Ðường Về Cõi Phật A Di Ðà |
(thuyết giảng tại Tự Viện Linh Sơn Pháp quốc, tháng 5/1985) |
I. Dẫn nhập :
Kinh Ðại Bổn Di Ðà nói : Một hôm Ðức Phật
Thích Ca dung nhan khác lạ, ngài A Nan mới hỏi có nhân duyên gì mà Ðức Thế Tôn
hoan hỷ như vậy? Ðức Phật nói có pháp môn niệm Phật Di Ðà rất thích hợp với
chúng sanh, đặc biệt vào thời mạt pháp khi căn cơ chúng sanh bị giới hạn đi
nhiều và bất cứ ai cũng có thể trì niệm được. Ðây là nguyên do đầu tiên.
Bà Vaidehy cùng vua Bimbisara có sanh một vị hoàng tử tên là A
Xà Thế, người con này vô cùng ngỗ nghịch, không bao giờ nghe lời chỉ dạy của phụ
vương cũng như mẫu hậu. Ông nghe lời Ðề Bà Ðạt Ða (y nói rằng trong Ðạo có Phật
Thích Ca là lớn nhất, ngoài đời có vua Tần Bà Sa La là uy quyền hơn cả) về nhà
bắt giam vua cha vô cớ. Hay tin này, bà Vaidehy rất đau khổ mới xin những người
gác ngục vào thăm vua. Ðể có thể mang đồ ăn thức uống vào cho vua đang bị giam,
bà lấy trái Ampala lớn như trái ổi (loại trái cây này chỉ có bên Ấn Ðộ) giả như
mang một xâu chuổi, trong đó hoàng hậu để các đồ cần dùng no lòng. Cứ thế nhiều
ngày trôi qua, tuy nhiên, sự việc này cuối cùng bị A Xà Thế phát giác và điều
tra, sau đó bắt và hạ ngục luôn bà mẹ của mình.
Trong ngục tối của thành Vương Xá dưới chân núi Linh Thứu, mỗi
đêm bà đều hướng lên Linh Sơn để cầu nguyện với Ðức Phật: «Làm sao Thế Tôn cho
con sống trong một thế giới nào không có những đứa con ngỗ nghịch!» . Ðức Phật ở
trên núi Linh Thứu mới phóng quang cho bà thấy cả 10 phương thế giới. Từ đó bà
mới chọn cảnh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, có Phật Di
Ðà đáng kính đáng về (đây là theo nhân duyên cảm nhận, thực sự 10
phương Phật, phương nào cũng là cực lạc, cõi Phật nào cũng đều nên về cả). Bà
phát nguyện khi xã báo thân này là sẽ về cõi Phật A Di Ðà. Ðây là nguyên do thứ
hai. Trong kinh nói rằng, Ðức Phật Di Ðà luôn luôn chờ đợi để
tiếp đón chúng sanh lên 9 phẩm sen vàng, phần còn lại là ở nơi chúng sanh có
muốn về cõi Phật hay là không.
II. Ðịnh nghĩa, đại nguyện, và cảnh
giới :
Namo Amitàbha Buddha hay Nam Mô A Di Ðà
Phật nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Ðức.
Namo nghĩa là quy mạng, nương về ở đây dịch âm
từ tiếng Bắc Phạn, Tàu dịch là Nam Vô, người Việt đọc là
Nam Mô; Amitàbha là Vô Lượng
Thọ (mạng sống lâu không thể lường), Vô Lượng Quang
(sáng suốt vô cùng tận), Vô Lượng Công Ðức (ngài tu hành không
biết bao nhiêu kiếp nên công đức không thể nào lường được); Buddha
là Phật hay Phật Ðà (là tự giác, giác
tha, giác hạnh viên mãn, người nào có đủ ba hạnh đều gọi là phật cả). Trong mỗi
chúng ta có sẵn những đức tánh vừa nêu trên, nhưng từ nhiều đời nhiều kiếp trở
lại đây nó đã bị bụi trần vô minh che lấp, nên không thấy được. Ðức Phật dạy ta
pháp môn niệm Phật Di Ðà nhằm hướng dẫn ta trở về con đường nầy, hơn nữa sự trở
về này dù cho có Phật Di Ðà làm trợ duyên tốt, nhưng trước tiên chính là mỗi
người trong chúng ta cần phải đầu tư thật nhiều cố gắng, thì mới có thể về được
cõi Phật.
Cõi Phật Di Ðà hay là Tịnh Ðộ có nhiều tên gọi khác nhau như
Cực Lạc, Tây Phương, An Dưỡng Quốc, An Lạc Quốc. Cảnh trí cõi Tịnh cho chúng ta
thấy rằng chánh báo nào thì y báo nấy. Chánh báo là chỉ cho Ðức Phật Di Ðà, Y
báu là cõi nước. Chánh báu là phước báu chánh của vị đó, còn Y báu là phước báu
nương theo vị đó. Khi ta đã biết được cảnh trí Tịnh độ rồi (diễn tả chi tiết
trong Kinh A Di Ðà), thì mới hết lòng cầu về cõi Tịnh.
Nguyện về tịnh độ một nhà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở rồi biết tánh linh
Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.
Khi chúng sanh chưa giác ngộ thì các vị Bồ Tát
là cao, còn khi ta ngộ (sinh về Tịnh độ) thì các ngài là người bạn lành của
chúng ta. Chúng ta muốn thật sự gia đình được đoàn tụ (không phải sau khi chết
rồi, mỗi người mỗi nẻo luân hồi), thì chỉ nên đi một đường này. Tất cả chúng ta
nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn
bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Ðà cầu
sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu – chín phẩm hoa sen là cha mẹ). Khi chúng
ta bắt đầu niệm Phật tại đây thì trong Ao Thất Bảo bên Tịnh độ hiện lên một hoa
sen ghi danh hiệu của ta ở trên đó. Khi niệm Phật phải phát tâm Chánh
Tín rằng chư Phật không bao giờ nói dối chúng sanh; hơn nữa phải tin
tưởng giáo pháp của Phật đã chỉ dạy trong các kinh điển, và quan trọng hơn cả là
phải tự tin nơi chính bản thân của mình. Còn nếu có người vẫn niệm Phật nhưng
lòng còn nghi, thì sau khi chết sanh về nghi thành, và ở đó trong nhiều tháng,
đây là lời trong Kinh Ðại Bổn Di Ðà đã ghi. Do đó nhất định
không thể nào nghi được, phải có một ý chí sắt đá tin tưởng vào sự trì niệm danh
hiệu Phật Di Ðà và cầu sanh Tịnh độ. Muốn về Tịnh độ phải trang bị tư
lương thật đầy đủ. Tư nghĩa là thực hành các loại công đức khác nhau,
như làm lành lánh dữ (thọ Tam Quy trì ngũ giới), giúp
đỡ kẻ yếu binh vực người ngay (ở đây cần hiểu rộng ra là người Phật tử
ngoài chuyện tụng kinh niệm Phật, còn phải đóng góp tâm trí vào việc cứu vớt dân
tộc Việt ra khỏi ách nạn cộng sản); Lương nghĩa là hành trang niệm Phật tụng
kinh một cách chí thành khẩn thiết. Ngài Huệ Viễn là vị Tổ sư của pháp
môn Tịnh độ dạy rằng: «Thà về Tịnh độ ở Hạ phẩm, còn hơn lên các cõi
trời, vì lên trời còn bị đọa sau khi hết phước». Khi về Tịnh độ thì thần thức ta
ở trong hoa sen, hoa nở mới gặp được Phật A Di Ðà, tại đây sẽ được bậc Bất thối
chuyển, không có thân tướng nam nữ khác biệt.
Còn về cảnh trí Tịnh Ðộ thì mỗi nơi chốn tiêu biểu cho
số 7. Cho nên mới nói về đến Tây phương Tịnh độ được
tắm ao thất bảo. Tắm ao thất bảo này để trừ thất bất khả tỵ
(bảy việc không thể tránh khỏi) như :
1/ Sanh (theo nghiệp lành dữ),
2/ Già (tuổi lần xế chiều),
3/ Bịnh,
4/ Chết,
5/ Tội (khổ quả tội nghiệp),
6/ Phước (khổ quả thiện nghiệp),
7/ Nhơn duyên (hòa hợp sanh ra, họa phước giàu
nghèo).
Ngoài ra còn có hương ngũ phận, lưu ly có đất sáng ngần, ma ni
có nước trong ngần chảy quanh, thất trân có 7 lớp thành, 7 hàng cây báu 7 hàng
lưới châu, có ngân các có kim lầu, có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe; Nghe rồi
tỏ đạo bồ đề các ông Bồ tát bạn lành với ta. Do đó ta thấy rằng cõi chúng ta ở
là Ta bà đầy cảnh khổ đau, dầu có phước đức như thế nào đi nữa thì cũng không
thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử.
Trong tất cả các pháp hội khi Ðức Thế Tôn còn tại thế, tất cả
các bộ kinh ngài thuyết đều do có người hỏi cả; đặc biệt bộ Kinh Di Ðà thì ngài
đã vô vấn tự thuyết (không hỏi mà nói), như trong kinh tiểu bổn Di Ðà, Ðức Phật
kêu ngài Xá Lợi Phất mà nói về công đức của bộ kinh này. Pháp môn Tịnh độ chỉ
cho chúng ta đi về con đường an vui, sự trình bày của tôi hôm nay để cùng nhau
đi về thế giới thanh tịnh an vui mà chư Phật, chư vị Tổ sư đã đi trước chúng ta
một thời gian khá dài. Thế giới Tịnh độ thực ra không xa nơi chúng ta đang cư
ngụ, nếu ta giác ngộ thì thế giới đó ở ngay chính trong ta, nên có một câu nói
là Duy Tâm Tịnh Ðộ (nghĩa là muốn trở về cõi Tịnh thì trước
nhất Tâm của ta phải Tịnh, vì Tâm tịnh tức Phật độ tịnh), là ở ý nghĩa đó. Ðức
Phật Di Dà rất từ bi, ngài phát 48 lời đại nguyện và lúc nào
cũng đưa tay sẳn sàng tiếp đón thần thức của ta về với quốc độ của ngài, nhưng
nếu tâm ta chưa thanh tịnh thì chưa thể nào về cõi Tịnh được.
Do vậy người niệm Phật phải luyện tập hằng giờ, hằng ngày, hằng
tháng cho được thuần thục và nhất tâm. Trong các bài sám có câu «Một lòng
mỏi mệt không nài, cầu về tịnh độ ngồi đài liên hoa, cha lành vốn thiệt Di Ðà,
soi hào quang tịnh chói lòa thân con…». Nếu niệm Phật không tinh tấn thì
không thể nào về được cõi Tịnh, và mọi người đều biết rằng ai ai cũng đều phải
chết, có một vị Tổ sư nhắc rằng «Chớ đợi đến già mới niệm Phật, thiếu chi mồ
trẻ đã qua đời». Khi chết ta phải tìm con đường để đi, điều cần yếu là đừng
trở lại chốn này. Trong chúng ta đây là những người có được phước, so với đồng
bào ta ở trong nước đang phải sống rất khổ cực dưới chế độ cộng sản, cho dù đủ
ăn đủ mặc nhưng vẫn phải chịu những cái khổ khác không sao tránh khỏi, vì đây là
thế giới đầy sự đau khổ, trong đó chúng sanh lấy khổ cho là vui, thân chịu trong
cảnh khổ không tìm cách thoát ly. Về với Phật Di Ðà là để có cơ duyên thuận tiện
để tu hành chứ không phải về tới Tịnh độ là được thành Phật ngay, cho nên có 3
phẩm hóa sanh (thượng, trung và hạ) là ở nơi công đức tu trì của hành giả mà
thôi.
Ðức Phật thuyết giảng hơn tám muôn bốn ngàn pháp môn, nhưng
ngài nói pháp môn niệm Phật Di Ðà và cầu sanh Tịnh độ là Bất Nhị Pháp Môn (nghĩa
là pháp môn có một không hai), các pháp môn khác đều phải tự lực trước; riêng
pháp môn này khi bắt đầu trì niệm hồng danh Ðức Phật Di Ðà, thì người trì niệm
đã được an trụ trong hào quang, cũng như sự che chở của ngài, sự việc này đến do
nơi 48 đại nguyện phát ra trước đây. Lời nguyện thứ 18 nói rằng: «Có chúng
sanh nào, muốn sanh đến thế giới của ngài, chí thành tâm thiện chí thành tâm
niệm danh hiệu của ngài 10 lần. Nếu người đó không sanh về cõi ngài thì ngài
không chứng bực chánh giác». Do đó ta thấy pháp môn nầy nhờ vào đại nguyện
của đức Phật Di Ðà và các bực thánh chúng, đặc biệt là rất phổ cập và không khó
để hành trì, hàng Phật tử dù tại gia hay xuất gia, gặp nhau nơi nào đi nữa, câu
nói đầu tiên thoát ra từ cửa miệng là A Di Ðà Phật!
III. Tư lương, điều kiện và kết
luận :
Dưới đây là một vài điều kiện căn bản để làm tư lương trên
đường về cõi Phật A Di Ðà :
1/ Sự kiện trên có ý nghĩa đặc biệt nhằm gợi
lại Phật tánh sẳn có nơi mỗi người (bản tánh của ta vốn sáng suốt, nhưng bị vô
minh che lấp từ nhiều đời nhiều kiếp trở lại); thứ hai nhắc nhở tới bình đẳng
Phật tánh giữa tất cả mọi loài cùng mười phương chư Phật. Cho nên trì niệm danh
hiệu đức Phật A Di Ðà tức là tưởng nhớ tới danh hiệu của 10 phương chư Phật.
Nhưng muốn thành tựu công đức này, một điều không thể nào quên được, đó là phải
có niềm tin. Vì có niềm tin nên mới trì niệm, có niềm tin nên thực hành, và có
niềm tin mới đi đến kết quả sau cùng. Cho nên mới nói rằng: Tín vi đạo nguyên
công đức mẫu, Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn, Tín năng siêu xuất chúng ma
lộ, Tín năng đắc nhập tam ma địa, Tín năng giải thoát sanh tử hải, Tín năng
thành tựu Phật bồ đề. Bởi thế cho nên Nhân Vô Tín Bất Lập. Người tu niệm tin
Phật không bao giờ nói dối chúng đệ tử vì thân khẩu ý của ngài đã thanh tịnh;
tin Pháp là chơn lý không bao giờ dời đổi; tin sức mạnh của bản thân sẽ được đi
về Tịnh độ. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, tiềm ẩn tự tánh Di Ðà, và tâm
Tịnh độ, cho nên, ta phải chí thành tin tưởng và trì niệm mỗi ngày để ngày nào
khi tắt thở, thì thần thức này đương nhiên sẽ đi về cõi Tịnh độ mà thôi.
2/ Về mặt phát nguyện phải hết sức thành khẩn,
kinh Di Ðà nói chúng sanh mong muốn về cõi Tịnh độ để thấy Phật Di Ðà cũng như
con mong muốn được gặp mẹ. Cho nên có câu trong bài sám tụng như sau: «…đã
sanh về chín phẩm sen, mấy tai cũng xẩy, mấy duyên cũng tròn, Phật như thể mẹ
tìm con, con mà gặp mẹ lại còn lo chi, lầu vàng đài các thiếu gì, ăn thời cơm
ngọc, mặc thời áo châu, không ơn không oán không sầu, không già không chết có
đâu luân hồi…». Qua đó ta thấy rằng Ðức Phật giống như một bà mẹ hiền lúc
nào cũng muốn đưa chúng ta về cảnh giới an lành, còn về hay không là tùy ở nơi
mỗi người chúng ta. Chư vị thiền đức đã nhắc chúng ta rằng nơi cõi chúng ta đang
sống là một cảnh chiêm bao lớn. Trong giấc chiêm bao lớn này, sống chết là chiêm
bao nhỏ, khi giác ngộ rồi thì đại địa vô thốn thổ (cả trời đất bao la này không
còn gì cả), vì chúng ta chưa ngộ nên cho tất cả mọi chuyện chung quanh đều là
thật cả. Phải phát tâm mong muốn hết lòng, cầu về gặp cho bằng được bà mẹ hiền
(Ðức Phật Di Ðà) đã chờ ta từ vô lượng kiếp tới nay.
3/ Mỗi ngày cần siêng năng niệm Phật để chuẩn
bị tư lương đường về cõi Phật. Tư lương này ví như là công đức của ta cần tích
lũy cho mai sau khi ta nhắm mắt lìa trần. Khi xa lìa thế gian chỉ có tư lương
này là có thể đem theo ta vĩnh viễn, còn tiền bạc mà ta tạo dựng hay dành dụm
khi còn sống thì không thể nào đem theo được; như Kinh Pháp Hoa có phẩm Thí Dụ
ghi lại câu chuyện ông nhà giàu vì muốn cứu các người con mê muội quây quần chơi
giỡn trong nhà lửa nên dùng các thứ xe làm phương tiện để cứu các con thoát
chết. Khi các người con được ra khỏi nhà lửa (tam giới) thì người cha bảo đó chỉ
là phương tiện để cứu các con mà thôi. Ở nơi đây cũng thế, pháp môn niệm Phật mà
Ðức Phật thuyết giảng là phương tiện để cứu vớt chúng sanh ra khỏi luân hồi (tam
giới) và về cõi Tịnh. Về sự thực hành thì tôi đề nghị như sau: «mỗi ngày đêm 24
tiếng đồng hồ để lo toan việc đời cũng như ngũ nghĩ, cần để riêng 30 phút hoặc
tối hay sáng tùy theo hoàn cảnh, ai đủ thời giờ thì trì niệm cả hai thời sáng và
tối càng tốt.Trong nhà thờ Phật Di Ðà, sau khi vào kinh tụng tiểu phẩm Di Ðà,
đến khi hồi hướng thì nguyện con tên…pháp danh…phát nguyện trì niệm danh hiệu
Ðức Phật A Di Ðà khi xả báo thân này được sanh về tây phương cực lạc thế giới.
Lưu ý là nên thực hành đều đặn, không nên hôm làm hôm nghĩ và cần có một xâu
chuổi để niệm Phật. Trong kinh còn nhắc nhở rằng tu hành mà không phát nguyện
thì khó mong thành tựu đạo quả.
Có 4 phương pháp thực hành:
1/ Trì danh niệm Phật : gìn giữ danh hiệu đức
Phật, cũng như suy nghĩ về sự sáng suốt của ngài, vì không niệm Phật thì sẽ niệm
chúng sanh. Ðây là phương pháp niệm Phật ra tiếng (Sự niệm Phật).
2/ Quán tưởng niệm Phật : quán tưởng hình
tượng Ðức Phật Di Ðà phóng quang mà niệm. Chú ý nên để hình tượng Phật Di Ðà
trước mặt để niệm Phật (Sự niệm Phật).
3/ Tham cứu niệm Phật : niệm một câu Nam Mô A
Di Ðà Phật phải tham khảo cứu xét mà niệm. Quan niệm rằng niệm Phật là niệm Tâm,
niệm Tâm là niệm Phật. Vì Tâm, Phật, cập chúng sanh ba việc đó không có sai
khác. Vì không sai khác nên mới tham cứu, niệm từ nơi tâm, tâm ta là Phật. Phật
tức tâm, tâm tức Phật. Chính ta có Phật, vì niệm Phật ở ngoài là niệm Phật ở
trong (Lý niệm Phật). Ở phần này cho ta thấy không khác sự tham cứu thoại đầu ở
thiền tông, đưa đến kết luận rằng Thiền và Tịnh không khác gì nhau cả. Nếu có
khác là do tâm phân biệt của người tu hành mà ra, hễ có tâm phân biệt như thế
thì chưa đúng là người tu thiền thật sự. Khi xưa, Bồ tát Khương Tăng Hội, vị Tỵ
Tổ của Thiền tông Ðông độ cũng như của Việt Nam đã cho rằng giữa thiền và tịnh
độ thực ra không có gì khác biệt cả.
4/ Thật tướng niệm Phật : Trong khi niệm Phật
quán sát tướng vũ trụ nhân sanh chỉ có một, không có nhiều. Khi còn mê muội thì
thấy chúng nó có thiên hình vạn trạng (pháp giới trùng trùng duyên khởi), còn
khi giác ngộ rồi thì sơn hà đại địa vô thốn thổ. Quán sát tướng chân thật đó,
thấy ra tất cả chúng sanh đều như ta không khác - ở đây Ðức Phật nói Ðồng Thể
Ðại Bi - người đau khổ tức là mình bị khổ đau. Do đó Bồ Tát Thấy Dân Kêu Ca, Do
Vậy Gạt Lệ, Xông Mình Vào Nơi Chính Trị Hà Khắc Để Cứu Dân Khỏi Nạn Lầm Than mà
cách đây 2000 năm đã được ghi trong Lục Ðộ Tập Kinh làm phương pháp hành đạo cứu
nước cứu đời của các vị trí thức, nhân sĩ Phật giáo nước ta dùng làm phương châm
chống lại sự xâm lăng của người Tàu phương Bắc. Truyền thống này còn lưu truyền
và phổ biến cho tới mãi bây giờ. Trở lại phương pháp thứ tư Thật Tướng Niệm Phật
cho ta thấy là thượng chí nhất tâm bất loạn, hạ chí thập niệm thành công.
Bồ đề vừa nắm trên tay
Bao nhiêu phiền não trần lao dứt liền
Phật hiệu Di Ðà gắng sức tinh chuyên
Luân hồi sanh tử không còn từ đây
Những điều cần lưu ý khi sắp lìa trần :
1/ Trên vấn đề hộ niệm : Thực hành Vô úy thí
bằng cách khuyên nhũ nhẹ nhàng người sắp chết đừng suy nghĩ những chuyện thế
gian nữa, hãy bỏ hết, chỉ suy nghĩ duy nhất một việc đó là con đường trở về cõi
Tịnh của đức Phật A Di Ðà. Cần nên nhớ rằng, trước khi sắp chết người bịnh rất
yếu về mặt tinh thần giống như con cua bị bỏ trong nồi nước nóng (thí dụ như
nghĩ ngợi đủ chuyện, rồi tùy theo tâm niệm lúc đó mà vào địa ngục hay là lên
Tịnh độ v.v…). Chúng ta phải dặn những người tới trợ niệm khuyên người bịnh phải
dũng mãnh, và luôn nhớ Phật Di Ðà.
2/ Cách bày biện trong căn phòng : cần tôn trí
một hình Phật A Di Ðà đang phóng hào quang tiếp dẫn, nơi để hình Phật khiến cho
người bịnh được trông thấy dễ dàng nhằm gia tăng chánh niệm, cũng như hộ niệm dễ
dàng.
3/ Hạn chế sự khóc lóc : Trong việc này phải
cố gắng kềm chế sự xúc động, vì càng xúc động, càng khóc lóc nhiều sẽ không lợi
lạc cho sự hộ niệm, mà ngược lại cản trở cho công cuộc hộ niệm cho người sắp
chết cầu sanh Tây phương cực lạc. Trong những tình huống như thế này, theo quan
niệm tổng quát, khi thân nhân sắp lìa trần những người còn ở lại khóc lóc thương
tiếc nhiều chứng tỏ có sự thâm tình hoặc là có hiếu đối với cha mẹ. Nhưng đối
với người tu niệm Phật Di Ðà, TUYỆT ÐỐI KHÔNG ÐƯỢC KHÓC, vì
khóc sẽ là chướng ngại lớn cũng như làm tiêu tan công đức niệm Phật của người
sắp chết. Sau khi hộ niệm xong, người thân đã lìa trần một cách êm ái, lúc đó,
hãy ra nơi khác mà khóc mà bày tỏ tình thương. Dù cho người sắp chết suốt đời tu
niệm Phật, nhưng lúc lâm chung mà không được hộ niệm một cách tốt đẹp, thì sẽ
mai một công đức của họ, thật tiếc vô cùng. Xin hãy thận trọng ở điểm này.
Lợi ích của sự niệm Phật :
1/ Khi niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh
để cho tâm hồn chúng ta được sáng suốt; 2/ Niệm Phật tội chướng
được tiêu trừ, gia tăng tín tâm với Phật Pháp; 3/ Trì niệm danh
hiệu đức Phật Di Ðà sẽ được sanh về cõi Tịnh độ, chứng được bậc vô sanh bất
thối, sau đó tùy tiện trở lại chốn này hóa độ chúng sanh.
Công đức của việc trì niệm danh hiệu đức Phật Di Ðà được ghi
lại trong các bộ kinh tiểu bản Di Ðà, đại bản Di Ðà, Thập Lục Quán, Kinh Hoa
Nghiêm v.v… Hội Liên Xã ở Tàu có ngài Huệ Viễn đại sư là người hành trì pháp môn
niệm Phật cũng là vị Tổ của pháp môn Tịnh độ, ngài đã biết trước ngày giờ chết
của mình trước bảy ngày và thông báo cho đại chúng. Tới ngày thứ bảy, ngài Huệ
Viễn ngồi an nhiên thị tịch giữa ba hồi bát nhã tiễn đưa. Tại Việt Nam chúng ta
thường đề cập tới trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Ðức, đây cũng là một
minh chứng hùng hồn về sự niệm Phật vãng sanh tịnh độ. Xin kể hầu quý vị liên
hữu một câu chuyện vãng sanh mà chúng tôi được biết. Số là vị Sư tổ của tôi là
Hòa thượng…(xin được miễn nêu danh tánh vì sự an toàn của thầy tôi) từ Bình Ðịnh
vào Sài gòn tu hành ở những năm 30-40. Ngôi chùa mà vị Sư tổ trụ trì, khởi đầu
được xây trên một nghĩa trang (sau khi được thỉnh về trụ trì, sư tổ mới biết
được điều này), nên hằng đêm thường bị các linh hồn về quấy phá. Có một đêm, Sư
tổ trông thấy con quỷ một giò rất lớn hiện lên và đứng nhìn vào chùa. Ngài không
chút sợ hãi, đã bình tĩnh niệm Phật Di Ðà một hồi lâu thì con quỷ nọ biến mất
hẳn từ đó về sau. Nhờ chuyên trì kinh Pháp Hoa cũng như thành tâm niệm Phật Di
Ðà nên lần lần Phật tử chung quanh về hộ đạo rất đông đảo. Trước ngày thị tịch,
Sư tổ bảo với Thầy tôi rằng, vào giờ ngọ trưa mai ta sẽ theo Phật, con ở lại lo
liệu mọi chuyện. Quả nhiên như vậy, đúng ngọ ngày hôm sau lúc Sư tổ đang tụng
kinh trên chánh điện thì chung quanh tự nhiên thoảng lên mùi hương rất nhẹ nhàng
và thanh thoát, thì chính ngay lúc ấy, ngài đã quy Tây phương. Lúc đó thầy của
tôi ngồi cạnh vẫn không hay, tay vẫn đều tiếng mõ, đến khi hồi kinh chấm dứt,
không thấy Sư tổ đứng dậy lễ Phật thì mới biết đã viên tịch. Sau khi hỏa táng có
nhặt được xá lợi, trong đó tôi có giữ một chiếc răng của Sư tổ mà thầy tôi đã
cho cách đây hơn 20 năm khi rời khỏi Việt Nam. Chiếc răng xá lợi này hiện tôi
vẫn còn tôn thờ cẩn thận.
Thưa quý liên hữu vừa rồi chúng tôi đã trình bày một cách khái
quát phương pháp cũng như nguyên nhân mà Ðức Từ Phụ của chúng ta đã từ bi ban bố
cho chư Phật tử pháp môn niệm Phật Di Ðà có một không hai này. Ðể khỏi phụ lòng
của ngài, và cũng để thoát khỏi cảnh khổ sanh tử luân hồi, chúng ta hãy cùng
nhau phát nguyện cầu sanh Tây phương cực lạc thế giới của Ðức Phật A Di Ðà vì :
Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Ðà
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp
Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật tác đại chứng minh .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.27/9/2012.)
|
Wednesday, 26 September 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment