Saturday, 20 October 2012

Đẳng Cấp Trong Các Tôn Giáo Ở Ấn Độ.
 
Hệ thống đẳng cấp đã tồn tạiẤn hàng nghìn năm trước vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng cấp, như thường được biết, nguồn gốc từ Bà-la-môn giáo, hay nói khác đi một sản phẩm của Bà-la-môn giáo. Nhưng về sau hệ thống đẳng cấp đã vượt ra khỏi Bà-la-môn giáo xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những tôn giáo nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáoẤn Độ.
1. Bà-la-môn giáo hệ thống đẳng cấp
Đẳng cấpẤn đã trải qua nhiều thay đổi trước khi trở thành hệ thống như hiện nay. Về mặt văn bản, đẳng cấp được đề cập đầu tiên trong Ṛg-Veda, bản kinh cổ nhất của Bà-la-môn giáo. Theo Ṛg-Veda thì bốn đẳng cấp được sinh ra từ một nguồn, từ trên cùng thể của Con người thuỷ (Puruṣa): Bà-la-môn được sinh ra từ miệng; Sát-đế-lợi sinh ra từ tay; Phệ-xá sinh ra từ bắp vế; Thủ-đà-la sinh ra từ chân (Ṛg-Veda, 10.90).
Từ khởi đầu, sự phân chia cao thấp giữa các đẳng cấp được dựa theo vị trí trên thể của Con người thuỷ từ đó các đẳng cấp được sinh ra. Đẳng cấp sinh ra từ miệng, do ở gần đầu nhất, nên được xếp cao nhất; ngược lại đẳng cấp sinh ra từ chân thì được coi thấp nhất. Như vậy theo Ṛg-Veda, cả bốn đẳng cấp đều xuất phát từ một nguồn những liên hệ với thần linh.
Qua đến thời Upanishad, hệ thống đẳng cấp được lập lại. Nhưngthời kỳ này sự phân tranh ngôi thứ giữa hai đẳng cấp đầu Bà-la-môn Sát-đế lợi. Một đoạn trong Upanishad, lúc đầu cho rằng Sát-đế-lợi đẳng cấp cao nhất được sinh ra trước tiên, tại tế lễ Rajasuya các Bà-la-môn phải ngồi bên dưới các Sát-đế-lợi. Nhưng ngay sau đó Upaniṣad xác định lại: “Chính Bà-la-môn nguồn gốc của Sát-đế-lợi. Do đó cho vua quyền uy tối cao, vị ấy cuối cùng phụ thuộc vào Bà-la-môn nguồn gốc của mình. Do đó bất cứ người nào làm tổn hại Bà-la-môn đang tấn công chính nguồn gốc của người ấy. Vị ấy chịu sự tổn hại tương xứng khi vị ấy làm hại người tốt hơn.” (Bṛihad-Āraṇyaka Upanishad 1.4.10).
Trong Upanishad, Bà-la-môn thậm chí được đồng nhất với Phạm thiên, như vậy Bà-la-môn cũng được xem nguồn gốc từ đó tất cả các đẳng cấp khác đã sinh ra. Do đó các đẳng cấp khác không được xâm phạm Bà-la-môn, xâm phạm Bà-la-môn xâm phạm nguồn gốc của mình. Sát hại một Bà-la-môn bị xem tội lỗi lớn nhất. Các đẳng cấp khác, đặc biệt Sát-đế-lợi, phải nhiệm vụ bảo vệ đẳng cấp Bà-la-môn.
Trong Upanishad, hai đẳng cấp Bà-la-môn Sát-đế-lợi được xem hiện thân của hai vị thần Mitra Varanu; hai đẳng cấp này những liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau hỗ trợ lẫn nhau. Chính việc đồng nhất với thần linh, hai đẳng cấp đầu đã tự “hợp pháp” vị trí của mình phân định vai trò nắm quyền điều hành hội. Bà-la-môn lo công việc tâm linh, Sát-đệ-lợi nắm lấy quyền lực thế tục.
Điều này không chỉtrong sách vỡ còn được áp dụng vào trong đời sống thực tế. Ở Ấn Độ cổ đại, một vị vua chỉ được coi hợp pháp khi vị này đã trải qua một buổi lễ phong vương sự cúng tế của các Bà-la-môn. Sau đó trong quá trình trị của mình, nhà vua thường một Bà-la-môn thân cận, vị Bà-la-môn này sẽ cố vấn cho vua nhiều vấn đề, từ tâm linh cho đến những chính sách cai trị. Nhưng các Bà-la-môn cũng cần đến nhà vua, nương tựa vào vua để nhận lấy những lợi ích kinh tế. khi một Bà-la-môn được một vị vua ủng hộ thì vị này được xem địa vị cao hơn những Bà-la-môn không được vua ủng hộ; một vị vua được Bà-la-môn ủng hộ thì được xem quyền lực hơn những vị vua không được Bà-la-môn ủng hộ.Điều này nghĩa rằng, một Bà-la-môn làm việc cho vua thì vị trí cao hơn các Bà-la-môn không làm việc cho vua; những vị vua Bà-la-môn cố vấn thì được xem quyền lực hơn những vị vua không Bà-la-môn cố vấn.
Qua đến thời Bhagavadgītā, lúc này Bà-la-môn dường như yếu thế hơn so với Sát-đế-lợi. vậy thánh điển này một lần nữa xác định lại hệ thống đẳng cấp phân chia các nhóm người dựa trên các đặc tính (guṇa). Nếu như sự phân chia đẳng cấp trong Ṛg-Veda liên quan đến màu da vị trí trên thể của Con người thuỷ, thì sự phân chia đẳng cấp trong Bhagavadgītā được dựa trên đặc tính con người. Bhagavadgītā phân con người vào trong ba đặc tính chính: sáng suốt (sattva), linh động (rajas) tối tăm (tamas). Đặc tính thứ nhất, sáng suốt, được xem ưu trộinơi các Bà-la-môn. Đặc tính thứ hai, linh động, thuộc về hai đẳng cấp Sát-đế-lợi Phệ-xá. đặc tính cuối cùng dành cho những người lệ Thủ-đà-là. Nhưng khái niệm đặc tính (guṇa) này lại liên hệ với học thuyết nghiệp. Theo Bà-la-môn giáo, người ta mang những đặc tính khác nhau, theo đó cộng việc vị trí hội khác nhau, bởi do đã tạo nên những nghiệp nhân khác nhau. Điều này dường như nhằm giảm bớt sựbất côngcủa thần linh trong việc tạo nên con người; cũng nhằm khuyên bảo con người hãy an phận với đẳng cấp đã , thực hiện đúng các bổn phận (dharma) của mình. Nếu ai muốn thay đổi đẳng cấp thì hãy thay đổi nghiệp, thay đổi nghiệp bằng cách thực hiện đúng những bổn phận dành cho mình, như vậy họ sẽ một đời sống tốt trong đời sống kế tiếp.
lẽ Luật Manu cuốn sách giảng giải về hệ thống đẳng cấp chi tiết hơn cả. Mở đầu đã giải thích về nguồn gốc của các đẳng cấp; như các thánh điển trước đó, cũng cho rằng hệ thống đẳng cấp do thần linh định ra. Luật Manu đi xa hơn còn giải thích về các nhiệm vụ, bổn phận công việc của mỗi đẳng cấp; cũng như quy định những loại thức ăn, áo quần nơi mỗi đẳng cấp cần phải theo. Nó cũng đặt ra những hình phạt dành cho mỗi đẳng cấp nếu sự vi phạm các luật định.
Theo Luật Manu, công việc bổn phận của đẳng cấp Bà-la-môn nghiên cứu giảng dạy các Veda, thực hiện bố thí tế lễ. Bổn phận của đẳng cấp Sát-đế-lợi bảo vệ dân chúng, ngăn chặn kẻ ác, trừng phạt kẻ cướp tham gia chiến đấu. Sát-đế-lợi vẫn thể thực hiện tế lễ, nhưng không được thực hiện bổn phận như một tu sĩ, tức không được thực hiện tế lễ cho người khác; được đọc Veda nhưng không được giảng dạy. Nhiệm vụ của những người Phệ-xá tạo ra tài sản, chăn nuôi bảo vệ súc vật. Họ cũng được thực hiện tế lễ đọc tụng Veda, nhưng không được giảng dạy cho người khác. Bổn phận của đẳng cấp Thủ-đà-la làm nộ lệ cho ba đẳng cấp trước. Họ không được sở hữu tài sản, nếu sở hữu sẽ phạm trọng tội.
Luật Manu còn đặt ra nhiều hình phạt nghiêm ngặt dành cho mỗi đẳng cấp. Tuy nhiên sự thiên vị lại nghiêng về đẳng cấp Bà-la-môn; những hình phạt được đặt ra cũng chỉ nhằm cũng cố quyền lực đem lại lợi ích cho đẳng cấp này. Điều này hiển nhiên, bởi Luật Manu thực sự chỉ một sản phẩm của đẳng cấp Bà-la-môn, được hình thành cũng đặc quyền đặc lợi của đẳng cấp này.
những quan điểm khác nhau về nguồn gốc hệ thống đẳng cấp của Bà-la-môn giáo. Nếu xem xét nhữngđược mô tả trong các thánh điển của tôn giáo này, ta thấy hai vấn đề: 1. Đẳng cấp một vấn đề “siêu hình”, được cho do thần linh tạo ra, hay nói cách khác nguồn gốc từ thần linh, từ “Con người thuỷ.” 2. Đẳng cấp được phân chia dựa trên đặc điểm sinh học, tức dựa trên sắc da tính cách của từng nhóm người. Dựa trên sắc da, nhóm người da trắng các Bà-la-môn; nhóm người da đỏ Sát-đế-lợi; nhóm người da vàng Phệ-xá; nhóm người da đen thuộc về Thủ-đà-la. Về đặc tính, các Bà-la-môn thường được cho các đặc điểm như thông minh, chân thật, thanh sạch những đặc tính tốt khác. Sát-đế-lợi Phệ-xá thì được cho các đặc tính như dũng cảm, kiêu hãnh, hăng hái… Đẳng cấp cuối cùng, Thủ-đà-la, bị gán cho các đặc tính xấu như ngu muội, dơ bẩn thiếu tính sáng tạo...
Về phương diện lịch sử hội, hệ thống đẳng cấp được cho sản phẩm của những người Arya khi những người này xâm chiếm Ấn Độ. Trước khi những người Arya đến, nhiều tộc người khác nhau sinh sống tại Ấn, trong đó tộc người Dravidia chiếm đa số. Sau khi chinh phục Ấn Độ, trong quá trình phân bổ lao động, những người Arya đã phân chia cộng đồng của họ thành ba nhóm Sát-đế-lợi, Bà-la-môn Phệ-xá để đảm trách những công việc khác nhau. Về sau những người Arya đã lập nên một đẳng cấp thứ tư, đó Thủ-đà-la, nhữngdân bản địa được người Arya chấp nhận, hoặc những người pha trộn huyết thống giữa Arya người bản địa. Ngoài ra còn một đẳng cấp thứ năm Panchama, những người tiện dân, nhữngdân bản địa người Arya không thừa nhận.
2. Đẳng Cấp Trong Kỳ-na giáo (Jainism)
Từ khởi đầu, giống như Phật giáo, Kỳ-na giáo phủ nhận thẩm quyền của các Veda cũng phủ nhận luôn hệ thống đẳng cấp của Bà-la-môn giáo được quan niệm do thần linh định ra. Kỳ-na giáo cũng tin rằng chính hành vi, chứ không phải dòng dõi, tạo nên vị trí hội của một con người. Tức rằng người ta trở thành Bà-la-môn hay Thủ-đà-la không phải từ khi mới sinh ra do những hành vi của họ tạo nên.
Nhưng về sau Kỳ-na giáo đã chấp nhận hệ thống đẳng cấp của Bà-la-môn giáo đã áp dụng hệ thống này vào trong tôn giáo của mình. Tuy nhiên sự khác nhau trong niềm tin về nguồn gốc của hệ thống đẳng cấp giữa hai tôn giáo này. Trong khi Bà-la-môn quan niệm hệ thống đẳng cấp nguồn gốc từ thần linh thì Kỳ-na giáo không chấp nhận điều này. Sự phân chia đẳng cấp trong Kỳ-na giáo được dựa trên công việc hơn dòng dõi. Nhưng bởi nghề nghiệp thời trước thường mang tính truyền thừa theo gia đình dòng tộc, theo đó đẳng cấp cũng trở thành truyền thừa. thực tế không , không thể , sự chuyển đổi đẳng cấptrong Kỳ-na giáo. Một Bà-la-môn thì hẳn nhiên không muốn đổi thành Thủ-đà-la; họ cũng không dễ gì chấp nhận một người tiện dân đứng ngang hàng với mình trong cùng một đẳng cấp.
Vào lúc đầu, đẳng cấp Bà-la-môn không mặt trong Kỳ-na giáo, tức Kỳ-na chỉ ba đẳng cấp sau. Về sau đẳng cấp Bà-la-môn mới được đưa thêm vào. lẽ do khi những Bà-la-môn cải đạo sang tôn giáo này. Ở miền nam Ấn Độ, những người này được gọi “Bà-la-môn Kỳ-na.”
Kỳ-na giáo gọi người của ba đẳng cấp đầu “người sinh hai lần”, bởi những người này một lần sinh thứ hai về mặt tâm linh bằng một nghi lễ tôn giáo đặc biệt; sau khi trải qua lần “sinh thứ hainày, người ta sẽ trở nên “thiêng” hơn do đã những nối kết với thần linh. Điều này giống với Bà-la-môn giáo. Nhưng trong Bà-la-môn giáo, một người sau khi trải qua lần sinh thứ hai này thì không những đã sự nối kết với thần linh còn chính thức trở thành thành viên của cộng đồng Arya.
Cũng như Bà-la-môn giáo, Thủ-đà-la đẳng cấp thấp nhất trong Kỳ-na-giáo đẳng cấp chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống hội cũng như tôn giáo. Họ không lần sinh thứ hai không nguồn gốc Arya. Về sau hệ thống đẳng cấp của Kỳ-na giáo được cấu chặt chẽ nghiêm ngặt hơn. Mỗi đẳng cấp còn phân chia ra vô số đẳng cấp nhỏ khác, điều cũng giống với Bà-la-môn giáo. Họ đặt ra những luật lệ liên quan đến việc kết hôn, thức ăn, nơi cả việc thực hiện các nghi thức tôn giáo.
3. Đẳng cấp trong Do Thái, Kitô Hồi giáo
Do thái, Kitô Hồi giáoẤn đều chấp nhận hệ thống đẳng cấp, nhưng những khác biệt về danh xưng. Các cộng đồng của những tôn giáo này sự phân chia về vị trí cao thấp, những quy định nghiêm ngặt cho từng đẳng cấp trong cùng một tôn giáo.
Do thái ở Ấn chia làm ba cộng đồng chính tương ứng với ba đẳng cấp: những người Do thái Baghdadi, Do thái Bene Do thái Cochini. Trong ba cộng đồng này, những người Baghdadi được xem ưu thế hơn cả; còn những người Do thái Bene bị xem thấp kém nhất. Sự phân chia cao thấp giữa các cộng đồng này được giải thích do chịu ảnh hưởng hệ thống đẳng cấp của Ấn giáo, nhưng cũng được cho do những luật lệ tôn giáo của mỗi cộng đồng. Sự phân chia giữa các cộng đồng Do thái khá sâu sắc. Ví dụ, như những người Do thái Baghdadi không được kết hôn với những người Do thái Bene, không được ăn thức ăn do những người Do thái Bene nấu… Điều này không khác với Bà-la-môn giáo, quan niệm rằng việc một đẳng cấp cao kết hôn với đẳng cấp thấp hay ăn thức ăn do đẳng cấp thấp nấu, sẽ khiến cho đẳng cấp cao bị uế nhiễm.
Kitô giáo cũng không thoát khỏi hệ thống đẳng cấp. Sự phân chia đẳng cấp trong Kitô giáo được cho bị ảnh hưởng bởi Ấn giáo. Trước khi trở thành tín đồ của Kitô giáo những người Ấn đã đẳng cấp riêng của họ; họ tiếp tục giữ lấy đẳng cấp của mình sau khi cải sang tôn giáo mới. Ở Goa, những người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn Sát-đế-lợi, khi cải sang Kitô giáo đã trở thành những người Bamonn Chardo, hai đẳng cấp cao trong sự phân tầng của tôn giáo này.
Những người Ấn thuộc đẳng cấp thấp hay tầng lớp tiện dân, khi cải đạo sang Kitô hay Hồi giáo, với hy vọng rằng sẽ xoá đi vị trí đẳng cấp thấp hèn của họ, nhưng điều này trong thực tế đã không xảy ra, hoặc rất ít xảy ra. Những người tiện dân vẫn tiện dân. Họ vẫn tiếp tục chịu sự thiệt thòi trong cộng đồng hội nói chung, bị phân biệt đối xử ngay bên trong cộng đồng tôn giáo của họ nói riêng. Nhiều nơiẤn, những người Kitô đẳng cấp thấp không được xin lễ cùng một nhà thờ với người đẳng cấp cao, thậm chí không được đi chung đường với những người đẳng cấp cao. Điều này xem ra không khác mấy với Bà-la-môn giáo mấy ngàn năm trước. sự xung đột bạo lực giữa những người Kitô đẳng cấp cao những người Kitô tiện dân không phải hiếm xảy raẤn.
Hệ thống đẳng cấp cũng xâm nhập vào trong Hồi giáo. Những người Ấn khi cải đạo sang Hồi giáo phần lớn đều giữ nguyên đẳng cấp của mình. Về bản, người Hồi ở Ấn được phân chia thành hai đẳng cấp chính: những người đẳng cấp cao, được gọi Sharaf (hoặc Ashraf) Jat, những người Hồi giáo đến từ nước ngoài những người Ấn đẳng cấp cao cải đạo sang Hồi giáo. Đẳng cấp thấp, được gọi Ajlaf Jat, gồm những người Ấn đẳng cấp thấp cải đạo sang Hồi giáo. Ở một vài khu vực còn thêm đẳng cấp thứ ba, được gọi Arza Jat, đẳng cấp thấp nhất.
Sự phân biệt đẳng cấp trong Hồi giáo rất sâu sắc. Giữa các đẳng cấp thường không những mối liên hệ hội với nhau, cho họ cùng một tôn giáo. Việc kết hôn với những người khác đẳng cấp tuyệt đối bị ngăn cấm, bị xem như một tội lỗi. những người thuộc giai tầng tiện dân thường bị đối xử vô cùng tồi tệ. Sự phân chia đẳng cấp trong Hồi giáoẤn, theo B.R. Ambedkar, còn tồi tệ hơn cả trong Ấn giáo.
Vào thời thuộc địa, người Anh đã những nỗ lực nhằm hạn chế sự phân biệt đối xử với những người đẳng cấp thấp tầng lớp tiện dân. Vào những năm thập niên 30-40 thế kỷ trước, chính quyền Anh đã ban luật để bảo vệ những người này. Thế nhưng chính những người Anh ở Ấn, họ cũng từng xem mình những người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn. Năm 1947, sau khi Ấn Độ độc lập, chính phủ Ấn đã ban luật bảo vệ “những đẳng cấp chịu thiệt thòi.” Nhưng điều này lẽ chỉ hiệu lực trên mặt giấy tờ trong lĩnh vực chính trị (Quốc hội Ấn dành “ghế” cho những người Dalit), còn trong hội thực tế, đời sống của những người tiện dân nhìn chung không thay đổi nhiều.
Nói chung giai cấp thấp tầng lớp tiện dân, cho thuộc tôn giáo nào cho vào thời nào, đều bị phân biệt đối xử. Đầu thế kỷ trước, những người thuộc giai cấp thấp ở Nam Ấn “mặc tài sản, lại không quyền xây nhà hai tầng, không được mang trang sức bằng vàng, không được che dù.”
4. Phật giáo vấn đề đẳng cấp
Từ ban đầu Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng cấp, không sự thay đổi hay thoả hiệp với vấn đề này trong quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, không đẳng cấp trong dòng màu cùng đỏ nước mắt cùng mặn. Đức Phật cũng không chấp nhận việc phân chia con người dựa trên các đặc tính, như việc cho rằng các Bà-la-môn thanh tịnh, còn các Thủ-đà-la ngu tối dơ bẩn. Theo Phật giáo, đẳng cấp chỉ một vấn đề quy ước của con người.
Kinh Phật Tự Thuyết (Udāna) nói rằng: “Ví như, này các Tỷ-kheo, phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciracati, sông Sarabhū, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bốn giai cấp này: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp Luật được Như Lai tuyên bố sau này, họ từ bỏ tên họ của họ trước đó, trở thành những
Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật giáo thì tất cả nhữngliên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều bình đẳng trong đời sống tôn giáo, tất cả đều khả năng đạt lấy giác ngộ bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ gì.
Nhưng bởi tính triệt để của Phật giáo trong vấn đề đẳng cấp đã khiến cho không thể tồn tại lâu dài đượcnơi mảnh đất đã khai sinh ra . Cố thủ tướng Ấn, J. Nehru đã nói rằng “Phật giáo, không thích ứng với đẳng cấp, độc lập hơn trong tư tưởng quan điểm của mình, cuối cùng đã biến mất khỏi Ấn Độ, mặc đã ảnh hưởng sâu sắc vào Ấn Độ Ấn giáo.”
Nhiều người chung quan điểm với cố thủ tướng J. Nehru, trong đó cả những nhà Phật học những tín đồ Kỳ-na giáo. Người ta cho rằng việc triệt để chống lại đẳng cấp của Phật giáo một trong các nguyên nhân khiến Phật giáo không trụ được lâu dài ở Ấn. Nhưng tại sao việc không chấp nhận đẳng cấp lại đưa đến sự suy tàn của một tôn giáo? Vấn đề này, nếu dịp, chúng tôi sẽ trở lại tìm hiểu trong một bài viết khác./.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.(  TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.21/10/201 ).

No comments:

Post a Comment