với mẹ, chúng ta phải có bổn
phận xem người mẹ như :
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp mật, như đường mía
lau.
Hoặc là : Mẹ già như chuối chín cây,
Gió đưa trái rụng con rày mồ
côi.
Mẹ già ở túp lều
tranh.
Sớm thăm tối viếng mới đành
dạ con (cao dao).
hay là :
Muốn cho gần mẹ gần
cha,
Khi vào thúng thóc, khi ra quan
tiền
Hoặc, nếu chúng ta ở gần chỉ còn
có mẹ, thì phải đem món ngon vật lạ cho mẹ, ví như sau :
Tôm càng lột vỏ bỏ
đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi
mẹ già,
hay
là :
Đói lòng ăn đọt Chà
Là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Hoặc, nếu chúng ta ở xa cha mẹ,
người con hiếu kính phải gởi về quà cáp cho cha mẹ, ví như sau :
Ai Về tôi gởi buồng
cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau
kinh thầy.
hay
là :
Ai về tôi gởi đôi
giày,
Phòng khi mưa gió để thầy
mẹ đi.
Nếu một khi chúng ta bị lỗi với
người mẹ, thì chỉ than như sau :
Me ơi! Đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi! đừng đánh con hoài,
Để con bắt cá, hái xoài mẹ ăn (ca
dao).
Để rồi, khi những người con gái
của mẹ đến tuổi lập gia đình, nhưng vì thương cha mẹ già, các em còn thơ dại nên
rất muốn ở gần, nên thốt ra những lời như sau :
Mẹ ơi! Đừng gả con xa,
chim kêu
vượn hú biết nhà mẹ đâu.
Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, lấy chồng
xa.
Một mai cha yếu
mẹ già,
Chén cơm ai xới, kỷ trà ai dâng
(ca dao).
Thời xa xưa, cha mẹ thường có trọn
quyền định đoạt mọi việc lớn nhỏ cho con cái, kể cả việc dựng vợ gả chồng.
Hể cha mẹ chọn đâu thì con cái phải nghe theo, vì có câu : Cha mẹ đặt đâu,
con ngồi đó (tục ngữ). Cho nên, có những anh chàng thất vọng vì không được
cha mẹ của nàng chấp nhận, đã than thở như sau :
Cha mẹ biểu ưng, em đừng nói phải,
Em nỡ lòng nào bạc đãi bỏ anh (ca
dao).
Thế nhưng, nàng lại một mực
từ chối việc bỏ nhà theo trai, nên mới thốt ra câu :
Cha sanh mẹ đẻ, không lẽ theo
anh,
Xấu cha, xấu mẹ đôi mình tốt
chi...
Cha mẹ tôi già như đèn cháy nhấp
nhem,
Bổn phận tôi gái, mấy em còn
khờ...(ca dao) .
Những lời của người con gái thốt
lên ở trên đối với người yêu quả thật đáng khen vì đã làm tròn bổn phận con cái
cũng như giữ gì được danh giá cho gia đình đối với cha mẹ, đó cũng là cách báo
đền kính hiếu cha mẹ vậy.
Việc kính hiếu đối với cha
mẹ từ xưa đến nay rất nhiều, riêng đối với Đức Khổng Tử chú trọng dạy con người,
trước nhứt phải đạt được chữ Nhân nghĩa là con người phải có lòng thành thật,
nhân hậu đối với những người thân cận chung quanh mình, ví như cha mẹ, anh
chị em, rồi kế đến họ hàng thân tộc, bạn bè, sau cùng là trong thiên hạ.
Nếu đối với cha mẹ mà chúng ta không biết kính hiếu, đối với với anh chị em
không thuận hòa thì không thể nói đó là người có lòng nhân và thành thật được.
Đối với cha mẹ, chúng ta phải thương và kính, bởi vì : thương mà không kính,
thì không thể gọi là hiếu đạo được. Sách Luận Ngữ, Vi Chính II, kể lại câu
chuyện như sau : Một hôm người học trò Tử Du hỏi Khổng Tử về chữ
Hiếu. Khổng Tử đáp : Có người nói Hiếu là nuôi dưỡng cha mẹ, nhưng nếu
nuôi mà không Kính, thì có khác gì nuôi súc vật, lấy gì để phân biệt. Như vậy,
nuôi dưỡng cha mẹ phải cung kính, dầu ăn cơm hẩm, uống nước lã, nhưng cha mẹ vẫn
vui lòng. Lúc cha mẹ còn sanh tiền, con nên sống gần gũi cha mẹ để săn
sóc lo ăn uống cũng như thuốc thang mỗi khi cha em đau ốm, cho nên con không
được đi xa, bởi câu :
"Phụ mẫu tồn, tử bất khả viễn
du"
父
母 存,
子 不 可
远 游
(Cha mẹ còn, con không được đi
xa).
Ngoài ra, trong thành ngữ cũng
có câu : "Con đâu, cha mẹ đó". Trường hợp con bắt buộc phải đi xa, thì
nên cho cha mẹ biết thời gian, nơi chốn rõ ràng để cha mẹ an tâm, khỏi trông lo,
bởi câu :
"Phụ mẫu tại, bất viễn du, du
tất hữu phương" (Luận Ngữ, Lý Nhân IV).
父
母
在,
不
远
游,
游
必
有
方
Việc hiếu đạo tức phải
có Lễ Nghĩa. Lễ là theo cái Lý phải. Nghĩa la theo cái Đức phải. Nói rõ hơn,
việc kính hiếu cha mẹ không có nghĩa là lúc nào cha mẹ làm điều sai trái, người
con cũng phải nghe theo. Nhưng bổn phận con phải biết ngăn cản cha mẹ làm việc
sai trái, xấu xa, nếu cha mẹ cứ khư khư tiếp tục làm sai trái không nghe theo,
thì bổn phận con phải lựa lời nhã nhặn, từ tốn ôn hòa, rồi từ từ phân tách
lẽ phải trái, bẩm thưa nhiều lần, để ngỏ hầu cha mẹ biết kịp mà tránh. Do vậy,
nếu cha mẹ biểu làm điều sai trái, xấu xa mà con cứ nhắm mắt làm theo ý cha mẹ,
thì con cũng phạm tội bất hiếu như thường :
"Phụ hữu trách tử tức thân bất hảm ư bất
nghĩa, đương bất nghĩa tắc trách chi.
父
有
责
子
息
亲
不
陷
于
不
义,
当
不
义
则
责
之
Tùng phụ lệnh an đắc vi hiếu"
=从 父 令 安 得
为
孝
Vì thế, con luôn luôn
phải biết giữ gìn danh giá, tiết nghĩa cho cha mẹ, bằng cách nghe lời dạy bảo
những điều hay lẽ phải của cha mẹ và cản ngăn cha mẹ làm những điều sai trái,
xấu xa, như vậy con mới được xem là giữ tròn hiếu đạo. Ngoài ra, con có hiếu còn
phải tiếp nối chí khí, hành động, việc làm tốt của cha mẹ đã làm, chứ đừng nhắm
mắt làm càn, không chịu suy nghĩ tận tường : "Phù hiếu giả thiện kế nhân chi
chí, thiện thuật nhân chi sự giả gia"夫
孝
者
善
继
人
之
志,
善
述
人
之
事
者
也
(Trung Dung )
Khi cha mẹ mãn phần, Đức Không
Tử cũng dặn dò người con nên chú trọng đến việc thờ cúng cha mẹ, tổ tiên.
Hơn nữa, con có hiếu là người còn phải kết kính trọng những người mà cha mẹ tôn
trọng và yêu thương những người mà cha mẹ mến thương nữa. Do vậy, người con
trước sau phải một lòng tôn kính, thương tưởng cha mẹ khi còn sanh tiền hay đã
mất : "Kính kỳ sở tồn, ái kỳ sở thân, sự tử như sanh, sự vong như sự tồn
敬
其
所
存,
爱
其
所
亲,
事
死
如
生,
事
亡
如
事
存(Trung
Dung )..
Một người con có hiếu, còn phải
biết đến tuổi thọ của cha mẹ để hân hoan vui mừng khi thấy hằng năm cha
mẹ tăng thêm một tuổi thọ, được sống lâu với con cháu và lo âu khi thấy sức khỏe
cha mẹ càng ngày càng già yếu. Đến khi cha mẹ quá vãng, người con kính hiếu cha
mẹ cũng nên nhớ ngày giổ kỵ để cúng kiến cho cha mẹ thật cho đáo. Trên đây, là
những đơn cử, trích dẫn về quan niệm chữ hiếu đối với cha mẹ do Đức Khổng Phu
Tử đề ra.
Gương kính hiếu cha mẹ rất nhiều
trong sách vở như : Nhị Thập Tứ Hiếu, Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên...Đặc
biệt, trong Tứ Thư (Luận ngữ, Mạnh Tử) cũng có nói về vua Thuấn là
người con chí hiếu, đáng cho chúng ta suy ngẫm. Vạn Chương, đệ tử của
Mạnh Tử, có hỏi Mạnh Tử: Không hiểu tại sao khi ông Thuấn
còn cày ruộng tại núi Lịch , thường ngó lên trời mà
kêu gào khóc lóc như vậy? Mạnh Tử đáp : Ông Thuấn có lòng thán oán và
luyến mộ. Phàm làm con, được cha mẹ có thương thì con vui mừng và chẳng hề quên
ơn cha mẹ. Nhưng cha mẹ có ghét thì người con làm lụng cực nhọc cha mẹ và chẳng
hề than oán. Vậy, tại sao ông Thuấn thán oán cha mẹ? Ông Công Minh
Cao (môn đệ của Tăng T ử) cho rằng : tấm lòng
của người con hiếu thảo chưa dứt sầu khổ nếu chẳng được tình thương của cha mẹ,
cho nên ông Thuấn mới than! Ta đem hết sức mình ra cày ruộng, đó chẳng
qua là làm tròn bổn phận làm con mà thôi, còn cha mẹ chẳng thương ta, ta có lỗi
ở chỗ nào? Trong khi ông Thuấn làm lụng vất vả ở giữa đồng ruộng, nơi núi
Lịch, thì vua Nghiêu sai con mình 9 trai 2 gái và bá quan phụng sự ông
Thuấn, rồi lại cấp cho đủ thứ như bò trừu, kho lẫm. Kế đến, các nhà trí
thức trong thiên hạ lại kéo nhau theo ông Thuấn rất đông, thế rồi ban đầu
vua Nghiêu lập ông Thuấn lên cai trị với vua Nghiêu, để về
sau nhường ngôi lại cho ông. Ông Thuấn dầu được cầm quyền nhiếp chánh và
làm vua, nhưng vì chẳng được hòa thuận với cha mẹ, ông Thuấn tự coi mình
như kẻ khốn khổ chẳng biết nương tựa vào ai. Ông Thuấn được các nhà trí
thức trong thiên hạ hoan nghinh và quí phục, đó là ý muốn của mọi người, thế mà
ông Thuấn chẳng đủ giải mối ưu sầu của ông. Hơn nữa, ông Thuấn lại
còn được người đẹp hầu hạ bên ông, đó là sở dục của mọi người, sự giàu có bậc
nhứt là làm thiên tử gồm cả thiên hạ mà chẳng đủ giải mối ưu sầu của ông. Duy
chỉ có sự hoà thuận với cha mẹ mớí có thể giải được mối ưu sầu này. Bực đại hiếu
trọn đời lúc nào cũng luyến mộ cha mẹ như lúc còn ấu thơ, chỉ thấy gương ở vua
đại Thuấn mà thôi.
Một hôm về thăm nhà, cha mẹ sai
sửa lẫm lúa, khi ông ở trên nóc nhà bị rút cây thang, rồi cha là ông Cổ
Tẩu liền đốt lẫm lúa, ông Thuấn nhờ cặp nách hai cái sàng tre mà bay
xuống được bình an. Một lần khác, cha mẹ lại sai ông đào giếng, khi ông đào tới
đáy giếng, thì ông cũng bị ông Cổ Tẩu cùng với ông Tượng là em
cùng cha khác mẹ liền lấp đất lại. Nhưng ông Thuấn đã đào sẵn một đường
ngách để phòng thủ, cho nên ông theo đường ngách để lên khỏi giếng. Tưởng rằng,
ông Thuấn đã chết, ông Tượng bèn hô lên : "Mưu lấp giếng để chôn
sống vị đô quân (ông Thuấn được thay quyền vua tại đô thành) hoàn toàn do nơi
công của ta. Từ đấy bò và trừu của anh Thuấn, ta sẽ giao cho cha mẹ ta,
kho lẫm của anh sẽ thuộc về ta, đồ binh khí như can và qua về phần ta, đờn cầm,
cây cung có chạm cũng về ta, hai bà chị dâu sẽ dọn giường cho ta...Rồi ông
Tượng bèn đi vào cung vua, thì thấy ông Thuấn đang ngồi trên
giường mà khải đờn cầm, khi đó vua Thuấn nói : này bá quan và thứ dân của
anh, anh sẽ giao cho em cai trị giúp anh, khi đó ông Tượng mới xấu hổ
thẹn đỏ cả mặt.
Ngoài ra, chỗ chí hiếu của người
con như ông Thuấn không chỉ lớn bằng làm cho cha mẹ được tôn trọng, mà
còn cha mẹ được hưởng nhiều hoa lợi, bởi vì ông Thuấn được làm vua, đương
nhiên ông Cổ Tẩu là cha của thiên tử tức là ông Thuấn đã làm cho
cha mẹ được tôn trọng, cao quý vậy và đem hoa lợi trong thiên hạ để phụng dưỡng
cha mẹ. Đó chính là ông Thuấn đã dày công báo đáp ơn sanh dưỡng của cha
mẹ.
Trong Kinh Thi, Thiên Đại
Nhã có chép : "Làm con lúc nào cũng nên nghĩ đến hiếu đạo đối với cha
mẹ", nhờ vậy làm giềng mối cho hậu thế, tức con cháu noi gương theo. Ngoài
ra, trong Kinh Thơ còn ghi : "Vua Thuấn thờ cha là ông Cổ Tẩu rất
kính, mỗi khi đến viếng thăm cha thì rụt rè, nễ sợ. Vì thế, ông Cổ Tẩu
mới lần hồi được cảm hóa để trở nên hòa thuận với ông Thuấn là con ruột
của mình". Đối với vua Thuấn, quan niệm ở trên đời là cha mẹ trước nhứt,
bất cứ việc gì cũng phải làm cho cha mẹ vui lòng, để cha mẹ thuận hoà, thương
yêu với con. Nếu người con làm cho cha mẹ buồn phiền, thì dẫu người con đó làm
vua và được mọi người trong thiên hạ kính nể, ngưỡng mộ và hết lòng sủng ái, vua
Thuấn không xem quan trọng bằng cha mẹ. Hành động thờ kính cha mẹ của vua
Thuấn, chỉ có vua Thuấn làm được mà thôi. Bởi thế cho nên người
đời khen vua Thuấn là bậc đại hiếu trong thiên hạ vậy... (Mạnh
Tử).
Riêng về báo hiếu theo Phật Giáo, Đức Phật
thường đề cặp đến chữ hiếu nhiều nhứt trong các kinh như : Vu Lan, Lễ Lục
Phụng, Phân Biệt, Tăng
Chi , Bảo Tạng... Đức Phật dạy cho chúng sanh rất rõ
ràng về công ơn sanh thành dưỡng dục sâu dầy, to lớn của cha mẹ, người con phải
có bổn phận phụng dưỡng về vật chất lẫn tinh thần, bằng chứng là trong kinh
Lễ Lục Phụng, đã chỉ dạy người con phải có bổn phận vơí cha mẹ được tóm
lược như sau : Vâng lời và giúp đỡ cha mẹ, chăm học, siêng làm, giữ gìn gia
phong và danh dự gia đình, bảo vệ tài sản, khích lệ cha mẹ làm việc thiện, tu
theo đạo giải thoát để khỏi khổ về sau, lúc cha mẹ già phải phụng dưỡng, đến khi
cha mẹ mất, đám tang nên theo phong tục và hoàn cảnh... Ngoài ra, trong kinh
Nhẫn Nhục, Đức Phật dạy rằng : "Tất cả các điều thiện, không có gì cao
hơn là có hiếu, tất cả các điều ác tệ nhứt là bất hiếu" (Bách hạnh hiếu vi
tiên, vạn ác bất hiếu vi túy = 百
行
孝
为
先,
万
恶
不
孝
为
最) .Bởi vì, công ơn cha mẹ quá cao dày, to
lớn đến nỗi như thế, nếu có người con vai mặt công cha, vai trái cõng mẹ để
đi khắp cả đại địa sơn hà, rồi đấm bớp hầu hạ suốt đời, đôi lúc cha mẹ còn đại
tiểu trên vai mà không chút than phiền cũng chưa đủ để đền đáp công ơn cha mẹ
(Kinh Tăng Chi ).
Kinh này viết tiếp, người con đền đáp công ơn cha mẹ chỉ bằng cách cung phụng đủ
thứ vật chất hay tiền bạc cũng chưa đủ để báo đền ơn sanh thành dưỡng dục.Ngoài
ra, người con cũng nên khuyên cha mẹ tu hạnh bố thí, nếu được cha mẹ đồng ý chấp
thuận, thì người con xem như trọn vẹn việc hiếu đạo đối với cha
mẹ.
Trong kinh Vu Lan mô tả
quả nghiệp của mẹ ngài Mục Kiền Liên bị đoạ dày vào ngạ quỷ, vì lúc sanh
tiền bà quá bỏn xẻn, tham lam. Mặc dù ngài Mục Kiền Liên đã chứng được
thần thông, thấy suốt ba cõi, nhưng ngài cũng không thể tự mình cứu mẹ ra khỏi
chốn âm cung, mà phải nhờ sức chú nguyện của chư tăng thập phương, nhân ngày lễ
Vu Lan tự tứ. Noi gương ngài Mục Kiền Liên, người phật tử dầu bận
rộn trăm bề, nhưng đến ngày lễ Vu Lan báo hiếu cũng về chùa để tụng kinh,
bái sám để cầu cho những người thân, nhứt là những người đã có cha mẹ quá vãng
được sớm siêu thoát tịnh độ. Trường hợp, nếu chúng ta có cơ hội kính hiếu mà
không thực hiện được hoặc không xem việc kính hiếu là quan trọng hàng đầu hay
đôi khi còn đối xử với cha mẹ một cách tệ bạc, vì nghĩ rằng bổn phận của cha mẹ
là phải lo cho chúng ta suốt đời. Nếu cha mẹ vì nghèo khó mà khinh khi hoặc đôi
khi buông lời trách phiền cha mẹ không cho tiền của để chúng ta có được sống
sung sướng suốt đời... Chúng ta đừng quên rằng : "Không có cha mẹ sanh thành
thành dưỡng dục thì không có chúng ta trên cõi đời này" để rồi không
lo kính hiếu cha mẹ, đôi khi chúng ta giàu có lại hành động bất kính hiếu đối
với cha mẹ lúc tuổi già, vì tập tánh : "Con đóng khố, bố cỡi truồng"
(thành ngữ) thì tội nghiệp cho cha mẹ vô cùng. Bởi vậy, một khi chúng ta đã trở
thành bậc làm cha mẹ, mới hiểu được công ơn cha mẹ, đúng với câu : Dưỡng tử
phương tri phụ mẫu ân 养
子
方
知
父
母
恩
(Đức Khổng Tử) tức
nuôi con mới biết được công ơn của cha mẹ.
Và một khi chúng ta mất dịp kính
hiếu với cha mẹ, thì sẽ phải hối hận như thầy Tử Lộ, bởi vì khi thầy
Tử Lộ đã thành công trong sự nghiệp, muốn nuôi dưỡng thì cha mẹ không còn
nữa, cho nên khi cha mẹ còn sống, chúng ta phải tận lực phụng dưỡng cha mẹ, thì
mới có ý nghĩa đáng quý và khi cha mẹ theo ông bà, phải có bổn phận lo mồ mả,
cúng kiến để vong linh cha mẹ được sớm vãng sanh về cảnh giới an lành.
Đó là bổn phận của người con đối
với cha mẹ phải biết kính hiếu thật đúng nghĩa vậy.
Đổi với con cái ngày
nay, với văn minh vật chất như đã dẫn thượng, đã làm thay đổi sự sanh hoạt
trong gia đình, bởi vì chúng nó tỏ ra nhanh nhẹn, hấp thụ dễ dàng, lại còn trẻ
đi làm có tiền lương riêng, trong khi Ông Bà, Cha Mẹ lần lượt nay đã già yếu,
chậm chạp, khó khăn hấp thụ văn minh vật chất, tiền của càng ngày không bằng các
con cháu, cho nên có một số gia đình chúng nó không lo lắng hết lòng phụng dưỡng
Cha Mẹ để đưa đến không KÍNH HIẾU CHA MẸ như xưa nữa.
Đó là bổn phận của người con đối
với cha mẹ phải biết kính hiếu thật đúng nghĩa vậy.
Phần bổ túc thêm :
Sau khi bài KÍNH HIẾU CHA MẸ đã
được đăng tải, có nhiều thân hữu viết thơ hài lòng, bởi có ý tưởng giống nhau,
rất mong các con các cháu sanh trưởng từ cuối thập niên 20 đến nay, nối tiếp
phong tục tập quán xa xưa từ thời nhà có ba gian hai chái, trong nhà đôi khi
có tứ đại đồng đường, các con, cháu chắt ăn ở chung, trên thuận dưới hòa với
nhau, mặc dù không có nhà cửa, xe cộ khang trang, văn minh tuyệt vời, có máy móc
đủ loại như hiện nay nào là các máy : điện thoại, điện toán (ordinateur
=computeur) cầm tay, Internet, truyền hình mặt dẹp... Nhưng thời đó, cuộc sống
ềm đềm trong mái ấm gia đình dầy tình thương trên dưói một nhà.
Đổi với con cái ngày
nay, với văn minh vật chất như đã dẫn thượng, đã làm thay đổi sự sanh hoạt
trong gia đình, bởi vì chúng nó tỏ ra nhanh nhẹn, hấp thụ dễ dàng, lại còn trẻ
đi làm có tiền lương riêng, trong khi Ông Bà, Cha Mẹ lần lượt nay đã già yếu,
chậm chạp, khó khăn hấp thụ văn minh vật chất, tiền của càng ngày không bằng các
con cháu, cho nên có một số gia đình chúng nó không lo lắng hết lòng phụng dưỡng
Cha Mẹ để đưa đến không KÍNH HIẾU CHA MẸ như xưa nữa.
Đó là, tâm trạng chung,
làm đau lòng cho Cha Mẹ già không ít.
Hơn nữa, chúng ta nên
nằm lòng để bớt đau khổ tuổi già vì : Cha Mẹ thương
con vô hạn, để nuôi dưỡng con từ mới lọt lòng, mỗi khi con đau ốm Cha Mẹ lo
lắng để mau hết bịnh cho đến khôn lớn nên người và còn chọn lựa dựng vợ gả chồng
là bổn phận là niềm vui,
Trái lại, con thương Cha Mẹ
có hạn, cho nên khi Cha Mẹ đau ốm, con đến dòm ngó, hỏi thăm vài câu là thấy đủ
rồi đi...
Ngoài ra, tiền bạc, nhà cửa
của Cha Mẹ là của con, trái lại, tiền bạc, nhà cửa của con Không Phải của Cha
Mẹ, vì thế con xài tiền bạc của Cha Mẹ thoải mái, Cha Mẹ cần tiền bạc của con
chẳng dễ chút nào
Và ngày nay, con còn đặt Cha
Mẹ ở đâu thì Cha Mẹ phải ngồi đó, bởi vì, con đã tự ý chọn Vợ hay Chồng kể ly
dị nữa, đáng cho chúng ta suy ngẫm cuộc đời... HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.16/9/2012.)
No comments:
Post a Comment