Sunday 30 September 2012

Bánh xe Luân hồi (Wheel of Life)

Bánh xe luân hồi diễn tả sự xoay vòng (luân hồi) của chúng sinh (trong đó có con người – humans) trong các nẻo đường sinh tử và được mô phỏng thành hình vẽ trong các truyền thống Phật giáo, đặc biệt là truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Có thể có nhiều cách thức biểu thị tranh vẽ khác nhau, nhưng tất cả đều có những điểm chung căn bản sau đây: giải thích mọi hiện tượng sinh tử trong thế giới này là do sự tác động qua lại lẫn nhau của nhiều yếu tố, không có cái gì tự sinh và tự diệt. Kiểu như “năng lượng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác”.

[Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ]
 Hình vẽ một bánh xe luân hồi tiêu biểu theo truyền thống Phật giáo Tây tạng
 Bánh xe luân hồi là vòng tròn bên trong, bên ngoài chính là Diêm Vương (Lord of Death, viết tắt của từ Diệm Ma Pháp Vương – vị vua chấp pháp của Địa Ngục) hiện thân với hình thù một con quỷ dữ ôm trọn và xoay chuyển Bánh xe luân hồi trong bộ nanh vuốt sắc nhọn của mình. Điều này biểu thị bản chất mong manh, vô thường của cuộc đời, con người luôn luôn bị cái vô thường rình rập (kiểu như một chiều đẹp giời chạy Harley Davidson trên xa lộ Hà Nội được em ngồi sau chổng phao câu tình tứ ôm eo ếch, sẵn có chút hơi men trong người nên đầu óc lăn tăn mơ mộng một đời đầy trăng sao, thì bất ngờ “Rầm” một phát - hun phải cột điện, thấy toàn cả “trăng sao” thật. Và kết quả cuối cùng: người ta nói đi gặp Diêm Vương ấy ! , và vị Thần Chết luôn giám sát mọi hoạt động như chỉ chờ cơ hội để lấy đi mạng sống của họ.

Bánh xe luân hồi có 4 lớp, tính từ trung tâm ra ngoài:

Lớp thứ nhất: Tam độc THAM SÂN SI (three poisons)
 Trung tâm của bánh xe với hình ảnh của ba con vật cắn đuôi nhau theo một vòng tròn: một con lợn, một con rắn và một con chim. Con lợn tượng trưng cho sự ngu tối và không hiểu biết (SI, ignorance), mặc dù con lợn nhiều khi còn khôn ngoan hơn một số loài động vật khác. Thật ra so sánh này xuất phát từ quan niệm của người Ấn Độ cho rằng lợn là một trong số loài động vật “ngu” nhất, bởi vì chúng có thể ngủ ở nơi dơ bẩn nhất và có thể ăn bất cứ thứ gì đưa tới miệng chúng. Tương tự, con rắn tượng trưng cho lòng ganh ghét và thù hận (SÂN, aversion/anger), bởi vì nó dễ dàng bị kích động và sẵn sàng tặng cho bất cứ ai một nhát cắn “êm ái”. Con chim tượng trưng cho sự tham lam và thèm khát (THAM, attachment / desire), trong một số ấn bản ở phương tây (Western) người ta chú thích là con gà trống (cock), nhưng như thế thật ra là không chính xác. Tham, sân, si hay còn gọi là TAM ĐỘC (three poisons), có nghĩa là ba loại độc tính làm cho tâm thức con người bị u tối, nên phải tái sinh vào các cảnh giới khổ đau.

[Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ]
 Hai vòng trung tâm của Bánh xe sinh tử
 Lớp thứ hai: THIỆN NGHIỆP VÀ ÁC NGHIỆP (positive and negative actions)
Hình vẽ trong lớp này cho thấy có hai con đường ĐEN và TRẮNG, được minh họa bởi một vòng tròn nửa đen nửa trắng vây quanh 3 con vật chính giữa, tượng trưng cho hành động xấu (ÁC NGHIỆP, negative actions) và tốt (THIỆN NGHIỆP, positive actions), hay còn được gọi chung là NGHIỆP (karma) do TAM ĐỘC thúc đẩy tạo ra.
 - Một nửa vòng tròn màu trắng tượng trưng cho thiện nghiệp (positive or virtuous actions): những hành động giúp cho chúng sinh có thể tái sinh vào các cảnh giới có đời sống cao (higher realms) như: Cõi Trời (Thiên, Gods), Cõi Người (Nhân, humans) và Cõi “Bán” Thiên (Atula, demi-Gods) (kiểu như nửa Thần nửa Quỷ).
 - Một nửa vòng tròn màu đen tượng trưng cho ác nghiệp (negative or non-virtuous actions): những hành động làm cho chúng sinh bị tái sinh vào các cảnh giới có đời sống thấp (lower realms) như: súc sinh (animals), quỷ đói (Ngạ quỷ, hungry ghosts) và địa ngục (hell-beings).
 Nhìn tổng thể bức tranh Wheel of Life, để ý ở cuối nửa vòng tròn trắng có một làn khói mờ bay ra khỏi bức tranh càng ngày càng lớn dần với dòng người đi lên Cõi Phật. Điều này ám chỉ hành động thiện nghiệp và sự tu tập đúng chánh pháp để giác ngộ về lâu dài có thể đưa chúng sinh thành Phật.

[Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ]
 Sáu cảnh giới của chúng sinh trong vòng sinh tử
 Lớp thứ ba: SÁU NẺO LUÂN HỒI (Lục độ luân hồi, Six Realms of Samsara)

Để dễ hình dung quan sát bánh xe luân hồi, các bạn nhìn theo chiều kim đồng hồ, tại vị trí chính giữa (tương đương với số 12 của kim đồng hồ) nơi mà Diêm Vương đang dùng hàm răng ngậm chặt bánh xe.

Lớp này khai triển một cách chi tiết hơn về các cảnh giới mà chúng sinh có thể tái sanh vào qua những hành động thiện hay ác nghiệp, thay vì biểu diễn một cách đơn giản bằng hai nửa vòng tròn ĐEN TRẮNG như ở lớp thứ hai.

1) Khu vực phía trên cùng là cảnh giới của các loài chúng sinh ở CÕI TRỜI (Thiên, Gods), có tính chất tự cao và kiêu căng (pride). Đó tuy là cảnh giới sung sướng nhất trong vòng luân hồi nhưng vẫn không tránh khỏi quy luật sinh tử. Trong đó có hình một vị Phật cầm cây đàn với ẩn ý rằng: sự vui thú ở cõi trời cũng như tiếng đàn, tuy rất hay nhưng không bền lâu, do đó chúng sanh ở cõi Trời không được kiêu mạn và phóng túng, có như vậy thì sự an vui mới được dài lâu.

2) Phần dưới kề bên phải là cảnh giới LOÀI NGƯỜI (human beings), có tính chất thèm khát, nhiều ước vọng (desire),… nguyên nhân sâu xa là do TAM ĐỘC. Chính những thèm khác và ước vọng (về tiền tài, danh vọng, ăn uống, sắc dục,...) này làm cho con người phải chịu những nỗi đau khổ vì không toại nguyện, có những con người được sinh ra và chết đi trong tâm trạng khổ đau ấy. Đức Phật xuất hiện ở đây với chiếc bình bát trên tayđể dạy con người: tiền tài, danh vọng không đem lại sự an vui, lợi ích lâu dài, mà đôi khi còn cản trở sự tu tập. Làm một người hành khất giản dị, có đủ cái ăn để sống, có thời gian để tu tập, có trí tuệ để thấu hiểu triết lý của Như Lai sẽ đem lại hạnh phúc lâu bền hơn là cứ mãi lặn lội kiếm tìm những tiền tài danh vọng ấy.

3) Phần tiếp theo bên phải là cảnh giới của loài QUỶ ĐÓI (ngạ quỷ, hungry ghosts or pretas), có tính chất ki bo, bủn xỉn (miserliness) với hình vẽ là những con quỷ có hình thú quái dị, bụng thì to phình còn cổ thì bé xíu đang chịu nỗi đói khát triền miên. Đức Phật xuất hiện với chiếc bình quý đựng thực phẩmđang làm dịu bớt nỗi khổ đau của chúng, đồng thời giáo hóa cho loài quỷ biết rằng: thực phẩm ăn được này chỉ đem lại sự no đủ trong chốt lát, chỉ có “thực phẩm cam lồ” hay “thức ăn chánh pháp” (tu tập theo giáo pháp Phật đà) mới là loại thực phẩm tuyệt diệu đem đến no đủ cho nhiều kiếp (tức là đem đến sự giải thoát cho chúng).

4) Phần dưới cùng là cảnh giới của ĐỊA NGỤC (hell beings), có tính chất nóng giận (anger), nơi những cực hình đang diễn ra để trừng phạt những ác nghiệp được hình thành từ đời trước. Đời sống địa ngục không phải là vĩnh viễn, sau khi hết nghiệp địa ngục thì sẽ tái sinh vào những cảnh giới khác. Ở đây, đức Phật xuất hiện với ngọn lửa trên tay với ý nghĩa mang ánh sáng và hy vọng đến chốn tăm tối nhất này, cũng có nghĩa chỉ có ngọn lửa trí tuệ mới là thứ ánh sáng chân thật nhất có thể phá vỡ bóng tối vô minh (không nhận thức được thiện, ác nghiệp) giúp cho chúng sinh trong địa ngục được siêu thoát.

5) Phần tiếp theo cảnh giới của SÚC SINH (animals) gồm: heo, bò, trâu, ngựa, gà, vịt, chiên (cừu),… có tính chất ngu dại và đần độn (stupidity), một cảnh giới đầy dẫy những nỗi khổ do áp bức và ăn nuốt lẫn nhau để sinh tồn. Đức Phật xuất hiện với cuốn kinh cầm trên tay hàm ý: dẫu đời này không thể thấu hiểu lẽ thiện ác của cuộc đời, nhưng kết thúc sinh mạng này và nương nhờ vào giáo pháp của Như Lai sẽ giúp cho chúng thoát được cảnh khổ của loài súc sinh !

6) Phần kề dưới phía bên trái là cảnh giới của ATULA (có thể hiểu như nửa Thần nửa Quỷ, demi-Gods), có tính chất ghen tị (jealousy), là cảnh giới của những vị thần mải mê trong chiến tranh với các loài Trời vì lòng ganh tị và căm thù, nỗi khổ đau của họ là những cuộc chến tranh dai dẳng không bao giờ chấm dứt. Nhìn kỹ Bánh xe luân hồi ta thấy ở đường biên ngăn cách giữa Atula và cõi Trời có những mũi tên nhỏ bắn lên và bắn xuống biểu thị cho sự chiến tranh của hai loài này. Ở đó có một vị Phật xuất hiện với thanh kiếm trên tay với hàm ý: chiến tranh không bao giờ đem đến sự an vui về lâu dài, buông kiếm xuống và tu tập theo giáo pháp Như Lai mới là giải pháp tối hậu nhất cho sự an vui lâu dài.

LỚP THỨ TƯ NGOÀI CÙNG: 12 NHÂN TỐ NỐI KẾT SINH TỬ (THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN, Twelve links of interdependent origination)

Vòng ngoài cùng của Wheel of Life biểu thị 12 nhân tố là nguyên nhân nối kết chúng sinh cứ phải trôi lăn trong cảnh giới sinh tử là: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục xứ, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh và Lão tử.

1) Hình 1 (Vô Minh, Ignorance): Cuộc sống hiện tại của chúng ta có nguồn gốc sâu xa của nó, đó là Vô minh - sự mù quáng và mê mờ không nhận rõ bản chất của hành động tốt xấu, giống như người mù đi trên đường đời. Hình ảnh khởi đầu cho vòng tròn bên ngoài này biểu thị sự VÔ MINH bằng hình vẽ một người già đui mù đang chống gậy đi trên đường.
 2) Hình 2 (Hành, Formation): Một người thợ gốm với những chiếc bình do ông ta đã làm ra, nó chỉ cho Hành – một hình ảnh biểu thị hành động tạo tác (nghiệp) có thể là thiện hoặc ác. Người thợ gốm dùng tay nặn đất sét (hành động tạo nghiệp – nguyên nhân) để tạo ra chiếc bình (kết quả).

3) Hình 3 (Thức, Consciousness): Tâm thức của con người vọng động ham muốn (khi thì muốn thành tỉ phú, khi thì muốn có ghệ đẹp,…rồi khi thì muốn làm ăn trộm) như hình ảnh một con khỉ luôn chuyền từ cành này qua cành khác, tiểu biểu của dạng này trong văn học như là con khỉ TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH ấy. Không phải ngẫu nhiên mà cổ nhân có câu “tâm viên, ý mã” (tâm như con vượn lúc ở cành cây này, thoáng cái đã sang cành khác; ý như con Ngọ (ngựa) không cương chạy hết bờ này lại đến bờ khác).

4) Hình 4 (Danh sắc, Name-and-form): là hình ảnh những người chèo thuyền tượng trưng cho sự kết hợp của Danh-Sắc, nói cách khác là sự tương tác giữa Ý THỨC và CẢNH SẮC cuộc đời, kiểu như thấy tiền thì ham, thấy gái đẹp thì mê, thấy hải sản ngon thì khoái,... Thuyền và người không tách rời nhau cũng như Danh và Sắc kết hợp lại tạo thành con người. Chiếc thuyền là Sắc – phần cảnh sắc; người là Danh - chỉ phần ý thức; con sông biểu thị cho dòng sinh tử. Bởi vì nếu chỉ có sự kết hợp tầm thường giữa DANH và SẮC như trên, thì cũng giống như con người luôn bồng bềnh trong dòng sinh tử, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống (chìm thuyền). Có 2 hoặc 4 người trên thuyền để chỉ cho Thọ, Tưởng hoặc Thọ, Tưởng, Hành và Thức là những yếu tố ràng buộc biểu thị tính chất đau khổ và mong manh của cuộc đời.

5) Hình 5 (Lục xứ, six ayatanas): một căn nhà trống với 5 cửa sổ và một cửa chính tượng trưng cho Lục Xứ - 6 giác quan (Nhãn – mắt, Nhĩ – tai, Tỉ - mũi, Thiệt - lưỡi, Thân – cơ thể, Ý – khả năng suy nghĩ). Con người nhận thức thế giới thông qua 6 giác quan cũng như ngọn gió (biểu thị cho Lục trần – 6 trần cảnh; đối tác bên ngoài của con người) đi qua các cửa để vào căn nhà (cơ thể).

6) Hình 6 (Xúc, Contact): Một đôi trai gái đang ghẹo hay quấn lấy nhau để chỉ cho Xúc, đó là sự tiếp xúc giữa 6 giác quan và 6 trần cảnh (thế giới bên ngoài). Hiểu ngắn gọn 6 trần cảnh: như mắt thích nhìn gái đẹp (Sắc), tai thích nghe mấy em khen đẹp giai, phong độ hào hoa (Thanh), mũi thích ngửi nước hoa của bồ (Hương), Lưỡi thích ăn hải sản (Vị), Cơ thể thích được phe kẹp tóc mát xa (Xúc) và Ý thì cứ luôn gợn lên những ham muốn điên cuồng nhiều thứ (Pháp).

7) Hình 7 (Thọ, Sensation): Một người bị mũi tên đâm vào mắt để chỉ cho Thọ, là yếu tố tri giác do Xúc đem lại. Nói một cách nôm na những cảm giác khoái lạc cuộc đời có bản chất sâu xa là gây đau khổ vì tính chất mong manh không bền của nó (một khi đối tác bên ngoài không còn tốt đẹp nữa, kiểu như ghệ đi yêu thằng khác, tiền thì bị ăn trộm, giờ phải ăn cơm thừa canh cặn,…) Thọ tuy có 3 loại là vui sướng, khổ đau và trung tính, thế nhưng chung cuộc thì chúng chỉ đem lại kết quả phiền não, cho nên mới có hình ảnh đau đớn như thế.

8) Hình 8 (Ái, Crayving): Hình ảnh một người phụ nữ mời rượu một người đàn ông, nó chỉ cho nỗi khát vọng của con người, tức là Ái. Khái niệm “tình yêu” cũng là một dạng trạng thái của Ái. Ham muốn, khát vọng của con người cũng như ly rượu và người đàn ông. Có kẻ thích thành nghiện, có kẻ không thích thì chẳng sao. Nhưng dù thích hay không thích thì ly rượu vẫn như một mối nguy họa tiềm tàng, bất cứ lúc nào cũng có thể nhấn chìm người đàn ông (nhất là rượu ấy được các em chân dài mời: đàn ông có mà chết).

9) Hình 9 (Thủ, Grasping): Một người hái trái cây (giống như “trái cấm” ấy) chỉ cho Thủ, là sự chấp thủ và nỗ lực làm thỏa mãn khát ái. Cũng như kẻ luôn đói khát (Ái) thì phải tìm cách thỏa mãn cho mình là phải “ăn” (hái trái cấm để ăn), hành động này nói lên sự cố bám víu những ham muốn tầm thường của cuộc đời (gọi là chấp thủ, kiểu như ghệ đã bỏ ta đi rồi, nhưng vẫn có chèo kéo, còn không thì kiếm … ghệ khác) để thỏa mãn cơn đói khát, dục vọng trong tâm hồn.

10) Hình 10 (Hữu, Becoming): Một người phụ nữ và đứa con, đó là Hữu, là biểu tượng cho sự trở thành hay là trạng thái hình thành sinh thể để chuẩn bị cho sự tái sinh.

11) Hình 11 (Sinh, Rebirth): Một người đàn bà đang lúc sinh con trong tư thế đau đớn, đó là Sinh – sự sinh ra. Hơn ai hết phụ nữ thấu hiểu nổi khổ về đau đớn trong khi sinh đẻ. Có trường hợp người ta đảo thứ tự vị trí 10 và 11 này. Tức là Sinh (đẻ hài nhi) xong mới tới Hữu (niềm vui sướng khi “hài nhi” là con của mình).

12) Hình 12 (Lão tử, Old age and death): Hình một người khiêng xác chết đi mai táng để chỉ cho Lão (già yếu) Tử (chết đi), trạng thái tất yếu của đời sống. Ai rồi cũng phải chết, điều này không ai chối cãi. Nếu mình nhớ không lầm vua Tự Đức có một câu thơ rất hay để nói về tính bọt bèo của phú quý, và chuyện sinh tử:

Khôn dại cùng chung ba tất đất
 Giàu sang chưa chín một nồi kê !
 Tại sao gọi là Bánh xe sinh tử? Vì 12 nhân tố này tương tác qua lại lẫn nhau đại ý: do Vô minh --> Hành --> Thức --> Danh sắc --> Lục xứ --> Xúc --> Thọ --> Ái --> Thủ --> Hữu --> Sinh --> Lão tử (--> Vô Minh, ...). Chính điều này khiến cho chúng sinh bị vướng mắc vào nó cứ luân chuyển triền miên trong 6 cõi mà không dứt ra được.

Để ý phía trên cùng bên phải của bức tranh có hình Đức Phật đưa tay chỉ vào Mặt trăng. Điều này ám chỉ cái gì? Sự giác ngộ cũng như ánh trăng kia, luôn tỏa ánh sáng trong trẻo, dịu dàng xuống trần gian, còn bàn tay chỉ mặt trăng ám chỉ cho kinh điển giáo lý của Đức Phật. Kinh điển chỉ là phương pháp dạy cho chúng sinh noi theo để đạt được giác ngộ (thành Phật) chứ kinh điển không phải là cứu cánh cuối cùng để chúng ta bám víu vào. Nói một cách khác dễ hiểu là Kinh điển như chiếc bè đưa con người ra khỏi dòng sông sinh tử (~ Wheel of Life) để bước lên bờ giải thoát, lên bờ rồi thì bỏ thuyền lại (chứ chẳng lẽ vác theo trên lưng, nặng chết . Điều đó cho thấy tuy con người phần nhiều ngập chìm trong sinh tử, nhưng không có nghĩa là không thoát ra được. Sẽ thoát được và đứng ngoài vòng sinh tử một cách tùy nghi như chư Phật và Bồ tát, tất nhiên việc này đối với hàng chúng sinh phàm phu thì thật khó, bằng cách thấu hiểu bản chất vận hành của bánh xe sinh tử này kết hợp với đường hướng tu tập đúng chánh pháp. Khó nhưng không có nghĩa là không làm được.

Kết luận: có hai vấn đề đáng lưu ý ở đây

Thứ nhất, Một cách khách quan nhận định khi so sánh các triết lý khác về phương thức lý giải đời sống các loài chúng sinh nối tiếp từ quá khứ đến hiện tại rồi vị lai, có lẽ Đức Phật là người đưa ra được lời giải thích sát thực, có logic nhất. Ngài phân tích từ những ham muốn vi tế nhất của con người, để rồi từ đó lý giải sự luân chuyển của đời sống sinh tử. Một điều rõ ràng mang tính nhân bản mà ta có thể thấy trong giáo lý Phật đà này: bằng việc giải thích sự vận hành của Vòng xoay sinh tử, Đức Phật gián tiếp cho chúng ta thấy rằng: mọi loài điều bình đẳng trong vòng sinh tử. Vì thế cho nên Phật giáo chủ trương tính TỪ BI tôn trọng sự sống của mọi loài, vì một con heo, bò, gà, chiên (cừu),… cũng là một chúng sinh đang chịu nghiệp trong sinh tử.

Thứ hai, Qua việc giải thích sự xoay chuyển bánh xe sinh tử, Đức Phật cũng cho ta thấy Ngài đề cao con người (humans). Tất cả 6 cảnh giới trong sinh tử, có thể hiểu có 3 cảnh khổ (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh) và ba cảnh giới vui (Thiên, Nhân, Atula), có một điều lưu ý là thọ mạng các cảnh giới khác nhau: bốn cảnh giới (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Thiên, Atula) thọ mạng rất dài, nhưng không có nghĩa là không kết thúc. Vui sướng hay đau khổ quá lâu dài đều là nhân tố cản trở sự tu tập (sướng qua mà tu làm gì, chịu khổ lâu quá không biết bao giờ mới yên thân tu tập được[Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ][Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ][Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ]), Còn cảnh giới của Súc sinh, thọ mạng ngắn, nhưng tính chất ngu tối nên khó tu tập. Chỉ có con người thọ mạng ngắn, nhưng có trí tuệ dẫn đường thì nhanh giải thoát hơn các loài khác. Thế nên không phải ngẫu nhiên đạo Phật coi trọng thân thể con người hơn Thiên giới (kể cả Thiên Đàng của Jesus, vì nơi đó không có sự bình đẳng: có một ông Vua ngồi trên ngai, và một đám chiên lẫn quẫn bò bên dưới vĩnh viễn không biết vui sướng kiểu gì, cùng lắm đây cũng là một dạng trường thọ thiên mà thui [Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ][Chỉ thành viên mới nhìn thấy links. ]) và gọi “thân người quý báu”. Trong vòng luân hồi, được sinh làm người được xem là hiếm hoi và là cơ hội quý báu để giác ngộ.
 Xin kết thúc bài viết bằng một bài thơ ngắn:

Hãy khởi hành, bỏ lại phía sau cuộc đi vô định.
 Hãy gom tâm chăm chú vào Giáo Huấn của Đức Phật.
 Làm như Ngài, bậc Lãnh Đạo, như voi chúa Nàlàgiri vững bước như thế nào
 Hãy làm như thế ấy, và hãy chiến thắng Tử Thần.
 Người nào, trong Giáo Pháp và Giới Luật, đi con đường của mình,
 Luôn luôn giác tỉnh, luôn luôn kiên trì cố gắng.
 Người ấy có thể chấm dứt đau khổ ở đây,
 Và bỏ lại sau lưng bánh xe của vòng sanh tử luân hồi.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/9/2012.

No comments:

Post a Comment