Sunday 16 September 2012

Địa Tạng Bồ Tát (zh. dìcáng 地藏, sa. kṣitigarbha)
  • Một vị Bồ Tát chuyên cứu độ sinh linh trong Địa ngục và trẻ con yểu tử. Có khi Địa Tạng cũng là người được xem là chuyên cứu giúp lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả với bạch hào (lông trắng xoáy nằm giữa hai mắt, sa. ūrṇā) trên trán, một trong ba mươi hai tướng tốt của một vị Phật. Địa Tạng hay cầm Như ý châu (sa. cintāmaṇi) và Tích trượng có sáu vòng, biểu hiện của sự cứu độ chúng sinh của Bồ Tát trong Lục đạo (sáu đường tái sinh).
Tại Trung Quốc và các nước Đông Á, Địa Tạng được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quán Thế Âm, Văn-thù-sư-lợi và Phổ Hiền) chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục. Trú xứ của Bồ Tát là Cửu Hoa sơn (xem Tứ đại danh sơn) và tương truyền rằng, Địa Tạng đã thật sự hiện thân tại đây vào đời Đường dưới dạng một hoàng tử xứ Triều Tiên. Sau khi chết, nhục thân của vị hoàng tử này không tan rữa và người ta đã xây dựng một ngôi tháp để thờ vị này, một bảo tháp mà ngày nay vẫn còn.
Trước đây vô lượng kiếp, Địa Tạng là một Bà-la-môn và đã thệ nguyện trước một vị Phật thời đó là sẽ quyết tâm tu luyện đạt Phật quả, nhưng sẽ khước từ Phật quả này khi chưa cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi Luân hồi. Trong một tiền kiếp, Bồ Tát là một cô bé có một bà mẹ thường hay sát sinh để kiếm sống. Sau khi mẹ qua đời, cô bé này ngồi thiền mãi cho đến khi nghe một giọng nói, khuyên cô nên niệm danh đức Phật. Sau đó, cô nhập định, xuống ngay đến cửa địa ngục. Nơi đây, cô được cho biết rằng, chính vì công phu thiền định và niệm Phật mà cô đã cứu mẹ thoát khỏi địa ngục.
Nhờ thần thông, Địa Tạng Bồ Tát có thể biến hóa thành nhiều dạng để cứu chúng sinh trong lục độ. Trong một buổi lễ long trọng, thường là ngày thứ 100 sau khi chết, các thân nhân thường thắp hương làm lễ cầu xin Bồ Tát hướng dẫn người chết đến cõi Cực lạc của Phật A-di-đà (sa. amitābha). Sau đó, một trong những thân nhân sẽ niệm một câu thần chú để gọi người chết trở về nghe chính pháp. Lễ này được chấm dứt với sự niệm danh Phật A-di-đà và Bồ Tát Địa Tạng một lần nữa.
Địa Tạng cũng là một danh hiệu khác của Thiền sư La-hán Quế Sâm vì trước khi dời về viện La-hán, Sư trụ trì thiền viện Địa Tạng.
——————————-
Thần chú làm tiêu nghiệp chướng xấu : ‘Om, Bo La Mo, Ling To Ning, Soha’
(Ghi chú: Thần chú này được ghi phía sau của tượng những cầu nguyện này nên thực hiện với tâm thanh tịnh và tập trung. Người thực hành nên hoàn thành 1 số lần cầu nguyện nhất định. Số lượng cầu nguyện thì tùy bạn chọn, ví dụ 108 lần, 500 lần, 1.000 lần…)
Thần chú của Địa Tạng bồ tát theo phái Tây tạng để tiêu nghiệp chướng đang mang:
Om Pra Mani Dhani Svaha / Om, Pra, Ma Ni, Da Ni, So Ha.
————————————–
Thần chú của Bồ Tát Địa Tạng (KSITIGARBHA Bodhisattva):
NAMO RATNA TRAYAYA NAMO ARYA KSITIGARBHA BODHISATTVAYA MAHASATTVAYA TADYATH KSAM BHU KSAM BHU KSUD KSAM BHU AKASA KSAM BHU VAKRA KSAM BHU AMBARA KSAM BHU VIRA KSAM BHU VAJRA KSAM BHU ALOKA KSAM BHU DAMA KSAM BHU SATYAMA KSAM BHU SATYA NIRHARA KSAM BHU VYAVALOKA KSAN VA KSAM BHU UPASAMA KSAM BHU NAYANA KSAM BHU PRAJNA SAMBHUTI RANA KSAM BHU KSANA KSAM BHU VISILYA KSAM BHU SASTRAVAT KSAM BHU VYADA SU TAL MAHILE DAHILE DAME SAME CAKRASE CAKRA MASILE KSILE BHIRE HIRE GRAH SAMVARA VRATE HIRE PRABHE PRACALA VARTANE RATNA PALE CHA CHA CHA CHA HIRE MILE EKARTHA THA KHE THAKKURO THALE THALE MILE MATHE TADE KULE KU MILE SAMIRE ANGO CITTAVI ARI GIRI PRA-GIRI KUTTA SAMALE TUNGE TUNGE TUNGOLLE HURU HURU HURU KURU STU MILE MILITE SAM-M1LITALE BHANDANA HARA H1RE HURU HU RU RU BHAVA RAJA
Câu chú này dùng để giúp cho các vong linh, chúng sanh trong súc sanh, ngã quỷ, địa ngục được siêu thoát và tái sanh trong các cảnh lành.
Xem Clip phổ nhạc thần chú Địa Tạng Vương Bồ Tát :HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.17/9/2012.


2 comments: