********
"Tuyết Sơn Phì Nhị cánh vô
tạp
Thuần xuất Đề Hồ ngã thường
nạp"
(Cỏ
Phì Nhị đơm ròng Đỉnh Tuyết
Vị
Đề Hồ ta từng nếm biết).
Trong kinh Niết Bàn có lời dụ rằng : Trên đỉnh Tuyết Sơn
(dụ cho Pháp Giới Chư
Phật) có loài Thanh Tịnh Ngưu (dụ cho Pháp Thân Chư Phật ) ăn một thứ cỏ Phì
Nhị (dụ cho Thiền Duyệt
) sinh ra một loại sữa Đề Hồ (dụ cho Thực Pháp). Ai ăn thứ Đề Hồ ấy thì thành
Phật chứng Niết Bàn. Phật pháp là thứ Đề Hồ mà các Thiền Sư từng nếm qua và
chứng Niết Bàn Diệu Tâm. Niết Bàn Diệu Tâm là một cảnh giới Thường Lạc Ngã Tịnh, không sinh diệt và dung thông vô
ngại : tức là Lý vô ngại Pháp Giới, Sự vô ngại Pháp Giới, Lý
Sự vô ngại Pháp Giới, Sự Sự vô ngại
Pháp Giới. Trong cảnh giới đó, một Tánh dung thông tất cả Tánh, một Pháp chứa
đựng tất cả Pháp.
Nhất Tánh viên thông nhất thiết
Tánh
Nhất Pháp biến hàm nhất thiết
Pháp".
(Một
Tánh thông suốt tất cả Tánh
Một
Pháp chứa đựng tất cả Pháp).
Kinh Hoa Nghiêm có mô tả cái tương dung tương nhiếp
của tất cả Pháp, trong đó một vật như một tấm gương vừa in hình tất cả vật khác
và đồng thời dung chứa tất cả các vật khác :" Trong một hạt
bụi tôi thấy vô số các cõi Phật ,mỗi cảnh giới đều có các Đức Như Lai với hào
quang quý báu".
Thiền Sư Khánh Hỷ cũng diễn tả cái Pháp Giới vô ngại
nầy :
"Càn Khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật Nguyệt bao hàm giới tử trung".
Nghĩa là cả tam thiên đại thiên
thế giới nhét vào đầu sợi lông ,cả Mặt Trời, Mặt Trăng nhét vào hạt cải mà tất
cả không chướng ngại, vẫn dung thông vô ngại.
********
"Nhất Nguyệt phổ hiện nhất thiết
thủy
Nhất thiết thủy Nguyệt nhất Nguyệt nhiếp".
(Một
Mặt Trăng hiện ra vô số Trăng
Vô
số Trăng chỉ do một Mặt Trăng nhiếp).
Một Mặt Trăng chiếu trên mặt nước sông hồ thành vô số Trăng:
Một là tất cả “nhất tất nhất thiết’’.Vô số Trăng thâu nhiếp bởi một Mặt Trăng:
Tất cả là một “nhất thiết tức nhất”. Do đó Rõ được ‘‘Một’’ Mặt Trăng Thật là thấu “Tất Cả” Trăng. Cũng như Rõ được “Nhất” niệm Chân Như là thấu suốt mười phương Chư
Phật. Rõ được “Nhất” Tâm đạt đến Vô Tâm là Đại
Tâm Đại Ứng thì Pháp Giới lộ toàn thân. Rõ được “Nhất” Pháp chi sở ấn thì sum la vạn tượng hiện đầy
trong Hư Không…
Đó là cái nguyên lý “bất nhị
” và đối với vầng Trăng thanh tịnh là cái lẽ “Tịch chiếu bất nhị”.Vì
rằng Trăng “tịch”, tuy “năng chiếu” thành vô số Trăng mà vẫn tròn đầy bất
động không sinh diệt, không tăng giảm, thường soi thường chiếu, rõ ràng chân
thật và tự tại, trùm khắp vô biên. Còn vô số Trăng trên Mặt Nước là “sở chiếu” thì động và sinh diệt theo Mặt Nước động và
Bầu Trời bị mây mù che phủ. Tuy nhiên khi Mặt Nước lặng yên như Gương và Bầu
Trời trong không có mây mù thì vẫn không lìa “tịch” vẫn tương ưng với Thể Tánh thanh tịnh của vầng
Trăng “MỘT”.
Đó cũng là cái nguyên lý "bất tức bất ly" giữa Bản Thể và Hiện Tượng .Trăng ví như
Bản Thể, Bóng Trăng
phản chiếu trên mặt nước ví như Hiện Tượng - Là
Hiện Tượng không có Hiện Tượng nào không ở trong Bản Thể, phụ thuộc
Bản Thể. Cũng như Ánh Trăng phụ thuộc vào Mặt
Trăng , Mặt Trăng tròn đầy thì Ánh Trăng tròn đầy, Mặt Trăng khuyết thì Ánh
Trăng khuyết – Là Bản
Thể không có Bản
Thể nào biểu hiện mà không thông qua Hiện Tượng. Như nhìn Bóng Trăng khuyết trên sông
hồ là biết Mặt Trăng thật đang bị che khuất ,nhìn Bóng Trăng tròn đầy trên mặt
sông hồ là biết rằng Vầng Trăng Một tròn đầy.
"Hiện
Tượng" không là "Bản Thể" nhưng bỏ Hiện Tượng tìm Bản Thể như bỏ Sóng tìm Nước ,không sao có
Nước.
Bản
Thể không rời Hiện
Tượng, nhưng bảo Hiện Tượng là Bản Thể như ngỡ Sóng là Nước thì không sao biết
được Nước là gì? Ngỡ
Ánh Trăng trên mặt nước sông hồ là Mặt Trăng thật thì không thể biết được Mặt
Trăng thật là gì? Nước không là Sóng, nhưng Nước không rời Sóng : "Nước và Sóng
bất tức bất ly". Mặt Trăng không là Ánh Trăng nhưng Mặt Trăng không rời Ánh
Trăng: "Mặt Trăng và Ánh Trăng bất tức bất ly".
********
"Chư Phật Pháp Thân nhập ngã Tánh
Ngã Tánh đồng cộng Như Lai hiệp".
(Chư
Pháp Thân Phật vào Tánh ta
Tánh ta cùng với Như Lai hiệp).
Cũng như cái lý tịch chiếu của Vầng Trăng “Một” thành vô
lượng Ánh Trăng trên mặt nước sông hồ ,Pháp Thân Phật thể nhập trong Tánh của
chúng sanh thành ra vô lượng Báo Thân và Hóa Thân Phật, thành ra vô lượng Pháp
Giới Tam Thiên Đại Thiên với đủ loại sum la vạn tượng tràn ngập trong Hư Không
vô biên. Nhưng chính cái Hư Không vô biên này lại là cái Không Tuyệt Đối và Vi
Diệu, là Như Lai Tạng, là kho báu Như Lai chứa vô lượng Pháp Giới, tuy có mà
chẳng có, tuy không mà chẳng không , tuy vô hình vô tướng, phi vật phi pháp, phi
Phật phi phàm, phi nội phi ngoại, phi tiểu phi đại, phi nhất phi dị, phi minh
phi bạch, phi sinh phi diệt, phi thô phi tế, phi khai phi bế, phi thượng phi hạ,
phi thành phi hoại, phi nghịch phi thuận, phi thông phi tắc, phi cương phi
nhu….. nhưng tùy lực huyền cơ, tùy lúc huyễn pháp, tùy duyên hiển hình, tùy thời
hiện tượng, tùy huyền xuất tướng, tùy cơ ứng vật, vô vi biến hóa : “Không tức
thị Sắc”. Cho nên: Không đâu có Như Lai mà Như Lai
trùm khắp tất cả Pháp Giới: Như Lai vô khứ vô lai. Không đâu có Niết Bàn mà Niết Bàn tràn ngập Hư Không vô
biên: Niết Bàn Vô Trụ. Không đâu có Bát
Nhã mà Bát Nhã đầy ắp Càn Khôn Vũ Trụ:
“Bát Nhã vô tri ,vô sở bất tri”. Không đâu có
Pháp Thân Phật mà đâu đâu cũng là Pháp Thân Phật: Pháp Thân phi không
phi hữu. Như vậy TÁNH PHẬT là bình đẳng trong tất cả Pháp Giới, TÁNH của NHƯ LAI
và TÁNH của chúng sanh trong Hoa Tạng Pháp Giới là bình đẳng, là “MỘT”.
********
"Nhất Địa cụ túc nhất thiết
Địa
Phi Sắc, phi Tâm, phi Hạnh
Nghiệp".
Chứng một Địa là chứng tất cả Địa .Chỉ cần chứng một
Như Lai Địa là xem như chứng quả cả 10 giai
đoạn tu chứng của Thập Địa Bồ Tát. Mười quả vị tu chứng của Thập Địa Bồ Tát từ
thấp tới cao là :
1. Hoan Hỷ
Địa
2. Ly Cấu
Địa
3. Phát Quang
Địa
4. Diệm Huệ
Địa
5. Cực Nan Thắng
Địa
6. Hiện Tiền
Địa
7. Viễn Hành
Địa
8. Bất Động
Địa
9. Thiện Huệ
Địa
10. Pháp Vân Địa
Ngài Huyền Giác chỉ chú trọng vào cái tuyệt cùng, cái
Vô Vi, cái Diệu Vô, cái Rỗng Suốt mà vi diệu, cái gốc tuyệt cùng của đường Tâm
chứ không phải chú trọng vào ngọn hay cành lá của Tâm, nên đi đến cửa Vô Vi và
đập nát cánh cửa nầy ngộ nhập Vô Vi.
Ngài nói :
"Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn
Trích diệp tầm chi ngã bất năng".
(Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
Chọn
lá tìm cành ta chẳng đương).
Ngài khuyên hành giả ngay cửa Vô Vi nhảy thẳng vào
đất Như Lai. Như vậy đạt được một Địa Như Lai là đạt luôn mười quả vị tu chứng
của Thập Địa Bồ Tát .
"Tranh tự Vô Vi Thực Tướng môn,
Nhất siêu trực nhập Như Lai Địa".
(Sao bằng tự cửa Vô Vi ấy,
Một
nhảy thẳng liền đất Như Lai).
Chân Không Thiền Sư cũng vào cái cửa Vô Vi này :
"Diệu bản Hư Vô nhật nhật khoa
Hòa phong xuy khởi biến Ta Bà
Nhân nhân tận thức Vô Vi lạc
Nhược đắc Vô Vi thủy thị gia".
(Hư
Không lẽ ấy rất sâu xa
Thổi
dịu nơi nơi ngọn gió hòa
Vô
Vi tận biết người an lạc
Đạt
đến Vô Vi mới là nhà).
Trong cảnh Như Lai Địa không có sắc pháp, không có
Tâm, không có cả giới hạnh và nhân quả nghiệp báo:"Phi Sắc, Phi Tâm ,Phi Hạnh
Nghiệp".
Tổ thứ 3 Thiền Tông Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa) khi
truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ thứ 4 là Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta) đã nói
kệ:
"Phi
Pháp diệc phi Tâm
Vô
Tâm diệc vô Pháp
Thuyết thị Tâm Pháp thời
Thị pháp phi Tâm Pháp".
(Phi
Pháp cũng phi Tâm
Vô Tâm
cũng vô Pháp
Khi nói
Tâm Pháp ấy
Pháp ấy
phi Tâm Pháp).
Khi đạt được Đất Như Lai thì không cần phải quan tâm
tới ngũ giới, thập giới, 250 giới Sa Môn, Bồ Tát giới…v…v… vì khi đạt được Phật
Tánh rồi thì không cần một giới hạnh nào phải giữ, vì Phật Tánh không có phạm
giới. Chính Phật Tánh đã bao gồm mọi giới hạnh. Ý thì soi, Tâm thì rõ, Thân là
trí tuệ lấy làm y độ khắp chúng sanh :
"Phật Tánh giới châu Tâm địa ấn
Vụ lộ vân hà thể thượng y".
(Phật Tánh giới ý soi Tâm
rõ
Trên mình trí tuệ lấy làm y).
Đạt được Như Lai Địa cũng không còn nghiệp báo. Giống
như người nằm mộng, mơ thấy làm nhiều điều ác bị nhân quả nghiệp báo phải rơi
vào địa ngục để trả nghiệp .Khi thức dậy cảnh giới trong giấc mơ hoàn toàn mất,
không còn nhân quả ,không còn nghiệp báo, địa ngục cũng biến
mất.
- Đứng về hiện tượng vạn hữu của pháp thế gian Phật
dạy: "Vạn pháp do duyên sanh" nghĩa là có nhân quả
.
- Về Bản Thể Chơn Như, Phật dạy :"Phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi hòa, phi hợp, pháp nhĩ như
thị". Nghĩa là không còn nghiệp báo nhân quả.
********
"Đàn chỉ viên thành bát
vạn môn
Sát na diệt khước tam kỳ
kiếp".
(Búng tay tám vạn pháp môn thành
Nháy mắt rũ xong ba
kỳ kiếp).
Cái đốn ngộ của Thiền Sư vào đất Như Lai xảy ra trong
một sát na, một cái búng tay, một cái nháy mắt ,một tia điện chớp cả thảy tám
vạn pháp môn thành tựu ngay lập tức, cả vọng tưởng nghiệp chướng của ba A Tăng
Kỳ kiếp cũng sụp đổ tan biến. Cũng như một người bị bịnh nan y nằm mê sảng
nhiều ngày mơ thấy đang thọ khổ trong địa ngục A Tỳ vô số kiếp ,bỗng nhiên hồi
phục thức dậy thì địa ngục A Tỳ sụp đổ ngay ,cảnh giới thật hiện tiền liền về
trở lại Quê Nhà.
********
"Nhất thiết số cú phi số
cú
Dữ ngô linh giác hà giao
thiệp ?".
(Tất cả văn tự chẳng văn tự
Cùng linh giác ấy nào can dự).
Cái linh giác mà hành giả chứng Đạo không thể dùng
văn tự hay ngôn ngữ thế gian mà diễn tả được .Nó là Bản Thể của mọi Pháp thế
gian ,là Thực Tướng của mọi Pháp thế gian.
Bồ Tát Mã Minh (Asvaghosha),Tổ Sư Thiền thứ 12 chỉ
điểm:
"Nhất
thiết chư pháp tùng bản dĩ lai, ly văn tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly Tâm
duyên tướng ,tất cánh bình đẳng ,bất khả phá hoại, duy thị nhất Tâm, cố danh
Chơn Như".
********
"Bất khả hủy bất khả
tán,
Thể nhược Hư Không vô
nhai ngạn
Bất ly đương xứ thường
trạm nhiên
Mịch tức tri quân bất khả
kiến".
(Không thể chê không thể khen
Như Hư Không ấy vốn vô biên
Không rời trước mắt vẫn thường
nhiên
Nhưng mù mịt không sao thấy
được).
Cái cảnh giới đó không liên quan gì tới văn tự ,ngôn
ngữ nên khen cũng thừa mà chê cũng thừa .Thể của nó Rỗng Rang vắng lặng trùm
khắp vô biên như Hư Không. Nó vẫn thường trú tự nhiên không rời cái hiện hữu
hiện sanh của Hiện Tượng Giới. Đâu đâu cũng có nó, linh minh ,vi diệu ,ẩn nấp
trong Hiện Tượng Giới và Hư Không. Nó mù mịt không thể dùng mắt thế gian để
trông thấy mà phải chứng ngộ .
Cái "Rỗng Thênh Không Thánh" phi tâm ,phi vật, phi
pháp, phi phàm đó thật là linh diệu ,ở khắp mọi nơi ,không sanh diệt ,đứng yên
bất động, không đến không đi ,đầy bí ẩn và u huyền:
"Đạt Ma sừng sững giữa Hư Không
Đứng giữa Trời trong vẫn u
huyền".
Thế gian chỉ chấp cái "Tướng Có" mà không để ý đến
cái "Tướng Không" không tướng vi diệu nầy nên chẳng bao giờ tìm ra manh mối để
đạt đến Chân Lý.
********
Ngài Huyền Giác chỉ dạy:
"Thủ bất đắc ,xả bất
đắc
Bất khả đắc trung chỉ ma
đắc".
(Lấy chẳng được bỏ chẳng
được
Trong cái chẳng được là cái
được).
Cái "Rỗng Thênh Không Thánh" đó lấy chẳng được mà bỏ
chẳng được. Muốn chứng nó phải đi đến cái tuyệt đường ,tuyệt gốc, tuyệt lý ,
tuyệt tình , "Tuyệt Hậu Tái Tô". Nghĩa là chết đi rồi sống lại vào cái "vô sở
đắc " tối hậu để đạt được cái "sở đắc tối hậu".
Tử Dung Hòa Thượng dạy cho Thiền Sư Liễu
Quán:
"Huyền nhai tán
thủ
Tự khẳng thừa đương
Tuyệt hậu tái tô
Khi quân bất đắc".
(Buông tay trên dốc
thẳm
Tự tin vào chính
mình
Chết đi rồi sống lại
Ai lừa dối được
ngươi).
Và khi chứng được thì hoàn toàn không có sở đắc.Tổ
Thiền Tông thứ 23 Ngài Hạc Lặc Na (Haklena) từng chỉ
điểm:
"Nhận đắc Tâm Tánh thời
Khả thuyết bất tư
nghì
Liễu liễu vô khả đắc
Đắc thời bất thuyết
tri".
(Khi nhận được Tâm
Tánh
Mới nói chẳng nghĩ bàn
Rõ ràng không chỗ được
Khi được chẳng nói
biết).
Làm sao có chỗ đắc cho được khi một người đã ở sẵn
trong căn nhà của mình đang ở lại còn nói tôi trở về nhà. Chỉ khi mê không biết
mình đang ở trong nhà ,có điều không diễn tả được căn nhà thực của mình bằng
ngôn ngữ văn tự thế gian. Căn nhà đó thì: "Bất ly đương xứ thường trạm nhiên".
Tuy nhiên muốn nhận ra căn nhà "Rỗng Thênh Không Thánh" đó cũng không phải là
dễ. Nói theo Thiền Sư Cảnh Sầm là phải vượt qua đầu sào trăm trượng, còn trong
đầu sào thì vẫn còn ở Mặt Trăng thứ hai, chưa đạt đến rốt ráo tuyệt
cùng:
"Bách Trượng
can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắc nhập vị vi
chân
Bách trượng can đầu tu tấn bộ
Thập phương thế giới thị toàn
thân".
(Trăm trượng đầu sào vẫn đứng
yên
Tuy là được nhập chẳng phải hiền
Đầu sào trăm trượng cần vượt
khỏi
Mười phương thế giới thảy thân
mình).
Khi nhảy qua đầu sào trăm trượng thì mới thấy được
Tánh, chứng ngộ Pháp Thân. Khi đó cả 10 phương thế giới chính là Pháp Thân của
chính mình.
* Hay nói theo Tuệ Trung Thượng Sĩ ,phải lách mình
vượt ra khỏi cái lồng của con chim hồng hay cái lồng của thế gian đầy tham ái
ngũ trược ,khi thoát ra rồi thì mặc tình bay nhảy giữa Hư Không dài vô tận:
"Phiên thân nhất trịch xuất phần
lung
Vạn sự đô lô nhập nhãn Không
Tam giới mang mang Tâm liễu
liễu
Nguyệt hoa Tây một, Nhựt thăng
Đông".
(Xoay mình một ném vượt khỏi
lồng
Muôn sự đều không ,nhập mắt không
Ba cõi thênh thang , lòng sáng
rỡ
Trăng Tây vừa lặn ,xuất vầng
Đông).
* Con đường tuyệt lộ đó cũng chính là giải thoát như
cái thấu triệt Tự Thể của Thiền Sư Mông Sơn Đức Bị :
"Một hứng lộ đầu cùng
Đạp phiên ba thị thủy
Triệu Châu lão
siêu quần
Diện Mục chỉ như
thị".
(Đường đi chợt hết
bước
Giẫm ngược sóng là
nước
Già Triệu Châu quá
chừng
Mặt mày chẳng chi
khác).
Cùng đường tuyệt lộ như Thiền Sư Mông Sơn ,bất chợt
giẫm ngược sóng gặp nước ,chộp được ông già Triệu Châu ,bắt gặp ngay Bản Lai
Diện Mục của chính mình.
* Tuyệt lộ đó cũng là cái cửa "Vô" của Thiền Sư Vô
Môn Huệ Khai với cái công án "Vô" của Triệu Châu. Phải đi qua cửa Tổ, phải đi
tuyệt đường Tâm mới có thể gặp cái Diệu Ngộ .Vậy thế nào là cửa Tổ ? Chính là
một chữ "Vô", Cửa Không Cửa (gate of no gate) của nhà
Thiền.
Phật dạy "Tâm là Tông chỉ ,cửa
Không là cửa Pháp". Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng đã chỉ: "Giáo ngoại biệt truyền ,bất lập văn tự, trực chỉ nhân Tâm ,kiến
Tánh thành Phật".
Vậy cần phải đi hết đường Tâm .Quan môn của Tổ Sư
phải thấu triệt. Thấu triệt cái cửa "Vô "của Thánh Trí cũng là cái Diệu Vô vượt
lên trên cả Hữu và Vô. Vượt luôn cả 20 cửa Không như: "nội không ,ngoại không
,nội ngoại không ,không không ,đại không ,tán không ,tính không, tự tính không,
chư pháp không…". Cũng chẳng cần phải lập chân , bỏ vọng như Ngài Huyền Giác đã
dạy :
"Chân bất lập vọng bổn không
Hữu Vô câu khiển bất không không
Nhị thập không môn nguyên bất trước
Nhất Tánh Như Lai thể tự
đồng".
Cánh cửa Không đó, nếu lọt qua được thì cả Càn Khôn
vũ trụ nằm trong bàn tay mặc tình du hí Tam Muội :
"Đại Đạo vô môn , thiên sai hữu lộ
Thấu đắc thử quan, Càn Khôn độc
bộ".(Thiền Sư Huệ
Khai)
(Đại Đạo không cửa, có nghìn nẻo vào
Qua được cửa nầy, Đất Trời riêng
bước).
Thiền Sư Huệ Khai chỉ rõ :
"Hãy đem 360 đốt xương , 8 vạn 4
ngàn lỗ chân lông, toàn thân cả 6 căn khởi nghi đoàn ,tham chữ "Không" .Giống
như nuốt một hòn sắt nóng, muốn khạc mà khạc chẳng ra ,không còn vọng tri vọng
giác rồi thuần thục tự nhiên trong ngoài đánh thành một phiến ,như người câm nằm
mộng thì tự mình biết. Rồi bỗng như Trời long đất lở như đoạt được Thanh Long
Đao của Quan Vân Trường: gặp Phật giết Phật ,gặp Tổ giết Tổ .Bên bờ sanh tử mà
tự tại, hướng lục đạo luân hồi mà du hí Tam Muội ". Thiền Sư Huệ Khai đã
miệt mài công án "VÔ " và đã Đại Ngộ khi nghe tiếng trống buổi trưa ở trai
đường:
"Thanh thiên bạch nhật nhất thanh lôi
Đại địa quần sanh nhãn hoát khai
Sum la vạn tượng tề khể thủ
Tu Di bột khiêu vũ tam
đài".
(Trời quang mây tạnh sấm nổ vang lừng
Mọi vật trên đất, mắt bỗng mở
bừng
Muôn hồng nghìn tía cúi đầu làm
lễ
Núi Tu Di cũng nhảy múa vui
mừng).
Cái lưỡi kiếm "VÔ" sắc bén của Triệu Châu quả lợi hại
và thần diệu vô cùng, nhưng nếu dụng sai ở cái sát na nóng bỏng như thế thì sẽ
toi mạng, thân bị đứt làm hai khúc:
"Triệu Châu lộ đao kiếm
Hàn sương quang diệm diệm
Cánh nghi vấn như hà
Phân thân tác sở đoạn".
(Lưỡi kiếm Triệu Châu rút ra khỏi
vỏ
Lạnh như sương mai nóng như lửa
Nếu ai hỏi: sao thế nầy
?
Thân bị đứt làm hai
đoạn).
Ngay cái sát na đột phá đó trước cửa Tổ ,một niệm vừa
khởi ,hay một ý thức suy nghĩ vừa sanh ra thì xem như hỏng việc sụp đổ hoàn
toàn .Còn ngay cái sát na đột phá đó mà qua được cửa, thì không những đỡ được
đường kiếm của Triệu Châu ,toàn thân thấy được Triệu Châu mà còn cùng Lịch Đại
Chư Tổ nắm tay cùng đi ,ngang hàng với các Ngài ,nhìn cùng một con mắt, nghe
cùng một lỗ tai, nói cùng một giọng lưỡi ! Sau một bước nhảy giữa Hư Không thì
mặc tình muốn nói thì nói, muốn im thì im ,nói tức im, im tức là nói ,tùy duyên
hoặc nói hoặc im ,mở cửa từ bi thí pháp rộng lớn độ sanh không ngăn
ngại :
********
"Mặc thời thuyết ,thuyết
thời mặc
Đại thí môn khai vô ủng
tắc".
Bởi vì chứng đến đó thì Tông cũng thông mà Thuyết
cũng thông định huệ sáng tròn đầy đủ cũng như hằng sa Chư Phật ở mười
phương:
"Tông diệc thông ,Thuyết diệc thông
Định huệ viên minh bất trệ
không
Phi đãn ngã kim độc đạt liễu
Hằng sa Chư Phật thể giai
đồng".
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Tông cũng thông Thuyết cũng
thông
Định huệ sáng tròn chẳng trệ
không
Nào phải mình ta riêng đạt đấy
Hằng sa Chư Phật thể giai
đồng).
Lúc đó thì :
"Đạo thông Thiên Địa hữu hình
ngoại
Tư nhập phong vân biến thái
trung".
(Đạo thông Trời Đất hiện ra
mặt
Trí nhập mây gió tỏa hành vi).
Thân tuy còn là Tứ Đại của thế gian nhưng trí đã xuất
thế gian nhả ngọc phun châu làm mưa làm gió giữa Hư Không như Rồng gặp mây mưa
pháp cứu độ chúng sanh : "Rắn biến thành Rồng không đổi
vảy". Lúc đó thì vinh nhục ,danh lợi thế gian không còn dính mắc,vào
rừng sâu độc hành độc bộ nơi núi hiểm rừng già ,dựng mái chùa tranh thung dung
tĩnh tọa :
"Tự tùng đốn ngộ liễu vô sanh
Ư chư vinh nhục hà ưu hỷ
Nhập thâm sơn trú lan nhã
Sầm ngâm u thúy trường tùng
hạ
Ưu du tĩnh tọa dã tăng
gia
Quých tịch an cư thực tiêu
sái".
(Tự thời thoát ngộ lý vô
sanh
Cơn vinh nhục mừng lo gì tá
?
Vào rừng sâu ở lan nhã
Núi dựng tùng già ôm bóng cả
Thong dong ngồi tịnh mái chùa tranh
Cảnh lặng lòng yên thanh thoát
lạ!)
Và trong cảnh rừng chiên đàn hiểm trở thanh thoát ấy
là nơi trú ngụ của Sư Tử. Bao nhiêu chim chóc ,muông thú hay phàm phu tục tử ồn
ào danh lợi, đầy nhân ngã tham ái thị phi của nhân gian đều cao bay xa chạy
không dám đến:
"Chiên đàn lâm ,vô tạp thụ
Uất mật sâm trầm Sư Tử trú
Cảnh tịnh lâm nhàn độc tự du
Tẩu thú phi cầm giai viễn
khứ".
(Rừng chiên đàn không tạp thụ
Sâu kín um tùm Sư Tử trú
Cảnh vắng rừng im một mình chơi
Cao bay xa chạy chim cùng
thú).
Một khi Sư Tử hống lên thuyết vô úy như tiếng sấm
giữa rừng thì trăm muôn nghìn thú hay tà ma Vô Minh ngoại đạo đinh tai nhức óc,
xé cả óc tủy tiêu tan. Cả loài Hương Tượng hay Tiệm Giáo cũng chạy dài, chỉ có
Thiên Long tức Rồng Trời hay Đại Thừa Đốn Giáo lắng nghe mừng được mưa
Pháp:
"Sư Tử hống ,vô úy
thuyết
Bách thủ văn chi giai não liệt
Hương Tượng bôn ba ,thất khước uy
Thiên Long tịch thính sanh hân
duyệt".
(Sư Tử hống thuyết vô úy
Trăm thú nghe qua xé óc tủy
Hương Tượng chạy dài hết liệt uy
Thiên Long lặng ngóng lòng hoan
hỷ).
Lời thuyết Pháp của Chư Phật ,Chư Tổ và Thiền Sư ngộ
đạo như tiếng hống đầy uy lực của Sư Tử ,như núi bảy báu thường tuôn suối trí
tuệ, phá tan màn Vô Minh đem lợi ích cho chúng sanh ,phá mê khai ngộ vượt qua
bờ sanh tử luân hồi:
"Nguy nguy thất bảo
sơn
Thường xuất trí huệ
tuyền
Hồi vi chân pháp vị
Năng độ chư hữu
duyên".
(Lời kệ của
Tổ thứ năm Đề Đa Ca (Dhirtaka)).
(Vời vợi núi bảy báu
Thường tuôn suối trí huệ
Chuyển thành vị chơn
pháp
Hay độ người có
duyên).
Các Ngài có Tâm "Lão Bà" với lòng từ bi rộng lớn vô
biên muốn độ hết thảy chúng sanh qua khỏi bờ mê, biển khổ.Thiền Sư Thông Giác
Thủy Nguyệt khi sắp tịch, còn gọi đệ tử là Tông Diễn nói kệ dặn
dò:
"Thủy xuất đoan do tẩy thế
trần
Trần thanh thủy phục nhập nguyên
chân
Dữ quân nhất bát cam lồ
thủy
Sái tác ân ba độ vạn
dân".
(Nước cốt tuôn ra rửa bụi
trần
Sạch rồi nước lại trở về chân
Cho ngươi bát nước cam lồ quý
Ân tưới chan hòa độ vạn dân).
Các Ngài là những Bậc Đại Trượng Phu đã chứng ngộ,
mỗi lần rút "Gươm Tuệ" ra là Ánh Bát Nhã sáng chói như kim cương loé, làm cho
ngoại đạo rớt hết Tâm Mê và loài Thiên Ma phải chạy dài, đem lại lợi ích giải
thoát cho vô số chúng sanh:
"Đại Trượng Phu bỉnh Tuệ
Kiếm
Bát Nhã phong hề Kim Cang
diệm
Phi đản năng thôi ngoại đạo
Tâm
Tảo tằng lạc khước Thiên Ma đảm" (Thiền Sư Huyền Giác).
(Đại Trượng Phu cầm kiếm
Huệ
Ánh Bát Nhã hề Kim Cương
loé
Đã hay ngoại đạo bật Tâm Mê
Lại khiến Thiên Ma lùi khiếp
vía).
* Nhưng từ đâu có nước cam lồ quý ? Từ đâu có cái
hùng lực của Sư Tử hống thuyết vô úy ? Từ đâu có núi bảy báu tuôn ra suối trí
huệ nhiệm mầu? Từ đâu có cái lưỡi Gươm Tuệ loé Ánh Kim Cương sắc bén chặt đứt
hết Tâm Mê và cái khả năng làm Thầy cả Trời và Người cứu độ chúng
sanh?
********
Ngài Huyền Giác trả lời:
"Hữu nhân vấn ngã giải hà
Tông?
Báo đạo :Ma Ha Bát Nhã
lực
Hoặc thị hoặc phi nhân bất
thức
Nghịch hành thuận hành thiên mạc
trắc".
(Có người hỏi ta, giải Tông gì?
Xin thưa : Ma Ha Bát Nhã lực
Làm phải,làm trái Người mù tịt
Làm ngược làm xuôi Trời không
biết).
Đó là Ma Ha Bát Nhã làm
ra!
Ma Ha Bát Nhã là Bát
Nhã rộng lớn trùm khắp, bất khả tư nghì, không thể dùng văn tự ngôn ngữ thế gian
để diễn tả, đó là trạng thái siêu tâm linh giác quan con người không thể nhận
biết mà phải chứng ngộ như Đức Phật, các Tổ và Thiền Sư. Bát Nhã là cái tối
thượng : “Thánh Đế Đệ Nhất Nghĩa” vi diệu, nó làm phải làm trái con Người mù tịt
không nắm bắt được, nó làm ngược rồi làm xuôi cả loài Trời thông minh trí tuệ
cách mấy cũng không hiểu nổi. Bát Nhã thật ra là cái không tên không tuổi, không
xuất xứ, phi phàm phi thánh, phi hữu phi vô, phi tà phi chánh, phi nội phi
ngoại, phi thành phi hoại, phi thô phi tế...Thể Tánh thì rỗng không, thường trụ,
không sinh diệt…là cái rốt ráo tuyệt đối, nên có thể gọi là “Một” hay “Chơn Nhất” ,
vì cái Một hay Chơn Nhất này biến hóa ra tất cả Càn Khôn vũ trụ trong
Tam Giới : “Nhất tức Nhất thiết, Nhất thiết tức Nhất”-
(Một là Tất Cả, Tất Cả là Một). Bát Nhã thì
trùm khắp, là cái Nhất siêu việt số lượng, nên Kinh nói: “Sum la cập vạn tượng nhất Pháp chi sở ấn”, nghĩa là
chỉ “ẩn” một Pháp là sum la vạn tượng tràn
ngập Hư Không, siêu việt ở số lượng, chẳng phàm chẳng thánh, chẳng ta chẳng
người, tất cả bình đẳng trong cái “Nhất” và
tất cả cũng đều hàm “Nhất” mà sanh, nên Kinh
nói: “Phật Tánh bình đẳng, mênh mông khó lường, thánh
phàm bất nhị, tất cả viên mãn”. Từ cây cỏ thực vật, tất cả chúng sanh
cho đến núi sông vũ trụ càn khôn đều hàm “Nhất” mà có. Kinh lại nói: “Liễu tri Nhất thì muôn việc đều xong” vi`“Nhất” là
cái Chân Thường, cái Tuyệt Cùng của Lý và Sự. Kinh cũng nói: “Nhất niệm biết tất cả Pháp”. Niệm ở đây là niệm Chân
Như, Chân Như Tự Tánh khởi Nhất niệm thì Bát Nhã hiển bày, là cái “ấn” của vạn Pháp: Nhất Pháp
chi sở ấn, là thế giới Nhất Chơn với muôn ngàn sai biệt sum la vạn
tượng nhưng tất cả đều bình đẳng và cùng một thể: “Một
là Tất Cả, Tất Cả là Một”. Ma Ha Bát Nhã tuy là cái Không Tên, Không
Biết, Không Thấy, không thể dùng văn tự để diễn đạt; nhưng nếu không dùng văn
tự hay lời nói làm phương tiện thì lấy gì để hóa độ chúng sanh ? Do đó trong
Bửu Tạng Luận, vì lòng Từ Bi, Đại Sư Tăng Triệu phương tiện giải thích về cái
Nhất hay Chơn Nhất Bát Nhã :
“Nhất là đối với dị (khác biệt),
dị đã phi dị, Nhất cũng phi Nhất, phi Nhất bất Nhất, giả lập Chơn Nhất, Chơn
Nhất thì phải lập ra văn tự lời nói có thể diễn tả. Do đó, phi Nhất thấy Nhất,
hễ có sở thấy tức là có Nhị, chẳng được gọi là Chơn Nhất, cũng chẳng gọi là Tri
Nhất. Nếu dùng Nhất để Tri Nhất, tức gọi là Nhị, chẳng gọi là Nhất; nếu có Sở
Tri tất có Vô Tri, có Tri và Bất Tri, tức có Nhị vậy.
Cho nên Đại Trí Vô Tri vô sở Bất Tri, mãnh liệt Thường Tri,
Thường Tri Vô Tri , giả danh gọi là Tri, phi Ngã và Ngã sở, phi Tâm phi
Ý.’’
Do đó trong Bát Nhã Tâm
Kinh, Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm “ Bát Nhã Ba La Mật
Đa” dùng cái “Vô Tri” vượt qua cái
Kiến Văn Giác Tri , cả Sáu Căn đồng loạt không khởi niệm: phi Tâm, phi Ý, phi
Ngã, phi Ngã Sở đạt đến “Tâm Không” nên không
còn chướng ngại, khi đó Sáu Căn trở thành sáu Ban Thần Dụng, chuyển Thức thành
Trí chiếu kiến Ngũ Uẩn Giai Không liền độ nhất thiết khổ ách. Bát Nhã thì Vô
Tri, nhưng vì Mê nên có Thế Giới vật chất với muôn ngàn sai biệt cho nên mới
sinh ra có Tri và Sở Tri thông qua Sáu Căn nhận biết cái sai biệt của muôn Pháp,
chấp Cảnh sanh Tình mà sinh ra Thức với cái Kiến Văn Giác Tri. Tuy nhiên, muốn
trở về Bát Nhã Vô Tri thì cũng phải bắt đầu từ cái Kiến Văn Giác Tri, nhưng
không chấp dính, vì nó sẽ là một khối trở ngại lớn lao, con Mắt Đạo sẽ bị mù
hẳn, không thể Tri cái Vô Tri. Đại Sư Tăng Triệu giải
thích:
‘‘ Pháp nếu Hữu Vi tức có Sở Tri,
Pháp nếu Vô Vi, cũng như Hư Không, chẳng có bờ bến thì chẳng có Tri và Bất Tri.
Bậc Thánh sở dĩ nói Tri là vì có tâm có sở, có làm có pháp, nên có thể Tri; Nếu
dùng Hữu Tri để Tri nơi Tri thì chẳng có chỗ đúng…Kỳ thật, Tri và Vô Tri chẳng
phải là hai. Sở dĩ nói Vô Tri, vì phàm phu chẳng liễu đạt Chơn Nhất, chấp Ngã và
Ngã Sở, Vọng Tâm so đo có Năng Tri Sở Tri, nên nói Vô Tri vô phân biệt. Phàm phu
nghe xong liền học Vô Tri, như người ngu muội, chẳng thể phân biệt, nên bậc
thánh vì những kẻ hư vọng mà nói: “Như Lai liễu liễu
Tri Kiến, chẳng phải Bất Tri”. Phàm phu nghe xong liền học Hữu Tri, hễ
có Hữu Tri thì bị Hữu Tri chướng ngại, ấy là Hư Tri hay Vọng Tri, sự Tri như thế
lại càng xa với Đạo vậy. Kinh nói "Chúng sanh thân cận
ác Tri Thức, sanh trưởng ác Tri Kiến". Những kẻ học Vô Tri, đều bỏ Hữu
Tri học Vô Tri, mà chẳng biết Vô Tri tức là Tri, còn những kẻ bỏ Vô Tri học Hữu
Tri, chẳng biết có Tri tức có Giác, có Giác thì Tâm Ý sanh khởi muôn ngàn tư
tưởng, chẳng thể lìa khổ. Hai thứ kiến chấp Tri và Vô Tri đều chẳng thể khế
hợp lý Như Như, nên chẳng thể đến chỗ chơn thật”.
Bát Nhã có nhiều tên gọi như : Niết Bàn, Chân Như, Như
Lai Tàng, Thực Tướng, Hư Không, Chân Không, Phật Tánh, Tự Tánh, Bản Tế…Cái Thể
của Ma Ha Bát Nhã không thể nhìn thấy,nhưng sự Dụng lại vô cùng : ứng cơ thì có
muôn ngàn phương tiện, giáo hóa thì có vạn ức pháp vị, hiện vật thì đủ thứ kỳ
hình, biến hóa thì có đủ tướng hiện , tạo tác thì tinh vi hoàn mỹ, thị hiện sanh
mà vô sanh, thị hiện tướng mà vô tướng, thị hiện thân mà vô thân, vô tri mà tri
vô sở bất tri, suy lường mà chẳng lường, thường biết mà chẳng biết, vô vi mà vi
vô sở bất vi, vô tướng mà lập tướng , vô tâm mà lập tâm phi tâm, vô danh mà lập
danh phi danh, vô vật mà tạo vật vô lượng vật…giống như trong gương tỏa ngàn
tượng nước hiện muôn sắc, trong bóng mà tạo hình vũ trụ Càn Khôn, biển nổi ngàn
sóng, vô vi biến hóa : “Không tức thị Sắc”. Tuy là hiện tướng sum la vạn tượng
đầy ắp trong Hư Không, nhưng tất cả đều lấy Vô Trụ làm Gốc, Vô Tướng làm Thể,
Tâm làm Tông Chỉ và Cửa Không làm Cửa Pháp, là cái “Rỗng Thênh Không Thánh” của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, cái
“Bổn Lai vô nhất vật” của Lục Tổ Huệ Năng, cái
“Rỗng Rang Trong Suốt” đồng với Hư Không :
“Sắc tức thị Không”. Nó cũng là ‘‘Kho Báu Như
Lai’’ hay “Như Lai Tàng” chứa vô
lượng Pháp Giới, hay “Viên Ngọc Ma Ni” dụ cho
TÁNH chiếu ra cái Ánh Sáng vi diệu dụ cho TÂM, Tâm này là Tâm Gốc là cái Ánh
Bát Nhã biến chiếu ra vạn Pháp : “Không tức thị Sắc”. Cái Ánh Bát Nhã nầy
chính là Cái Rõ ẩn nấp nơi Hiện Tượng Giới và Hư Không,
là cánh cửa Vô Vi ngộ nhập Bát Nhã. Nhận ra Cái Rõ hay cái Ánh Rõ Bát Nhã nầy
là đã đi huốt đường TÂM, nhảy thẳng vào Đất Như Lai, thấy TÁNH thành
Phật.
*Trong Pháp hội Linh Sơn, Thế Tôn giơ Cành Hoa Sen lên
chỉ cho đại chúng. Lúc đó đại chúng đều im lặng ngơ ngác, không biết chuyện gì,
chỉ có Tôn Giả Ca Diếp mĩm cười, chứng ngộ Bát Nhã . Thế Tôn bảo
:
-“Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng Niết
Bàn Diệu Tâm Thực Tướng Vô Tướng Vi Diệu Pháp Môn , Giáo ngoại biệt truyền, bất
lập văn tự nay truyền cho Ca Diếp ”.
"Niêm khởi hoa lai
Vĩ ba dĩ lộ
Ca Diếp phá
nhan
Nhân thiên võng thố".
(Vừa giơ cành hoa
Cái đuôi đã lộ
Ca Diếp cười xòa
Trời người thất thố).
Trời và Người đều mù mắt ,mù trí điên đảo vọng tưởng
,không nhận ra cái yếu chỉ khi Thế Tôn giơ Cành Hoa Sen lên . Trời và Người đều
‘‘Tri ’’ cái ‘‘Sở
Tri’’ chấp vào cái tướng sinh diệt của Hoa Sen ,khởi niệm phân biệt
,suy đoán cái dụng ý của Thế Tôn khi giơ Cành Hoa Sen nên lạc vào thần thức vọng
tưởng .Trong khi tôn giả Ca Diếp ‘‘Vô Tri ’’
mà ‘‘Tri ’’ đang ở trong trạng thái Vô Tâm và
“Vô Niệm” niệm . Khi Thế Tôn giơ Cành Hoa Sen lên ,tức khắc trong một sát na
chợt nhận ra cái Ánh Rõ của Bát Nhã hiện ra nơi Cành Hoa Sen rồi trùm khắp cả Hư
Không cũng trong cái sát na ấy. Thế là Hư Không sụp đổ và toàn thể là Ánh Rõ của
Ma Ha Bát Nhã và Ca Diếp đã ngộ nhập vào Bát Nhã nên mỉm cười , trong khi Người
và Trời ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra .Cành Hoa Sen chỉ là phương tiện
nhỏ mà Thế Tôn tạm dùng ngay lúc ấy để chỉ Đạo, chỉ thẳng Bát
Nhã.
Thế Tôn có thể dùng ngón tay để chỉ Mặt Trăng ,cây
gậy để chỉ Mặt Trăng, ở đây Thế Tôn dùng Cành Hoa Sen để chỉ Mặt Trăng và chỉ
thẳng, chỉ trực tiếp Bát Nhã .
Thật ra ngón tay ,cây gậy hay Cành Hoa Sen đều là
Pháp mà cũng không phải là Pháp, chỉ là phương tiện để đạt đến bờ bên kia. Thế
Tôn không muốn chúng sanh cố chấp vào Pháp để sinh bệnh .Ngài đến trước Tháp Đa
Tử gọi Ca Diếp đến chia cho nửa tòa ngồi, lấy y Tăng Già Lê quấn vào mình Ca
Diếp rồi nói kệ phó Pháp :
"Pháp bổn Pháp vô Pháp
Vô Pháp Pháp diệc Pháp
Kim phó vô Pháp thời
Pháp Pháp hà tằng
Pháp".
(Pháp, gốc Pháp không
phải Pháp
Pháp không Pháp cũng là Pháp
Nay khi trao cái không
Pháp
Mọi Pháp đâu từng là Pháp).
Pháp mà Thế Tôn trao cho Ca Diếp không phải là những
tàng Kinh đầy văn tự hay ngôn thuyết mà là Kinh Vô
Tự không lời , Kinh này là cả một Bầu Trời Rõ, bầu trời chân không
"Rỗng Thênh Không Thánh". Kinh nầy là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa . Cũng ý này
,Thiền Sư Huệ Sinh ứng kệ chỉ Đạo cho vua Lý Thái
Tông :
"Pháp bản như vô Pháp
Phi Hữu diệc phi Vô
Nhược nhân tri thử Pháp
Chúng sinh dữ Phật
đồng
Tịch tịch Lăng Già Nguyệt
Không Không độ hải chu
Tri Không Không giác Hữu
Tam Muội nhậm thông chu".
(Pháp gốc như không Pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết Pháp ấy
Chúng sanh cùng Phật đồng
Trăng Lăng Già vắng lặng
Thuyền Bát Nhã rỗng không
Biết không không giác có
Chánh định mặc thong dong).
Trăng Lăng Già ở đây tức là cái Rõ hay cái Ánh Sáng
Bát Nhã, Mặt Trăng Thứ Hai hay cái Cửa Vô Vi; từ đây nhảy thẳng vào ngộ nhập Bát
Nhã. Thuyền Bát Nhã rỗng không nên nó chứa tất cả vũ trụ Càn Khôn với ba ngàn
thế giới .Nó làm phải làm trái loài Người mù tịt không hiểu nổi. Nó làm ngược
rồi làm xuôi cả loài Trời cũng không biết đâu là manh mối
.
Bát Nhã như một nhà ảo thuật đại tài biến hóa ra Càn
Khôn vũ trụ muôn loài , nó thật là minh , nó thật là diệu . Loài Người và loài
Trời như khán giả hiếu kỳ trẻ con càng quan sát càng thấy lạ lùng bí hiểm đã
huyền hoặc lại thêm huyền hoặc .
Thí dụ điển hình những gì Bát Nhã làm ra mà loài
Người - những nhà Khoa Học thông thái nhất hay loài Trời –những Người Hành Tinh
(Aliens) siêu đẳng nhất cũng không hiểu nổi hay hoàn toàn bất lực. Các nhà Khoa
Học của Địa Cầu thế kỷ 20 đã khám phá ra nguyên thủy của vũ trụ là một "Dị Điểm" (singular
point) cách đây khoảng 15 tỷ năm với kích thước vô cùng nhỏ d= 10-33 cm (10 lủy thừa trừ 33 centimet) trong vụ nổ Big
Bang. Năng lượng ban đầu biến thành các hạt cơ bản quarks rồi electrons
,protons, neutrinos… để thành lập nguyên tử vật chất đầu tiên nhỏ nhất và nhẹ
nhất là Hydrogen (H) và Helium (He ). Tuy là nhỏ nhất nhẹ nhất, mắt thường không
trông thấy được , nhưng đứa con đầu lòng : nguyên tử vật chất Hydrogen cũng lớn
hơn mẹ của nó tới 10 triệu tỷ tỷ lần .Rồi thì hàng trăm tỷ đám mây khí nầy
(Nebulae) sinh sinh hóa hóa bành trướng ra rộng lớn ra thành hàng trăm tỷ thiên
hà (galaxy) . Mỗi thiên hà lại có hàng trăm tỷ Hệ Mặt Trời (Solar System) .
Riêng Hệ Mặt Trời của chúng ta có 9 Hành Tinh trong đó có Địa Cầu (Earth) mà chúng ta đang sống. Các nhà Khoa
Học thực không thể hiểu nổi tại sao cái trứng vũ trụ ban đầu (cosmic egg) vô
cùng nhỏ lại sinh ra một lượng vật chất vô cùng lớn như vũ trụ hiện hữu ? Đúng
là một trò ảo thuật bí hiểm !Thật ra điều nầy cách đây hơn 500 năm Thiền Sư Chân
Nguyên chứng Bát Nhã đã nói ra rồi không phải đợi đến thế kỷ 20 các nhà Bác Học
mới khám phá ra được bằng dụng cụ khoa học :
"Nhất điểm Hư Vô thể bổn
không,
Vạn ban Tạo Hóa giá cơ đồng
Bao la thế giới Càn Khôn ngoại
Trạm tịch hàn quang sát hải
trung".
Hay Thiền Sư Đạo Hạnh đời Lý cũng nói
:
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
”.
(Hạt Bụi nầy có thì Vũ Trụ nầy có
Hạt Bụi nầy không, thì cả Vũ Trụ nầy cũng không ).
Các loài Trời hay Người Không Gian (Aliens) dù có
thông minh thông thái gấp ngàn lần người Địa Cầu ,dù cho họ có chế tạo được đĩa
bay hay UFO đi nhanh bằng vận tốc ánh sáng cũng bất lực hoàn toàn không thể đi
ngang dọc trong Thiên Hà Milky Way (Dải Ngân Hà) của chúng ta. Càng không thể
xuyên vũ trụ với hàng trăm tỷ thiên hà khác, cách chúng ta hàng chục tỷ năm ánh
sáng, trừ khi họ có tuổi thọ hàng tỷ năm ?...Trong khi đó đối với các Chư Phật
10 phương thì vũ trụ nằm trong lòng bàn tay của các Ngài. Bởi vì các Ngài đã
chứng Bát Nhã ,ngộ nhập Bát Nhã, toàn thể vũ trụ vạn hữu và Hư Không vô biên
cũng chính là Pháp Thân của các Ngài. Do đó các Ngài không cần đi đâu cả mà vũ
trụ Càn Khôn hiện hữu trước mặt các Ngài.
Kinh Hoa Nghiêm có nói :
"Trong một hạt bụi tôi thấy vô số cõi
Phật, mỗi cõi Phật có các đấng Như Lai với hào quang quý
báu".
Thật là lãng mạn khi nhà thơ William Blake đã ảnh
hưởng Phật Pháp như thế nào khi nói ra 4 câu thơ :
"Nhìn vũ trụ trong một hạt
cát
Cả Trời Đất thiên đường trong một bông hoa
dại
Thâu gọn không gian vô biên trong lòng bàn tay
Và thời gian vô tận trong một
giờ".
(To see the World in a grain of sand
And a Heaven in a wild
flower
Hold Infinity in a palm of your
hand
And Eternity in an
hour).
* Thuyền Bát Nhã rỗng không nhưng ứng cơ sanh ra vạn
pháp, ứng cơ sinh ra Càn Khôn vũ trụ .Nó chuyên chở hay tích chứa Càn Khôn vũ
trụ vì nó rộng lớn vô biên, không thể nghĩ bàn .Còn tất cả Càn Khôn vũ trụ hay
sum la vạn tượng thật ra chỉ là cái Bóng của Bát Nhã .
Bát Nhã cũng gọi là Tự Tánh ,Chân Như hay Như Lai Tạng
…..Khi Lục Tổ Huệ Năng chứng ngộ Bát Nhã với sự khai thị của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
Ngài tự thốt lên:
"Không ngờ Tự Tánh vốn tự thanh
tịnh
Không ngờ
Tự Tánh vốn chẳng sanh
diệt
Không ngờ Tự Tánh vốn tự đầy
đủ
Không ngờ Tự Tánh vốn chẳng lay
động
Không ngờ Tự Tánh hay sanh muôn
Pháp".
Bát Nhã cũng gọi là Pháp Thân, hay sanh muôn Pháp là
do tùy duyên cơ mà ứng hiện. Có vị tăng hỏi Thiền Sư Huệ Hải
:
" Thanh
thanh thúy trúc tổng thị Pháp Thân ,uất uất hoàng hoa vô phi Bát
Nhã"?
(Trúc biếc xanh xanh đó có phải
là Pháp Thân hay không? Hoa vàng mịt mịt đó có phải là Bát Nhã hay không ?
)
Ngài trả lời :
" Pháp
Thân vô tượng ứng thúy trúc dĩ thành hình, Bát Nhã vô tri đối hoàng hoa nhi hiển
tướng " .
(Pháp Thân không có tướng ,ứng
trúc biếc hiện ra hình ,Bát Nhã vô tri đối hoa vàng hiện ra tướng
).
Trong Kinh cũng có nói :
- "Chân tượng Pháp Thân do nhược Hư Không , ứng vật tùy hình như
thủy trung nguyệt".
(Tướng chân thật của Pháp Thân
giống như Hư Không ,ứng vật hiện ra hình giống như Trăng lồng bóng nước
).
Pháp Thân hay Bát Nhã hay Tự Tánh đã sẵn có từ nguyên
thủy ,không sinh không diệt ,không đến không đi:
"Pháp
Thân vô khứ vô lai trụ tịch oai nghi bất động , Đức tướng phi không phi hữu ,ứng
tùy cơ dĩ hằng châu".
(Pháp Thân không đến không đi
,đứng yên oai nghi bất động, Đức tướng không phải không cũng không phải là có
,ứng tùy cơ sanh ra vạn pháp).
* Như vậy Bát Nhã hay Pháp Thân hay Tự Tánh mà Thiền Sư
Huyền Giác hay Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ là một “Bửu
Vật” trùm khắp Vũ Trụ Càn Khôn, ẩn nơi hình tượng và Hư Không, linh
chiếu tự nhiên, trong ngoài trống rỗng, phi Phật phi phàm, phi Tâm phi vật, tịch
lặng mà vi diệu, sự dụng tinh vi hoàn mỹ, sức lực ẩn nơi Hư Không, tùy cơ ứng
vật mà chẳng động, vô thân mà ứng thân, vô tướng mà hiển tướng, vô danh mà lập
danh, vô vật mà tạo vật, pháp tự viên mãn, cực năng cực huyền diệu lý, quang
minh siêu Nhật Nguyệt, vượt Càn Khôn, chuyển biến Trời Đất, là “Bộ Máy” vận hành từ hạt nguyên tử, phân tử, các Genes
của muôn loài chúng sanh cây cỏ cho đến hằng sa tinh tú thiên hà và vũ trụ,
thường chiếu thường soi rõ ràng chân thật, ẩn hiện nơi sum la, thể nhập nơi vạn
tượng, hỗn độn mà lập Càn Khôn, trống rỗng mà hiện vô lượng Pháp Giới, Lý Sự
dung thông là bửu ấn của sum la, chơn tông của vạn tượng, gốc cội của muôn loài
muôn vật, vô vi biến hóa: “Không tức thị Sắc”.
Cái “Bửu Vật” vô giá này bình đẳng trùm khắp
Hoa Tạng Pháp Giới, nhưng lại bị chôn vùi trong hầm ngũ ấm lục nhập của chúng
sanh bị Nghiệp Chướng phủ kín sâu dầy đen tối trong vô số kiếp nên không thể
phát sáng lên được, may nhờ Đức Phật đi tiên phong khám phá ra, rồi chỉ đường
truyền cho các Tổ từ Ca Diếp,…Bồ Đề Đạt Ma…cho đến Lục Tổ Huệ Năng…tiếp tục chỉ
đường cho chúng sanh: biết cách tháo gỡ Vô Minh tẩy sạch Nghiệp Chướng để làm
cho nó được hiện bày. Cái “Bửu Vật” này thể
nhập trong Thân Tâm tất cả chúng sanh chính là “Phật
Tánh” bình đẳng với muôn loài, nếu được khơi dậy sẽ xán lạn chói chang,
thoát khỏi luân hồi, an nhiên tự tại, chiếu khắp mười phương, không sinh không
diệt, tịch nhiên chẳng động, sự dụng cảm ứng diệu kỳ, vô Thân mà Đại Thân Đại
Ứng trùm Pháp giới, vô Tâm mà Đại Tâm Đại Trí bất khả tư
nghì.
“Ma Ni châu, nhân bất
thức,
Như Lai Tàng lý thân thâu
đắc
Lục ban thần dụng không bất không,
Nhất lỏa Viên Quang, Sắc phi Sắc”.
Lục ban thần dụng không bất không,
Nhất lỏa Viên Quang, Sắc phi Sắc”.
(Thiền Sư Huyền Giác).
(Ngọc Ma Ni, người có
biết,
Như Lai kho ấy thâu trọn hết :
Sáu ban thần dụng không chẳng không,
Một điểm Viên Quang Sắc chẳng Sắc).
Như Lai kho ấy thâu trọn hết :
Sáu ban thần dụng không chẳng không,
Một điểm Viên Quang Sắc chẳng Sắc).
*Rốt ráo lại, Bát Nhã hay
Pháp Thân hay Tự Tánh mà Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ qua cái cửa Vô Niệm cũng
là cái “Ma Ha Bát Nhã” hay “Vô Trụ Niết Bàn” mà Thiền Sư Huyền Giác chứng ngộ qua
cái cửa Vô Vi. Cái Bát Nhã này vốn tự thanh tịnh, vô sanh, đầy đủ, trùm khắp,
bất động lại hay sanh muôn Pháp, nó làm phải rồi làm trái con Người mù tịt, nó
làm ngược rồi làm xuôi cả loài Trời cũng không biết nổi và Bát Nhã chính là cái
Bản Thể của Vũ Trụ hiện hữu bao gồm cả Tam Giới và sum la vạn tượng. Người nào
chứng được nó thì Tự Thể khế hợp với Chơn Nhất, huyền chỉ tự thông, sáng tỏ cái
Lý Như Như của vạn Pháp, bình đẳng hòa nhập với Hoa Tạng Pháp Giới và Hư Không,
hiển bày Pháp Yếu của Đại Đạo, đạt đến Vô Sanh…trở thành một Đạo Nhân
nhàn: “Tuyệt học Vô Vi nhàn Đạo
Nhân”.
|
|
|
|
Read more: http://www.benkiabogiac.com/kien-giai-chung-dao-ca/phan1/
Create your own website for free: http://www.webnode.com.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA.SYDNEY.19/9/2012.)
No comments:
Post a Comment