- ĐẠO ĐỨC NGƯỜI XUẤT
GIA
- Đại sư Liên
Trì
- CHƯƠNG
6
- HẠNH TỪ
VẬT
6.1. Nhẫn khổ cứu
ngỗng
Thời Phật còn tại thế, có
một Tỷ-kheo đến cửa hàng Kim hoàn để khất thực. Bấy giờ, người thợ bạc đang xâu
sợi dây chuyền cho quốc vương, thấy Tỷ-kheo đến khất thực, ông ta bỏ trân châu
xuống đi lấy thực phẩm, nhưng trân châu không chịu nằm yên trong máng, do nó
tròn nên lăn xuống đất. Trong nhà ông ta lại có nuôi một con ngỗng, nó vừa đi ra
và ăn mấy hạt trân châu. Ông thợ bạc mang thực phẩm ra cúng dường Tỷ-kheo, phát
hiện không thấy trân châu. Ông ta cho rằng vị Tỷ-kheo đã lấy dấu đi. Vị Tỷ-kheo
sợ con ngỗng bị giết cho nên đã không thừa nhận và cũng không phủ nhận. Do đó,
ông thợ bạc xách gậy đánh sư chảy máu, cngười ngỗng lại đến rúc máu, ông thợ
đang giận đánh chết luôn cngười ngỗng. Vị Tỷ-kheo không cầm được lòng thương
xót, rơi lệ. Ông thợ bạc cảm thấy kỳ lạ, hỏi sư vì sao bị đánh không khóc mà
thangười ngỗng chết lại khóc? Vị Tỷ-kheo nhân thấy ngỗng đã chết mới nói rõ
nguyên do, ông thợ bạc nghe xong vô cùng cảm động, đảnh lễ cung kính xin Tỷ-kheo
tha tội.
6.2. Nhịn khát đến chết để
bảo vệ con vịt
Đời nhà Tấn, tại Hoặc Sơn,
có sư Tăng Quần.
Sư Tăng Quần có cuộc sống
thanh bần nhưng giữ khí tiết cao thượng. Sư có một am tranh trong Hoặc Sơn,
huyện La Giang. Hoặc Sơn là một hòn đảo nhỏ, trên có một tảng đá lớn đường kính
đến mấy trượng, trên tảng đá có một dòng suối chảy ra, nước trong veo, mát rượi,
vị ngọt.
Am tranh và tảng đá cách
nhau một cái rãnh sâu, trên có một cây cầu gỗ, có thể qua lại lấy nước. Sau đó,
có một con vịt rừng, cánh bị gãy không bay được, đậu lại ở trên “Độc mộc kiều”.
Quần đại sư muốn đi lấy nước, thấy con vịt rừng bị gãy cánh đứng trên cầu, sư
định lấy tích trượng đuổi nó đi, nhưng lại sợ nó rơi xuống rãnh núi sâu mà chết,
thế là sư trở vào, không đi lấy nước nữa, nhân vì không có nước uống, khát mà
chết.
Bình luận :
Vì muốn bảo toàn sự sống cho
loài vật mà không nghĩ đến thân mình, thật không có sự từ bi nào lớn hơn như
thế, và cứu tế như vậy mới thật là vĩ đại. Hoặc giả, có người sẽ nói rằng : “Vì
bảo toàn mạng sống cho con ngỗng mà cam chịu bị đánh đập đau khổ thì còn có thể
chấp nhận, còn giống như Quần đại sư hy sinh cả sự sống của mình không phải là
quá đáng sao?”. Ôi! Thánh nhân xem thân thể mình như một bộc da thối, cuộc đời
bất quá chỉ như một giấc mộng, như huyễn, như bọt nước, như ánh chớp mà thôi,
nếu như đối với chúng sanh có lợi ích thì đem sự sống của mình bỏ đi như bỏ nước
mũi, nước đàm vậy thôi, đâu thèm nhìn. Giống như đức Phật thuở xưa khi còn hành
Bồ tát đạo, đem thân mình cho hổ đói ăn, cắt thịt cho chim… đều là xả thân vì
tâm thương người thương vật hết vậy ! Những kẻ phàm phu chấp giữ, tham luyến
chiếc thân do bốn đại giả hợp mà thành này có thể hiểu được rõ ràng
không?”
6.3. Mua súc sanh
nuôi
Thời Nam triều, đời nhà Trần
(557-589), tại Dương đô, chùa Hưng Hoàng, có sư Pháp Lãng, người huyện Phái,
tỉnh Từ Châu. Sư học thiền với Thiền sư Bảo Chí ở chùa Bảo Minh, tinh thông cả
giới luật và luận tạng, vang danh khắp kinh thành, người đến nghe giảng rất
đông. Người ta bố thí cúng dường, sư đều dùng vào việc in kinh, tạo tượng, dựng
chùa tháp và cứu tế những người nghèo khổ, nguy cấp. Thấy ở đâu có bán súc sanh
là mua về nuôi, cho nên, ngỗng, vịt, gà, chó… ở đầy phòng sư. Lúc sư ngủ nghỉ
những con vật này tuyệt đối im lặng không con nào lên tiếng, lúc sư nhìn chúng
tất cả đồng loạt kêu lên giống như thổi loa đánh trống rất lớn. Lẽ nào đối với
sư Lãng chúng cảm ơn bằng cách kích động lên như
thế?.
6.4. Thương kính hạnh bố
thí.
Đời nhà Tuỳ, ở Tương Châu,
chùa Diễn Không, có sư Linh Dụ, người Cự Lộc, tỉnh Định Châu, 15 tuổi đến Triệu
đô, chùa Ứng Giác, xuất gia. Sư là người học rộng, nhiều tài, tinh thông kinh
tạng và luật tạng, danh đồn ra tới nước ngoài. Lúc người ta bố thí cho sư, sư từ
bi lạy cung kính. Sư hân hạnh cúng dường cà-sa cho các Hòa thượng, số lượng hơn
ngàn chiếc. Những người bệnh khổ đến xin thuốc, sư cung cấp thuốc men càng không
thể tính đếm. Chỉ cần vật gì có thể ăn được, sư nhất định cúng dường cho đại
chúng trước. Đối với loài súc sinh, sư cũng không mắng đuổi, nhổ khạc vào chúng.
Thậm chí những lúc sư trách móc hoặc thăm hỏi những em nhỏ, hay răn bảo giáo
giới, hạn chế các đồ đệ của mình, sư đều tự xưng tên, còn đối phương thì gọi là
‘nhân giả’, hết lời khuyên bảo, tha thiết dạy dỗ, người nghe đều cảm động rơi
lệ.
6.5. Mua hồ phóng
sanh.
Đời nhà Tuỳ, quốc sư Trí Giả
Huệ Nghĩ, núi Thiên Thai, chùa Quốc Thanh, ở tại vùng biển Lâm Hải. Mỗi ngày sư
thấy mấy người lớn tuổi đi đánh cá mưu sinh, giăng lưới đánh cá dài hơn 4 trăm
lý, trong sông ngòi thì đặt tường tre để bắt cá, và trong khe suối thì chặn đê
tạo hố để bẫy cá, lớn nhỏ không dưới 60 tuổi. Trí giả đại sư thấy vậy trong lòng
không chịu nỗi, liền lấy tiền người ta cúng dường cho sư mua một khúc biển (nay
là phía Tây huyện Nhật Chiếu, tỉnh Sơn Đông), làm hồ phóng sanh rất lớn, và dâng
biểu lên nói rõ với Hoàng thượng bấy giờ là vua Trần Hậu
Chủ.
Trần Hậu Chủ liền hạ lệnh
cấm dân vùng này đánh bắt cá. Vì sự kiện này mà dựng một bia đá kỷ niệm, lệnh
cho quan Tế Tửu quốc tử học* Từ Hiếu khắc văn
bia, lời văn rất bi thương, thê thảm, người xem đến đều ai thương cảm động và có
chút lãnh ngộ.
6.6. Cắt tai cứu chim
Trĩ.
Đời nhà Tuỳ, tại Triệu Quận,
núi Chương Hồng, có sư Trí Thuấn, người Triệu Châu. Có một lần sư đi du lịch ở
phương bắc, tỏ ý khen ngợi núi Hoàng Ninh, bèn dựng một thảo am trên núi này và
ở đó.
Có một hôm, một người thợ
săn đuổi bắt chim Trĩ, chim Trĩ bay vào trong phòng sư Thuấn, sư tha thiết
khuyên người thợ săn tha cho nó một sinh mạng, người thợ săn không nghe, nhất
định tìm cho bằng được chim Trĩ, thế là sư Thuấn cắt lỗ tai của mình đưa cho
người thợ săn để đổi lấy sự sống cho chim Trĩ, người thợ săn thấy vậy thất kinh
liền cảm ngộ được tội nghiệp của mình, cuối cùng anh ta bỏ hết cung tên, phá bỏ
tất cả dụng cụ săn bắn, quyết định bỏ nghề đi săn. Nhân đây, những người trong
thôn xóm cảm động, tự ý bỏ nghề săn bắn. Sư Thuấn mỗi lần thấy người nào nghèo
khổ đều rơi nước mắt đầm đìa khuôn mặt, cởi hết y phục cho họ mặc đỡ lạnh, chia
thức ăn của mình cho họ ăn, lòng từ bi cứu thế như vậy không chỗ nào không
đến.
Bình luận:
Mạnh Tử nói : “Làm việc chí
tâm thành ý người ta không thể không cảm động”, đức hạnh của sư Thuấn đây đã
chứng minh câu nói ấy.
6.7. Đến gặp quan giúp người
nghèo
Đời nhà Tuỳ, tại Kinh sư,
vùng Giao Nam, có Thiền sư Phổ An, người Kinh Dương, Kinh Triệu. Vào thời Bắc
Chu (557-581), vua Vũ Đế (561-579), niên hiệu Kiến Đức thứ 3 (573), chủ trương
tiêu diệt Phật giáo, bắt Tăng ni hoàn tục. Sư Phổ An trốn đến ẩn cư ở cốc Tiên
Tử, tại Chung Nam Sơn, cần tu khổ hạnh, không giữ gìn thân thể hình hài, có lúc
sư thoát hết y phục nằm trên cỏ ở trong rừng cho muỗi đốt, bố thí máu, có lúc
nằm trong đám thi thể tạp loạn, muốn dùng thân thể bố thí cho hổ báo ăn. Bấy giờ
chính phủ ra thông báo trọng thưởng, nếu ai tróc nã và bắt nộp một người xuất
gia, sẽ cho 10 đoạn tơ luạ. Có một người muốn bắt sư Phổ An đi nộp để lãnh
thưởng, sư biết chuyện vui vẻ an ủi người đó : “Tôi thấy anh nghèo khổ túng thiếu, cũng
muốn giúp anh có chút thu nhập, bây giờ tôi còn một ít thức ăn, anh hãy dùng đi,
dùng xong rồi anh hãy đem tôi vào kinh thành nộp để lãnh
thưởng”.
Đến kinh thành, Hoàng đế
thấy sư, từ chối nói : “Hiện nay nước ta
quốc pháp rất nghiêm khắc, không cho phép trong dân gian có người xuất gia,
ngươi lại nghiêm khắc hơn, không cho phép người xuất gia lui tới ở trong núi, để
xem các ông đi đến chỗ nào?” Thế rồi thả sư về trên
núi.
6.8. Ở với người
bệnh
Đời nhà Đường, ở Đơn Dương,
có sư Trí Nham. Sư người Khúc Hà, Đơn Dương, mưu trí và võ dũng hơn người. Lúc
tuổi thanh niên sư làm Hổ Bôn Trung Lang Tướng (quan hộ vệ vua). Sư thường treo
một cái túi lọc nước trên đầu cây cung, quen rồi cho là thường. Sau sư đến núi
Hoán Công, quy y và xuất gia với Thiền sư Bảo Việt.
Lúc đó, những người làm việc
chung với sư trong quân đội như Thứ sử Mục Châu, Nghiêm Soạn, Thứ sử Cù Châu,
Trương Sước… nghe nói sư xuất gia bèn cùng nhau tìm đến hỏi nguyên do, thấy sư ở
trong núi sâu, một mình lặng lẽ, bèn nói : “Tướng quân! Không phải Ngài bị phát điên
chứ? Vì sao lại đến đây ở một mình trong núi rừng tuyệt tích thế này!?”
Sư đáp : “Cái trầm mê và cái điên của tôi thì rất
tỉnh, còn các anh say đắm công danh lợi lộc thế tục mới đúng nghĩa trầm mê, sống
điên điên khùng khùng, mơ mơ hồ hồ đấy !”.
Sau đó sư đến thành Thạch
Đầu, ở với những người bị bệnh dịch, sư vì họ thuyết pháp, rồi sư hút những mủ
máu và rửa sạch những vết thương, bó thuốc cẩn thận chu đáo cho họ. Vào đời vua
Đường Cao Tông, niên hiệu Vĩnh Huy (650-656), sư viên tịch tại đây. Sau khi viên
tịch diện mạo sắc mặt không thay đổi, và phát ra mùi thơm rất đặc thù, hơn mười
ngày mới hết.
6.9. Lấy miệng hút mủ cứu
thương
Đời nhà Đường, ở Bồ Châu,
chùa Nhân Thọ, có sư Trí Khoan (tục cao Tăng truyện chép là Chí Khoan), người Hà
Đông, Bồ Châu. Sư thường đọc tụng kinh Duy Ma Cật và Giới bổn, cảm hoá đến thiên
thần đi quanh phòng sư, tán lễ và ủng hộ. Sư bản tánh từ bi, khoan dung độ
lượng, hay giúp đỡ người bệnh tật, không kể xuất gia hay tại gia, xa hay gần,
nếu như bị bệnh mà không có người chăm sóc thuốc thang thì sư dùng xe đưa người
bệnh về phòng mình, tự chăm sóc lo liệu hết mọi việc. Đã từng có một người bệnh,
trên bụng mọc một cái nhọt lớn, mủ trương lên bên trong chảy ra không được, sư
đã dùng miệng hút nó ra, người bệnh nhờ vậy mà lành.
Sau đó, bọn thổ phỉ Niễu Cảm
làm loạn, quan phủ bắt sư lưu đày đến Tây Xuyên, dân làng mở tiệc tiễn sư đi và
tặng nhiều tiền bạc, y áo thực phẩm, vải vóc… Sư nhất định không lấy, chỉ mang theo một con
lừa để chở kinh sách trước khi đi.
Trên đường đi sư gặp một vị
Tăng tên là Bảo Hoàng, chân bị thương không đi được, nằm duỗi chân bên đường, sư
nhường cho vị Tăng ngồi lên xe lừa còn mình gánh kinh sách. Bấy giờ gặp năm nông
dân làm mùa thất bát, dân chúng thiếu cơm ăn áo mặc, sư dùng một ít gạo thổi cơm
cho họ ăn đở đói, cởi y phục đang mặc của mình cho họ mặc, có lúc sư nhường toàn
bộ phần cơm của mình cho họ, có lúc sư ăn ít lại, với lòng từ mẫn sư khuyên tất
cả mọi người niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ.
6.10. Nuôi
chuột
Đời nhà Đường, ở Tương Châu,
chùa Cảnh Không, có sư Huệ Ý, đem thức ăn còn lại trong bát để nuôi chuột già
trong thiền phòng, trong phòng sư có hơn một trăm con chuột già, tất cả đều rất
ngoan ngoãn và thân cận sư để lấy thức ăn. Con chuột nào bị bệnh sư dùng tay vỗ
về an ủi nó.
6.11. Dệt chăn nuôi
chó
Đời nhà Đường, ở Việt Châu,
chùa Gia Tường, có sư Trí Khải, người Đơn Dương, thường khai giảng Tam Luận
(Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận). Vào đời Đường Thái Tông, niên hiệu
Trinh Quán, năm đầu, 627, sư trú trì chùa Tiểu Long Tuyền, ở huyện Dư Diêu*, Triết Giang. Bấy giờ, tập tục của người
Việt, trong nhà có chó đẻ, phần lớn đem bỏ ngoài đường. Sư Trí Khải thương xót
chúng lượm hết đem về nuôi, càng lúc càng nhiều, 10 con rồi 50 con. Sư dùng lông
thú dệt thành cái chăn cho chúng ngủ, không chê chúng bẩn
thỉu.
6.12. Bệnh thối không
ghét.
Đời nhà Đường, tại Ích Châu,
chùa Phước Thành, có sư Đạo Tịch. Sư người Tứ Xuyên, trú trì chùa Phước Thành,
Ích Châu. Tính tình sư nhân từ, có một người mắc bệnh rất hiểm nghèo, toàn thân
trương mủ lên, lại bị thối một lỗ, chỗ bị thối mủ hôi nồng nặc, người nghe thấy
đều phải bịt mũi, sư Đạo Tịch cung cấp cho y cơm áo, việc làm rất hết lòng,
tuyệt đối không phải cố ý giả trang thiền tướng, bình tĩnh như thường. Thậm chí,
có khi sư dùng chung thức ăn với người bệnh, giúp mọi người giặt áo quần. Có
người hỏi sư, vì sao có thể nhẫn chịu được hoàn cảnh sống như thế. Sư trả lời “Yêu thích thanh tịnh sạch sẽ, chê ghét mùi
hôi ô uế, đây là tâm lý phân biệt lạ lùng, tôi là người tu hành, vì muốn liễu
sanh thoát tử, phải có khả năng khắc phục thất tình lục dục, tôi há không tu
được trí tuệ bình đẳng như như bất động sao? Tôi chỉ bất quá lợi dụng hoàn cảnh
này để rèn luyện thân tâm tôi thôi”.
6.13. Chăm sóc người bệnh
gặp thánh hiền.
Đời nhà Đường, ở Lạc Dương,
Viện Trung Than Dục, có Thiền sư Trí Huy, trú trì chùa Trọng Vấn, ở Kinh Đào. Sư
sáng kiến ra một đạo tràng gọi là “Ôn thất viện”, cung cấp cho mười phương Tăng
lữ tắm gội, bố thí nước dùng và thuốc men. Có một Tỷ-kheo bị mắc bệnh hủi
(phong), mọi người ai cũng chán ghét thầy và không muốn tiếp cận. Sư Trí Huy
thường hay giúp thầy này tắm rửa, giặt giủ, tắm rửa không bao lâu, đột nhiên có
hào quang và mùi hương kỳ lạ từ trong người Tỷ-kheo bệnh hủi bay ra. Sư Trí Huy
cảm nhận được điều kỳ lạ này thì vị Tỷ-kheo ấy biến mất không
thấy.
Bình luận:
Đức Phật từng nói : “Sau khi
ta diệt độ, các Tỷ-kheo phải chăm sóc người bệnh cho thật tốt, bởi vì trong số
những người bệnh có rất nhiều thánh hiền thị hiện để thử lòng các ông!” Nay,
việc sư Trí Huy trú trì chùa Trọng Vân gặp một Tỷ-kheo bệnh và Ngộ Đạt quốc sư
(đời Đường Ý Tông), gặp Ca-nặc-ca tôn giả, chính là trường hợp Phật nói
vậy.
6.14. Quét đường trước khi
đi
Đời nhà Đường, ở Kinh sư,
chùa Hoằng Phước, có sư Huệ Bân, người Cổ Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông). Sư học
rộng hiểu sâu, nghiên cứu tột cùng nghĩa lý kinh luận, sau đó chuyển sang chuyên
tu thiền định. Sư phát tâm lấy lòng từ bi cứu tế chúng sanh làm trách nhiệm của
mình, mỗi khi đến mùa hạ (là mùa côn trùng sinh sản rất nhiều), đi ra đường sợ
giẫm đạp côn trùng, cho nên, trước khi bước chân đi, sư lấy chổi quét lên mặt
đất để khỏi sát sanh. Có ai đem cúng dường tài vật, sư bí mật đem đi làm bố thí
cho người, tuy làm rất nhiều việc thiện, lại nói với mọi người đừng tiết lộ cho
ai biết.
6.15. Cứu giúp những người
ăn mày.
Đời nhà Đường, có sư Đàm
Tuyển, người Cao Dương (Hà bắc), trú tại chùa Hưng Quốc. Sư bẩm tính từ thiện,
hay cứu tế giúp đỡ gọi mọi người. Từ trước đến nay không cất giữ tài vật, sư đặt
mua một cái nồi lớn, đem hết tất cả những vật thực của mình và của những người
ăn mày xin được bỏ vào trong đó rồi nấu thành cháo đặc, rồi gọi mọi người ngồi
lại theo thứ tự, đích thân đơm cháo cho họ. Nhìn thấy ai ăn mặc rất nát, dung
mạo tiều tuỵ, gầy ốm, đều xót thương rơi lệ, lòng bi mẫn, khó chịu rạo rực trong
người, không có cách gì kiềm chế được. Bản thân sư cùng sống và đi khất thực với
những người ăn mày như vậy trải qua rất nhiều năm.
6.16. Truyền giới – phóng
sanh.
Thời Ngũ Đại (907-960), ở
Hàng Châu, có Thiền sư Huệ Nhật Trí Giác, trú trì chùa Vĩnh Minh, Diên Thọ 15
năm, thế độ cho hơn 1700 người. Sau sư vào núi Thiên Thai vì chúng truyền giới,
ước tính hơn vạn người đắc giới. Sư thường vì thất chúng (Tỳ Kheo. Tỳ Kheo ni,
Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di) truyền Bồ tát giới.
Buổi tối Sư làm lễ thí thực và thường phóng sanh. Ngày đêm sáu thời tinh tấn tu
hành, ngoại trừ thời gian làm công quả, thời gian còn lại sư tụng kinh Pháp Hoa.
Một đời Sư tổng cộng tụng được một vạn ba ngàn bộ. Đến đời Tống Thái Tổ
(960-976), niên hiệu Khai Bảo thứ 8 (975), ngày 26 tháng 12, sư đốt hương tạm
biệt đại chúng rồi ngồi kiết già mà hoá.
6.17. Chăm sóc người bệnh
như chính bản thân mình
Triều nhà Tống, ở Nam Khương
Quân, chùa Vân Cư, có Thiền sư Cao Am Thiện Ngộ.
Sư trú trì chùa Vân Cư, một
khi nghe có người xuất gia bệnh nặng bị đưa đến Duyên Thọ đường (còn gọi là Niết
bàn đường, Vô thường viện, hay Như ý liêu v.v… là chỗ chư Tăng bị bệnh nhâïp
diệt) thì than thở không thôi, tựa như chính bản thân mình bị bệnh. Sớm chiều đi
thăm hỏi mọi người, đích thân lo liệu cơm cháo, sắc thuốc. Thuốc men gì sư cũng
đều nếm trước xem có độc tính hoặc có tác dụng gì không, rồi mới an tâm cho bệnh
nhân dùng. Thời tiết lạnh lẻo, thì sư quan tâm lo lắng, an ủi vổ về lên vai mọi
người: “Y phục mặc không phải quá mỏng
chứ?”, trời nóng thì sư nhìn sắc mặt, hỏi: “Phải chăng rất nóng?”. Thậm chí, đến
lúc họ viên tịch, không kể họ có tiền hay không có tiền, Tăng thường trụ đều như
pháp như luật tống táng.
Bình luận.
Trong kinh Phạm võng có nói
đến tám loại phước điền, thì phước điền lớn nhất là chăm người bệnh. Người xuất
gia không có nhà cố định, một thân một mình du hoá khắp năm châu, bốn biển,
không nơi nương tựa, một khi bệnh hoạn thống khổ, rất cần người đồng tu hỗ trợ
giúp đỡ thương yêu nhau. Vị trụ trì trong Tăng chúng, nếu như có người xuất gia
bị bệnh không đi thăm hỏi chăm sóc, đến khi chết, không lo tang lễ, có thể nói rằng người xuất gia “ôm ấp lòng từ
bi cứu độ chúng sanh sao”? Cho nên, phàm làm một vị trụ trì nên noi theo tác
phong, đức hạnh của Thiền sư Cao Am.
TỔNG
LUẬN.
“Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín”
là năm điều kiện cơ bản làm người, mà “Nhân” là đứng đầu; “Từ bi-hỷ xã” là bốn
tâm vô lượng của người tu hành, học Phật, thì ‘Tâm từ’ đứng đầu. Nếu như không
có tâm từ, thì dù có bác học, đa văn, chứng được thần thông tam muội, bất quá
chỉ là ma quỷ mà thôi. Hoặc có người nói: “từ bi và oai nghiêm đều là bản sắc
của đạo phhật! Hà tất chỉ suy tôn từ bi?” Ngài không biết rằng cứu người, hại
người đều là biểu hiện lòng nhân, đây là hai mặt của một thể, nhiếp thọ người,
thuyết phục người, cũng đều là biểu hiện lòng từ. Chủ yếu là muốn tốt cho người
mà phải dùng nhiều phương pháp không giống nhau mà thôi. Bên ngoài thì biểu hiện
oai nghi nghiêm khắc nhưng kỳ thật trong lòng đầy ắp lòng từ ái! Mặc dù bên
ngoài oai nghiêm mà nội tâm tràn đầy từ ái mới là đại từ bi, chân chính! Không
phải lấy một chút ân tình, một chút quan tâm mà gọi là từ bi được!
* Thời xưa, nơi học
cao nhất gọi là Quốc tử học, đến đời Bắc Tề gọi là Quốc tử tự, đời nhà Tuỳ đổi
Tự
thành Học, vua Dương Đế lại đổi Học thành Giám.
* Dư Diêu là nước Việt
cổ.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.21/9/2012.)
No comments:
Post a Comment