Phát biểu của Đức Đại Lai Lạt Ma thứ 14 |
về vấn đề tái sanh của Ngài |
Giới Thiệu :
Những người dân Tây Tạng thân mến của tôi, ở cả trong lẫn ngoài đất nước Tây
Tạng, cùng tất cả những ai đang tu tập theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và
những ai đang có những nối kết với Tây Tạng và người Tây Tạng : do sự nhìn xa
thấy rộng của những vị quân vương thời cổ, cùng các vị thừa tướng và các vị học
giả cao thâm mà toàn bộ giáo lý của đức Phật, gồm có những giáo lý kinh điển,
kinh nghiệm tu tập của cả Ba Thừa và Bốn Cấp Độ Mật Điển, cùng với những đề tài
và các môn học liên hệ khác, đã được thăng hoa, phát triển một cách rộng rãi
trên Xứ Tuyết. Đối với cả thế giới, Tây Tạng đã trở thành suối nguồn của truyền
thống Phật giáo cũng như của các truyền thống văn hoá liên quan đến Phật giáo.
Đặc biệt, Tây Tạng đã cống hiến một cách đáng kể cho hạnh phúc của vô lượng
người dân đang sống tại châu Á, đặc biệt là những ai đang ở tại Trung Hoa, Tây
Tạng và Mông Cổ.
Trong một chuỗi dài của việc duy trì truyền thống Phật giáo
tại Tây Tạng, chúng tôi đã nuôi dưỡng một truyền thống Tây Tạng đặc thù, [đó là]
công nhận sự tái sanh của các vị học giả cao thâm, là những người đã đóng góp
một cách to lớn cho Giáo pháp và cho chúng sinh, đặc biệt hơn nữa là cho cộng
đồng tu sĩ.
Kể từ khi đấng toàn giác Gedun Gyatso đã được nhận diện và
tuyên nhận là hoá thân của ngài Gedun Drub vào thế kỷ thứ mười lăm, và từ khi
Gaden Phodran Labrang tức là hệ thống tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma được thiết
lập, thì những vị hoá thân kế tiếp [của đức Đạt Lai Lạt Ma] cũng đã được tuyên
nhận. Vị hoá thân thứ Ba trong truyền thống ấy, ngài Sonam Gyatso, đã được ban
cho pháp hiệu Đạt Lai Lạt Ma. Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Năm, ngài Ngawang
Lobsang Gyatso, đã thành lập Chính Quyền Gaden Phodrang vào năm 1642, trở thành
vị lãnh đạo tâm linh lẫn chính trị của Tây Tạng. Đã trải qua hơn 600 năm từ ngài
Gedun Drub trở đi cho đến nay, một chuỗi dài bao gồm các vị hoá thân thuộc dòng
truyền thừa của Đạt Lai Lạt Ma đã được công nhận một cách hoàn toàn đúng đắn,
không hề sai trật.
Các vị Đạt Lai Lạt Ma [trong quá khứ] đã nhận lãnh trách
nhiệm như là những vị lãnh đạo chính trị và tâm linh của Tây Tạng trong suốt 369
năm từ năm 1642 cho đến nay. Giờ đây, bản thân tôi [Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14,
Tenzin Gyatso] đã tình nguyện chấm dứt [việc nhận lãnh trách nhiệm] như trên.
Tôi hãnh diện và hài lòng là giờ đây chúng tôi có thể noi theo một hệ thống
chính quyền dân chủ là một hệ thống đang nở rộ ở khắp nơi trên thế giới. Thật
ra, ngay từ năm 1969 xa xưa trở đi, tôi cũng đã từng nói một cách hết sức minh
bạch rằng những ai có mối liên hệ [với đức Đạt Lai Lạt Ma và Tây Tạng], họ cần
phải quyết định xem là các vị tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma có nên tiếp tục trong
tương lai hay không ?
Tuy thế, trong khi thiếu vắng những tôn chỉ rõ ràng, giả sử
nếu cộng đồng những người liên hệ bày tỏ một ước nguyện mạnh mẽ mong muốn các vị
tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục hiện hữu, thì có thể có một nguy cơ rõ rệt
là sẽ có những thế lực chính trị có chủ ý sẽ lợi dụng hệ thống tuyên nhận hoá
thân này để hoàn thành những chương trình [tham vọng] chính trị riêng tư. Do đó,
trong khi tôi vẫn còn đầy đủ sức khoẻ và tinh thần minh mẫn, tôi nghĩ rằng có lẽ
điều quan trọng đối với tôi là chúng ta cần phải thiết lập những tôn chỉ rõ ràng
để tuyên nhận vị Đạt Lai Lạt Ma kế nhiệm, không để bất kỳ khe hở nào cho sự hoài
nghi hay gian trá. Để có thể hiểu được những tôn chỉ này một cách trọn vẹn, điều
thiết yếu là phải thấu hiểu về hệ thống tuyên nhận Tulku (hoá thân) và về những
khái niệm căn bản đằng sau hệ thống ấy. Bởi thế cho nên, tôi sẽ vắn tắt giải
thích như sau.
Kiếp quá khứ và kiếp tương lai
Để có thể chấp nhận được thuyết tái sanh hay về thực tại của
các vị Tulku (tức các vị hóa thân), chúng ta cần phải chấp nhận sự hiện hữu của
đời trước và đời sau, của các kiếp quá khứ và kiếp vị lai. Chúng sinh hiện hữu
trong cuộc đời hiện tại khởi đi từ những đời kiếp trước và chúng sinh đầu thai
trở lại sau khi chết. Sự đầu thai trở lại một cách liên tục này được công nhận
bởi tất cả các truyền thống tâm linh Ấn Độ cổ cũng như được công nhận bởi tất cả
các trường phái triết học, ngoại trừ phái Charvakas [cũng thuộc Ấn Độ cổ], là
một phong trào duy vật. Có một số các triết gia hiện đại chối bỏ kiếp trước kiếp
sau dựa trên tiền đề cho là chúng ta không thể nhìn thấy được điều đó. Có những
người khác thì lại không vẽ ra những kết luận rõ rệt dựa trên cơ sở này [của
việc không "nhìn thấy" được là có kiếp trước kiếp sau].
Cho dù có rất nhiều truyền thống tôn giáo công nhận việc đầu
thai trở lại thì các truyền thống này có những cái nhìn khác nhau, chẳng hạn như
là các quan điểm khác nhau về cái gì đầu thai trở lại, đầu thai trở lại như thế
nào, và sự việc xảy ra như thế nào khi đi qua giai đoạn chuyển tiếp giữa hai
kiếp sống. Có một số truyền thống tôn giáo chấp nhận viễn ảnh của kiếp tương
lai, nhưng lại chối bỏ khái niệm về những đời quá khứ.
Nói chung, người Phật tử tin tưởng rằng không có khởi đầu của
sự chào đời và họ tin rằng một khi chúng ta đạt được giải thoát khỏi vòng xoay
luân hồi, bằng cách khắc phục được nghiệp báo và các tâm thức tiêu cực, thì
chúng ta sẽ không phải bị đầu thai trở lại dưới sự lôi kéo của những điều kiện
nghiệp duyên đó nữa. Do đó, người Phật tử tin rằng có thể chấm dứt việc đầu thai
như là kết quả của nghiệp báo và các tâm thức tiêu cực, nhưng đa số các trường
phái triết học Phật giáo đều không chấp nhận rằng có sự chấm dứt của dòng tâm
thức. Việc chối bỏ quá khứ và chối bỏ sự đầu thai trong tương lai sẽ tương phản
với các khái niệm Phật giáo liên quan đến [các giáo lý thuộc về] nền tảng, đạo
và quả, và những điều này cần phải được giải thích dựa trên một cái tâm thuần
thục [được chế ngự] hoặc một cái tâm bất thuần thục [không được chế ngự].
Đối với những ai có thể nhớ lại được tiền kiếp thì việc đầu
thai trở lại là một kinh nghiệm rất rõ ràng. Tuy nhiên, đa số những người thường
đều quên đi tiền kiếp của họ khi họ phải trải qua quá trình của cái chết, của
giai đoạn chuyển giao (thân trung ấm) và của việc đầu thai. Đối với những người
này thì đời quá khứ và đời tương lai có chút mù mờ, nên chúng ta phải dùng luận
lý dựa trên chứng cớ rõ rệt để chứng minh cho họ về kiếp trước kiếp sau.
Có rất nhiều những lý giải tranh luận khác nhau được đưa ra
dựa trên lời Phật dạy, cũng như dựa trên những luận giải tiếp nối sau ngài, để
chứng minh về sự hiện hữu của kiếp trước kiếp sau. Một cách vắn tắt, những lý
giải ấy đưa đến 4 điểm như sau : lý luận cho rằng mọi vật được sinh ra bởi một
vật tương tự như nó trước đó, lý luận cho rằng mọi vật được sinh ra bởi một
nguyên nhân nguồn gốc chắc thực trước đó, lý luận cho rằng tâm thức đã làm quen
[huân tập] với những gì trong quá khứ, và lý luận cho rằng những gì trải qua
trong quá khứ là những kinh nghiệm đạt được.
Một cách rốt ráo, tất cả những lý giải tranh luận trên đây
đều dựa trên khái niệm cho rằng bản tánh của tâm, cùng tánh thông suốt và tánh
tỉnh giác [của tâm ấy], bắt buộc phải dựa trên sự sáng tỏ thông suốt và sự tỉnh
giác như là các nguyên nhân chắc thực. Không thể nào có một thực thể nào khác,
chẳng hạn như là một vật thể vô tri vô giác nào đó, [lại có thể trở thành]
nguyên nhân nguồn gốc chắc thực [đưa đến sự hiện hữu] của bản tâm. Điều này tự
nó có thể chứng minh được. Qua sự phân tích dựa trên luận lý, chúng ta có thể đi
đến kết luận rằng một dòng chảy mới mẻ của sự thông suốt và sự tỉnh giác [của
bản tâm] sẽ không thể nào hiện hữu nếu không có được những nguyên nhân chắc
thực, hoặc không thể nào hiện hữu với những nguyên nhân không liên can. Trong
khi chúng ta quan sát để thấy được rằng tâm thức không thể nào được sản xuất ra
từ một viện bào chế, thì chúng ta cũng có thể đi đến kết luận rằng chẳng gì có
thể diệt trừ được sự tương tục của tánh thông suốt và tánh tỉnh giác vi tế [của
bản tâm].
Theo cái hiểu biết trước giờ của tôi, không có một nhà tâm lý
học, vật lý học hay thần kinh học hiện đại nào lại có thể quan sát và đoán trước
rằng tâm là sản phẩm đến từ một chất đặc nào đó, hoặc tâm là một sản phẩm không
đến từ một nguyên nhân nguồn gốc nào cả.
Có những người có thể nhớ lại được ngay cái kiếp mà họ vừa
trải qua, kể cả nhiều đời kiếp trước nữa, và cũng có những người có thể nhận
biết ra được những nơi chốn và bà con họ hàng từ những đời kiếp đó. Đây không
phải là việc chỉ xảy ra trong quá khứ. Ngay cả ngày nay cũng có rất nhiều người
ở phương Đông và phương Tây có thể nhớ lại được những tình huống và kinh nghiệm
từ những đời quá khứ. Nếu chối bỏ điều này trong khi làm khảo cứu thì đó không
phải là một cách thức trung thực và sẽ phiến diện vô cùng, bởi vì điều ấy đi
ngược lại với bằng chứng ở trên. Hệ thống Tây Tạng chứng nhận các vị hoá thân là
một phương thức điều tra nghiên cứu trung thực dựa trên sự hồi nhớ về những đời
kiếp trước của các cá nhân ấy.
Đầu thai như thế nào ?
Có thể có hai cách thức mà một người nào đó có thể đầu thai
trở lại sau khi lìa đời : đầu thai trở lại do sự lôi kéo của nghiệp và các tâm
thức tiêu cực nguy hại, và đầu thai trở lại nương vào sức mạnh của lòng từ bi và
sự phát nguyện.
Đối với lại cách thứ nhất, vì do vô minh mà các nghiệp lành,
nghiệp ác được tạo ra và những dấu ấn của các nghiệp này tồn đọng lại trong tâm
thức. Những dấu ấn ấy được kích hoạt qua sự tham luyến và bám chấp, đưa dẫn
chúng ta đầu thai trở lại trong kiếp kế tới. Sau đó, chúng ta không tự nguyện mà
vẫn cứ bị đầu thai trong các cõi cao hơn hoặc thấp hơn. Đây là cách mà chúng
sinh bình thường cứ liên tục, không dứt đoạn, quày tới quày lui trong vòng hiện
hữu của luân hồi, y hệt như là một bánh xe quay. Nhưng ngay cả trong những hoàn
cảnh như thế thì chúng sinh tầm thường với một tâm nguyện tốt lành cũng có thể
nỗ lực tinh tấn tham gia vào các thiện hạnh trong đời sống hằng ngày. Họ huân
tập bản thân trong các thiện hạnh để khi chết đi [những dấu ấn của] các thiện
hạnh này lại được kích hoạt trở lại, trở thành những phương tiện giúp họ tái
sinh vào những cõi cao hơn.
Ngược lại, những vị Bồ tát tối thắng, là những người đã đạt
đến con đường của cái thấy (kiến đạo), các vị ấy không đầu thai trở lại do bởi
nghiệp lực hay các xúc cảm ô trược nguy hại lôi kéo, mà do bởi sức mạnh của lòng
từ bi của các ngài dành cho chúng sinh và dựa trên những tâm nguyện muốn đem lại
lợi lạc cho kẻ khác. Các vị ấy có thể lựa chọn nơi chốn và ngày giờ chào đời,
cũng như lựa chọn cha mẹ tương lai. Một sự đầu thai như thế, duy nhất chỉ vì lợi
lạc cho chúng sinh khác, chính là sự đầu thai xuyên qua sức mạnh của lòng từ bi
và sự phát nguyện.
Ý nghĩa của Tulku (hoá thân)
Có vẻ như là phong tục Tây Tạng về việc sử dụng danh hiệu
Tulku (Thị Hiện Thân của Phật) dành cho những vị hoá thân đã khởi sự bắt đầu từ
khi những người mộ đạo sử dụng từ Tulku như là một tước hiệu danh dự. Nhưng mà
từ đó trở đi thì cách gọi này trở thành là một biểu lộ thông thường. Nói chung,
từ Tulku ám chỉ một khía cạnh đặc biệt của đức Phật, là một trong ba hay bốn
khiá cạnh [phẩm tánh] đã được mô tả trong Kinh điển. Dựa trên những giải thích
về các phẩm tánh này của đức Phật, một người hoàn toàn thoát khỏi, không bị trói
buộc bởi những tâm thức ô nhiễm nguy hại và không bị trói buộc bởi nghiệp, người
ấy có khả năng đạt được Pháp Thân (Chân Thân) (Truth Body - Dharmakaya), và Pháp
Thân ấy bao gồm Trí Pháp Thân (Wisdom Truth Body) và Thể Tánh Pháp Thân (Nature
Truth Body).
Trí Pháp Thân chỉ đến tâm giác ngộ của một vị Phật; tâm ấy,
trong một khoảnh khắc có thể nhìn thấy trực tiếp mọi thứ, một cách đích xác như
chúng thể hiện. Tâm ấy hoàn toàn tịnh hoá khỏi các xúc cảm nguy hại, kể cả hoàn
toàn tịnh hoá khỏi các dấu ấn của các tâm thức tiêu cực, xuyên qua việc tích lũy
công đức và trí tuệ một thời gian dài. Sau đó, đến Thể Tánh Pháp Thân, là đang
chỉ đến tánh không của chính tâm toàn tri toàn giác ấy. Đây là hai đặc tánh của
chư Phật dành cho chính các ngài.
Nhưng vì các phẩm tánh ấy không thể được trực tiếp tiếp cận
bởi những người khác, mà chỉ có thể xuyên suốt được giữa các vị Phật với nhau,
cho nên bắt buộc chư Phật phải hoá hiện trong hình tướng phàm để chúng sinh có
thể tiếp cận và như thế mới có thể giúp đỡ được chúng sinh. Vì vậy, khiá cạnh
sắc tướng cao nhất của một vị Phật chính là Thọ Dụng Thân (Báo Thân hay Báu
Thân) (Body of Complete Enjoymeng - Sambhogakaya), có thể được tiếp cận bởi chư
Bồ Tát cao tột, và Thọ Dụng Thân thì có năm phẩm tánh, mà một trong năm phẩm
tánh đó là an trú tại cung trời Sắc Cứu Cánh (Akanishta). Rồi từ Thọ Dụng Thân
ấy lại hoá hiện ra vô lượng vô số Thị Hiện Thân của chư Phật (Hiện Thân) hoặc
Tulku (Nirmanakaya - Hoá Thân). Các vị hiện ra như là chư Thiên hoặc loài người
và có thể được tiếp cận bởi các chúng sinh bình thường. Hai đặc tánh mang hình
tướng này của Phật được gọi là Sắc Thân (Form Bodies), có nghĩa là dành cho
những kẻ khác.
Thị Hiện Thân (Emanation Body) gồm
có ba phân loại :
a) Hiện Thân Tối Thượng (Supreme Emanation
Body) giống như là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đức Phật lịch sử, đã hoá hiện
mười hai công hạnh của một vị Phật, chẳng hạn như là đản sanh vào nơi chốn mà
ngài đã lựa chọn, vân vân;
b) Hiện Thân Mỹ Thuật (Artistic Emanation
Body) để phụng sự người khác bằng cách thị hiện như là những nghệ nhân, nghệ sĩ,
vân vân;
c). Hoá Hiện Thân (Hoá Thân) (Incarnate
Emanation Body) mà qua đó chư Phật hiện ra trong vô số hình tướng khác nhau như
là con người, Hộ Phật, con sông, chiếc cầu, dược thảo và cây cối để giúp đỡ
chúng sinh. Trong số ba loại Thị Hiện Thân này, sự tái sanh của các vị đạo sư
tâm linh được công nhận và biết đến như là các vị Tulku tại Tây Tạng nằm trong
loại Thị Hiện Thân thứ ba.
Trong số các vị Tulku này, có thể có nhiều vị là những Hoá
Thân đầy đủ phẩm tánh thực sự của chư Phật, nhưng điều này cũng không nhất thiết
là áp dụng được cho tất cả các vị Tulku. Trong số các vị Tulku của Tây Tạng, có
nhiều vị là tái sanh của các vị đại Bồ Tát tối cao, của các vị Bồ Tát trên con
đường tích lũy (tư lương đạo) và con đường chuẩn bị (gia hạnh đạo), cũng như là
tái sanh của những vị đạo sư, là những vị tuy qua minh chứng chưa thực sự bước
vào đến con đường tư lương đạo và gia hạnh đạo của chư Bồ Tát. Do đó, danh hiệu
Tulku được dành cho các vị Lama tái sanh được đặt trên cơ sở rằng các ngài
[không khác nào] giống như là các vị giác ngộ, do bởi các ngài có sự kết nối với
1 số các phẩm hạnh nào đó của chư vị giác ngộ.
Như đức Jamyang Khyentse Wangpo đã có nói : "Tái sanh là
chuyện xảy ra khi một người nào đó đầu thai trở lại sau khi vị tiền nhiệm qua
đời; hiện thân là khi một sự hoá hiện xảy đến mà không cần có sự qua đời của vị
[hoá thân] gốc."
Tuyên nhận các hoá thân
Việc tuyên nhận là ai, qua việc nhận diện đời trước của một
người nào đó, việc ấy xảy ra ngay cả khi đức Phật Thích Ca còn tại thế. Có rất
nhiều câu chuyện đã được tìm thấy trong Phẩm thứ tư - Agama (Ngũ Bộ Kinh) của
Luật Tạng, trong Truyện Tiền Thân Phật, trong Kinh Hiền Ngu, Kinh Bách Nghiệp...
Trong đó, Như Lai đã khai mở về luật vận hành của nhân quả, kể lại vô lượng vô
số câu chuyện về những ảnh hưởng nghiệp báo đời trước được một người nào đó trải
nghiệm trong đời này. Thêm vào đó, chuyện cuộc đời của những vị đạo sư Ấn Độ là
những người đã sống sau thời đại đức Phật, cũng khai mở cho ta thấy về nhiều nơi
chốn chào đời trong những kiếp quá khứ của các vị ấy. Có rất nhiều câu chuyện
như thế, nhưng hệ thống công nhận và thứ tự hoá các vị tái sanh đã không xảy ra
tại xứ Ấn.
Những hệ thống tuyên nhận các vị tái sanh tại Tây
Tạng
Trước khi đạo Phật đến Tây Tạng thì kiếp trước kiếp sau cũng
đã được công nhận trong truyền thống bản xứ thuộc đạo Bon của Tây Tạng. Và từ
khi Phật giáo được truyền bá tại Tây Tạng thì gần như tất cả mọi người dân Tây
Tạng đều tin vào kiếp trước kiếp sau. Việc đi điều tra, tìm kiếm tái sanh của
rất nhiều vị đạo sư tâm linh, là những người duy trì Phật pháp, cũng như phong
tục cầu nguyện các vị ấy một cách vô cùng thành tín. Tất cả đã trở thành những
điều được thực hành rộng rãi ở khắp nơi trên xứ Tây Tạng. Có rất nhiều những
kinh văn chính thống, các văn liệu bản xứ của Tây Tạng, chẳng hạn như Mani Kabum
hoặc Giáo Lý Năm Nhánh Kathang cùng những tài liệu tương tự như Tập Luận của Các
Đệ Tử Kadam hoặc Chuỗi Châu Bảo : Giải Đáp Các Thắc Mắc, là những tài liệu được
kể lại bởi vị đạo sư Ấn Độ vô song, ngài Dipankara Atisha vào thế kỷ thứ mười
một tại Tây Tạng, trong đó có kể lại về những câu chuyện tái sanh của Thánh giả
Quán Thế Âm, Bồ Tát. Tuy thế, truyền thống chính thức tuyên nhận các vị tái sanh
của các đạo sư như truyền thống tái sanh ngày nay đã khởi sự bắt đầu vào đầu thế
kỷ thứ mười ba qua sự việc ngài Karmapa Pagshi được chính các đệ tử của ngài
tuyên nhận là tái sinh của [vị tiền nhiệm] Karmapa Dusum Khyenpa, dựa trên chính
những chỉ dẫn được để lại cho đệ tử bởi vị tiền nhiệm ấy. Từ đó trở đi, đã có
mười bảy hoá thân Karmapa trong hơn chín trăm năm nay.
Cũng giống như thế, bắt đầu từ việc tuyên nhận ngài Kunga
Sangmo là tái sanh của ngài Khandro Choekyi Dronme của thế kỷ thứ mười lăm cho
đến nay thì đã có mười vị tái sanh của Samding Dorje Phagmo. Cho nên, trong số
các Tulku được tuyên nhận tại Tây Tạng, có những vị là tu sĩ và những vị là hành
giả Mật thừa, cả nam lẫn nữ. Hệ thống tuyên nhận các vị tái sanh dần dần lan
truyền đến các truyền thống Phật Giáo Tây Tạng khác, kể cả đạo Bon. Ngày nay, có
những vị Tulku được tuyên nhận trong khắp bốn truyền thống Phật Giáo Tây Tạng,
Sakya, Geluk, Kagyu và Nyingma, cùng với Jonang và Bodong, là những vị hiến mình
cho Giáo pháp. Nhưng cũng có những trường hợp cho thấy trong số các vị Tulku ấy,
có những vị đáng phải hổ thẹn.
Đấng toàn giác Gedun Drub, một đệ tử tâm truyền của ngài Je
Tsongkhapa, đã khai lập tu viện Tashi Lhunpo tại vùng Tsang và đã chăm lo cho
các đệ tử của ngài. Đại sư Gedun Drub thị tịch vào năm 1474 vào tuổi 84. Cho dù
lúc đầu, chẳng có một nỗ lực nào để nhận diện sự tái sanh của ngài, nhưng cuối
cùng người ta bị buộc phải tuyên nhận đứa trẻ tên Sangye Chophel, ra đời vào năm
1476 tại Tanak ở vùng Tsang, bởi những gì đứa trẻ đó nói ra cho thấy nó có một
trí nhớ cực kỳ tuyệt vời và không chút gì sai trật về cuộc đời trong quá khứ. Từ
đó trở đi, 1 truyền thống tái sanh đã khởi sự bắt đầu, chuyên đi tìm kiếm và
tuyên nhận lại những vị tái sanh kế tiếp của các vị Đạt Lai Lạt Ma do Gaden
Phodran Labrang, và sau đó, do Chính Quyền Gaden Phodran, điều hành.
Cách thức tuyên nhận các vị tái sanh
Sau khi hệ thống tuyên nhận các vị Tulku bắt đầu hiện diện
[tại Tây Tạng], có nhiều cách thức khác nhau đã được khởi sự và phát triển.
Trong số những phương cách khác nhau này thì phương cách quan trọng nhất liên
quan đến lá thư tiên đoán của vị tiền nhiệm cùng với những hướng dẫn và những
dấu hiệu khác nhau có thể xảy đến; hoặc qua cách vị tái sanh nhớ lại và kể lại
một cách đáng tin cậy về chuyện đời trước; hoặc qua cách vị ấy nhận diện ra được
những vật dụng thuộc về vị tiền nhiệm hoặc nhận diện ra được những người thân
cận trong đời trước.
Ngoài những phương thức ấy ra, còn có thêm những phương thức
bổ túc khác, chẳng hạn như là thỉnh xin các tiên đoán của những vị đạo sư tâm
linh đáng tin cẩn, cũng như hỏi xin tiên đoán của những vị thầy tiên tri thế tục
(oracle) trong khi các vị này đang ở trong trạng thái xuất thần, hoặc quan sát
các linh ảnh hiện tra trong những hồ nước thiêng của những vị hộ pháp như là Hồ
Lhamoi Latso, là hồ nước linh thiêng ở về phiá nam Lhasa.
Khi xảy ra sự việc có nhiều người ứng tuyển tương lai có thể
được tuyên nhận là một vị Tulku, và quyết định lựa chọn tối hậu trở thành việc
quá khó khăn, thì có một phương pháp tiên đoán nữa được đem ra sử dụng, đó là
việc dùng những viên bột (zen tak) ngay trước một linh ảnh trong khi khẩn thiết
thỉnh nguyện năng lực của chân lý nhiệm mầu.
Hiện thân trước khi vị tiền nhiệm qua đời
(Ma-dhey tulku)
Thông thường, một vị tái sanh phải là một người đầu thai trở
lại làm một con người khác, sau khi vị tiền nhiệm qua đời. Thông thường, các
chúng sinh bình thường không thể hoá thành ra một hiện thân khác trước khi họ
chết (Ma-dhey Tulku). Nhưng chư vị đại Bồ Tát tối cao, là những người có thể
đồng lúc hoá hiện trong trăm ngàn hình tướng khác nhau. Các vị ấy có thể hoá
hiện ra một hiện thân ngay cả trước khi các vị ấy lìa đời. Trong truyền thống
tuyên nhận Tulku của Tây Tạng, có những hiện thân thuộc vào cùng một dòng tâm
thức với vị tiền nhiệm, có những hiện thân có sự liên hệ với nhau qua năng lực
của nghiệp duyên và sự cầu nguyện, và có những hiện thân đã hoá hiện như là kết
quả của sự gia trì và phó thác.
Mục đích chính yếu của sự hoá hiện một vị tái sanh là để tiếp
tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hoá độ]
chúng sinh. Trong trường hợp của một vị Lama như một người bình thường, thay vì
có một vị tái sanh thuộc vào cùng trong một dòng tâm thức, thì một người nào đó
với những liên hệ kết nối [tâm linh] với vị Lama ấy, xuyên qua phước duyên thanh
tịnh và [năng lực] cầu nguyện, thì người đó cũng có thể được công nhận là hiện
thân của vị Lama. Một cách khác hơn nữa, cũng có thể là vị Lama sẽ bổ nhiệm một
người kế thừa, và người kế thừa, có thể là một đệ tử hoặc một người nào đó trẻ
tuổi hơn, sẽ được tuyên nhận là hiện thân của vị Lama kia. Bởi vì những sự lựa
chọn như vậy cũng có thể xảy ra trong trường hợp của một chúng sinh bình thường,
nên trường hợp có một vị hiện thân không thuộc vào cùng một dòng tâm thức cũng
có thể xảy ra trước khi [vị tiền nhiệm] lìa đời. Trong một số trường hợp, một vị
đại cao tăng Lama cũng có thể có một vài tái sanh khác nhau đồng một lúc, chẳng
hạn như hiện thân của thân, hiện thân của khẩu và hiện thân của ý, vân vân.
Trong thời hiện đại, có những trường hợp nhiều người biết đến, ấy là có những vị
hiện thân đã hóa hiện trước khi [vị tiền nhiệm] lìa đời, chẳng hạn như là trong
trường hợp của ngài Dudjon Jigdral Yeshe Dorje và ngài Chogye Trichen Ngawang
Khyenrab.
Sử dụng chiếc Lư Vàng
Bởi vì thời Mạt pháp ngày càng tệ mạt, và bởi vì các tái sanh
của những vị Lama cao trọng được tuyên nhận ngày càng nhiều, lại có một số vị
được tuyên nhận bởi các động lực chính trị, nên con số những vị tái sanh được
công nhận qua các phương pháp không đúng đắn và đáng hồ nghi ngày càng cao, và
kết quả của sự việc này là gây ra một tai hại hết sức to lớn cho Đạo pháp.
Trong giai đoạn xung đột giữa Tây Tạng và Gurkha (1791-93),
chính phủ Tây Tạng đã phải cầu cứu sự hỗ trợ của quân đội Mãn châu (Manchu). Kết
cuộc là quân đội Gurkha đã bị đánh đuổi khỏi lãnh thổ Tây Tạng, và sau đó, chính
quyền Mãn châu đã soạn ra một bản kiến nghị 29 điểm dựa trên cái cớ là giúp cho
cơ quan điều hành của Chính Phủ Tây Tạng thêm phần hiệu quả. Kiến nghị này gồm
có những đề nghị về việc có thể bắt thăm từ một chiếc Lư Vàng [chiếc bình làm
bằng vàng] để quyết định về việc công nhận tái sanh của các vị Đạt Lai Lạt Ma,
của các vị Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama) cũng như của các vị Hutuktu - một
tước hiệu Mông Cổ dành cho những vị Lama cao trọng. Do đó, phương thức bắt thăm
này đã được làm theo trong một vài trường hợp tuyên nhận hóa thân của Đạt Lai
Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma hoặc một vài vị Lama cao trọng khác. Nghi thức cần phải
thực hiện theo đã được viết ra bởi đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Tám, ngài Jamphel
Gyatso. Cho dù một hệ thống như vậy đã được giới thiệu trước đây, nhưng trường
hợp của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Chín, thứ Mười Ba và trường hợp bản thân tôi, Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ Mười Bốn, thì phương thức bắt thăm từ chiếc Lư Vàng đã được
bãi bỏ.
Ngay cả trong trường hợp của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười, vị
hoá thân đích thực đã được tìm thấy và trên thực tế thì cái phương thức trên
không hề được tuân theo, nhưng để làm vui lòng người Mãn châu, đã có một công bố
ra đời, đơn giản báo cho họ biết rằng nghi thức đó đã được sử dụng.
Hệ thống chiếc Lư Vàng thật ra chỉ được sử dụng trong hai
trường hợp là Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Một và đời thứ Mười Hai. Tuy nhiên,
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Hai đã được tuyên nhận trước khi phương thức chiếc
Lư Vàng được áp dụng. Và vì vậy, chỉ có duy nhất một trường hợp Đạt Lai Lạt Ma
được lựa chọn dựa vào chiếc Lư Vàng mà thôi. Cũng như thế, trong số các hoá thân
của Ban Thiền Lạt Ma, ngoại trừ đời thứ Tám và đời thứ Chín, không có một trường
hợp nào khác mà phương cách này được sử dụng. Hệ thống bắt thăm này đã được áp
đặt bởi chính quyền Mãn châu, nhưng người Tây Tạng không có chút niềm tin nào
vào điều này bởi vì việc này thật sự chẳng mang một tính cách tâm linh nào cả.
Dù là như thế, nếu phương cách này được sử dụng một cách chân thành, chúng ta
cũng có thể xem đó tương tự giống như cách thức tiên đoán dựa trên việc sử dụng
các viên bột (zen tak).
Vào năm 1880, trong thời điểm tuyên nhận Đạt Lai Lạt Ma đời
thứ Mười Ba là hoá thân của đời thứ Mười Hai, ta thấy vẫn còn hiện hữu những dấu
vết của sự liên hệ Đạo Sư và Bảo Hộ giữa Tây Tạng và Mãn châu. Đạt Lai Lạt Ma
đời thứ Mười Ba đã được tuyên nhận là vị hoá thân đích thực không hề sai trật từ
đức Ban Thiền Lạt Ma đời thứ Tám, từ những tiên đoán của các vị thầy tiên tri
(oracle) thuộc [hai tu viện] Nechung và Samye, cùng với việc quan sát những linh
ảnh hiện ra trong Hồ Lhamoi Latso, và do đó, nghi thức chiếc Lư Vàng đã không
được áp dụng. Ta có thể hiểu về điều này rất rõ ràng xuyên qua chúc thư của đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười Ba, viết vào năm Con Khỉ Nước (1933), trong đó ngài có
nói rằng : "Như tất cả các ông đã biết, tôi đã được lựa chọn, không theo cái tập
quán bắt thăm từ chiếc Lư Vàng, mà tôi đã được lựa chọn dựa trên những lời tiên
tri và tiên đoán. Theo đúng như những lời tiên tri và dự đoán mà được tuyên nhận
là tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma và đã được tấn phong."
Khi bản thân tôi được công nhận là hoá thân đời thứ Mười Bốn
của Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1939 thì liên hệ Đạo Sư và Bảo Hộ giữa Tây Tạng và
Trung Hoa đã chấm dứt [trước đó] rồi. Vì vậy cho nên, không cần phải đặt câu hỏi
về nhu cầu sử dụng chiếc Lư Vàng để xác nhận việc tuyên nhận hoá thân của tôi.
Điều mà rất nhiều người biết là vị Nhiếp Chính của Tây Tạng vào thời điểm đó
cùng với Hội Đồng Quốc Gia Tây Tạng đã tuân theo phương thức tuyên nhận Đạt Lai
Lạt Ma dựa trên những tiên đoán của các vị Lama cao trọng, của các vị thầy tiên
tri cùng với các linh ảnh hiện ra tại Hồ Lhaomi Latso; và Trung Quốc không có
bất kỳ một liên hệ dính líu gì đến việc này. Cho dù là như thế, vẩn có một số
nhân vật cao cấp thuộc chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng (Guomintang), đã xảo
quyệt tung ra những lời nói dối trong giới báo chí rằng họ đã đồng ý có những
bước đi trước qua việc sử dụng cái Lư Vàng, và nói thêm rằng ông Wu Chung-tsin
đã chủ toạ lễ tấn phong của tôi, vân vân. Lời nói dối này đã được vạch trần bởi
Ngabo Ngawang Jigme, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Thường Trực của Hội Nghị Quốc Gia Nhân
Dân, một người được Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa xem là nhân vật cấp tiến nhất.
Điều này đã trở nên rất rõ ràng trong Phiên Họp thứ Nhì của Hội Nghị Toàn Vùng
Tự Trị Tây Tạng (ngày 31/07/1989), khi vào cuối bài diễn văn, ông ta đã giải
thích chi tiết tường tận và trưng bày cho mọi người xem các văn kiện như là các
chứng cớ. Rồi ông ta lên tiếng : "Có nhu cầu nào để cho Đảng Cộng Sản (Trung
Hoa) theo chân và tiếp tục những lời nói dối của Trung Hoa Quốc Dân Đảng không
?"
Chánh sách giả dối và hy vọng hão huyền
Trong thời gian vừa qua, có trường hợp những người quản lý vô
trách nhiệm, chuyên quản lý gia tài bất động sản giàu có kếch sù của những Lama.
Những người này đã ham mê chạy theo những cách thức công nhận tái sanh một cách
bất chính và điều này đã làm hại đến thanh danh của Giáo pháp, của cộng đồng tu
sĩ cũng như của xã hội chúng ta. Thêm vào đó, từ thời Mãn châu đến nay, các giới
chính trị có thế lực của Trung Hoa thường xuyên tham dự trong các phương tiện
đầy xảo trá, sử dụng Phật giáo, các vị thầy của Đạo Phật cũng như các vị hoá
thân Tulku như là các công cụ để hoàn thành các tham vọng chính trị của họ, qua
việc can thiệp vào các vấn đề của Tây Tạng và Mông Cổ. Ngày nay, những nhà lãnh
đạo độc đoán của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, là những người cộng sản chối bỏ
tôn giáo nhưng lại vẫn tham dự vào các vấn đề tôn giáo. Họ đã áp đặt chiến dịch
giáo dục cải tạo, và tuyên bố về cái gọi là Trật Tự Thứ Năm, liên quan đến việc
kiềm chế và công nhận các vị tái sanh, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng Chín,
năm 2007. Điều này thật là một sự xúc phạm đáng bỉ hổ. Việc bắt ép tuân theo
những cách thức không thích đáng khác nhau để công nhận các vị tái sanh [với mục
đích] xóa sạch truyền thống đặc thù của văn hoá Tây Tạng hiện đang tạo ra những
thiệt hại rất khó chữa.
Thêm vào đó họ nói là đang chờ tôi chết đi rồi họ sẽ tuyên
nhận Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Lăm theo sự lựa chọn của họ. Điều này thật rõ
ràng, là qua các quy luật, điều luật mới đây, cũng như qua các tuyên ngôn của họ
tiếp theo sau đó, họ có một chánh sách rất chi tiết để lừa gạt người Tây Tạng,
cùng lừa gạt những môn đồ của truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và cộng đồng thế
giới. Do đó, có trọng trách phải bảo vệ Giáo pháp, và ngăn chặn các âm mưu nguy
hại ấy, nên tôi phải đưa ra lời công bố sau đây.
Tái sanh kế tiếp của Đạt Lai Lạt Ma
Như tôi đã có nhắc đến trước đây, tái sanh là một hiện tượng
chỉ nên xảy ra, hoặc là qua sự tình nguyện lựa chọn của cá nhân có liên hệ, hoặc
ít nhất là cũng qua sức mạnh của nghiệp duyên, phước báu và sự cầu nguyện. Bởi
thế cho nên, cá nhân người tái sanh có toàn quyền quyết định là muốn tái sanh ở
đâu, tái sanh bằng cách nào và qua hình thức nào mà vị tái sanh sẽ được tuyên
nhận. Đây là một thực tại không ai có thể ép buộc, hoặc sử dụng mánh khoé để
thao tác. Điều đặc biệt lại càng không đúng đắn nếu những người cộng sản Trung
Quốc, là những người dứt khoát chối bỏ cái ý niệm về kiếp trước kiếp sau chứ
đừng nói chi đến khái niệm về những vị Tulku tái sanh, bây giờ lại muốn can
thiệp vào hệ thống [tuyên nhận] tái sanh, và nhất là tái sanh của các vị Đạt Lai
Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma. Điều này đi ngược lại với hệ tư tưởng chính trị của
họ và mở ra cho ta thấy là họ có hai bộ mặt. Nếu tình trạng như thế này tiếp
diễn trong tương lai, thì không thể nào người dân Tây Tạng và những ai đang đi
theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng có thể công nhận hay chấp nhận được.
Khi tôi vào khoảng chín mươi tuổi, tôi sẽ tham vấn với những
vị Lama cao trọng thuộc các truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, cùng với cộng đồng
Tây Tạng và những người có liên hệ đang tin theo Phật Giáo Tây Tạng. [Vào lúc
đó] tôi sẽ thẩm địnnh lại về cơ chế Đạt Lai Lạt Ma xem có nên tiếp tục hay
không.
Dựa trên căn bản đó, chúng ta có thể đi đến một quyết định.
Nếu [vào lúc đó] có quyết định là tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma cần phải tiếp tục
và có nhu cầu để Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Lăm được tuyên nhận thì trọng trách
của việc tuyên nhận hoá thân phần lớn sẽ nằm trong tay của những nhân viên có
liên hệ [được uỷ quyền], thuộc cơ quan Gaden Phodrang Trust của Đạt Lai Lạt Ma.
Những vị này cần phải tham vấn với các vị thủ ngôi trì giữ các truyền thống tu
tập khác nhau trong Phật Giáo Tây Tạng, cùng tham vấn với những vị Hộ Pháp tín
cẩn, là những vị đã được nối kết chặt chẽ không phân lìa và đã tuyên thệ [trung
thành] với dòng truyền thừa của các vị Đạt Lai Lạt Ma. Những nhân viên [được uỷ
thác này] cần phải nhận lấy những lời khuyên và hướng dẫn từ các vị có liên hệ
và thi hành phương thức tìm kiếm và tuyên nhận dựa theo truyền thống trong quá
khứ. Tôi sẽ để lại những lời hướng dẫn rõ ràng minh bạch về việc này.
Hãy ghi khắc trong tâm khảm rằng, ngoại trừ vị tái sanh được
tuyên nhận xuyên qua những phương cách chính thống như thế, chứ không thể công
nhận hay chấp thuận một ứng viên nào được lựa chọn từ những lý do chính trị, bởi
bất kỳ ai, kể cả bởi những người thuộc Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.
Đạt Lai Lạt Ma Dharamsala.
Bản Việt ngữ (dịch tạm) được Konchog Jimpa Lhamo chuyển dịch từ bản Anh ngữ vào ngày 26/09/2011. Bản Anh ngữ được chuyển dịch từ bản Tạng ngữ và đăng tãi trên trang nhà chính thức của đức Đạt Lai Lạt Ma : www.dalailama.com. Ngày 24 tháng 9 năm 2011. http : //dalailama.com/messages/tibet/reincarnation-statement./. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.27/9/2012.) |
Wednesday, 26 September 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment