Sunday, 21 October 2012

Giảng Phật Pháp Gì Cho Người Thượng?
 
Sau khi Trưởng lão Mahinda, con trai của vua A Dục, truyền Phật pháp đến Srilanka thực hiện một số việc liên quan đến việc truyền Phật pháp, vị vua trị đảo quốc này đã hỏi Trưởng lão rằng, phải Tăng đoàn đã được thiết lập vững chắcđảo quốc này rồi không. Trưởng lão Mahinda trả lời, Phật pháp chỉ mới được gieo trồng, còn để bám rễ vững chắcmảnh đất này thì cần đến một ngườichính Srilanka, cha mẹ người Sinhale, học tập Luật (Vinaya) ở Srilanka giảng giải Srilanka. Tức muốn nói rằng, để Phật pháp hưng thịnh đượcSrilanka, thì cần đến chính người Srilanka xuất gia truyền Phật pháp.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương một trong các bản kinh được chuyển dịch sớm nhất sang Hán ngữ, cũng được xem bản kinh mở đầu cho việc truyền Phật pháp sang Trung Hoa. Kinh Tứ Thập Nhị chương ngắn gọn, nhưng đã nói lên được những vấn đề cốt tuỷ của Phật giáo, được xem dễ dàng thích ứng với văn hoá Trung Hoa.
Những phái đoàn truyền Phật pháp sang nước khác dưới thời vua A Dục được cho thành công, điều này nhờ vào những người truyền Phật pháp đã được huấn luyện sự chuẩn bị kỹ về “chuyên môn” cũng như được sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhà vua. Những người mang Phật pháp đến Trung Á Trung Hoa sau đó, cũng được trang bị kỹ, không chỉ thành thạo về Phật pháp cũng giỏi về ngôn ngữ, địa , chiêm tinh, số học, y khoa thậm chí cả pháp thuật…
Qua những điều được đề cập này, chúng ta thầy rằng người xưa khi truyền Phật pháp đến một vùng đất mới, trước tiên họ tính đến một “cẩm nang” Phật pháp phù hợp với “dân trí” của vùng đất đó, thứ đến để Phật pháp phát triển bền vững đượcvùng đất mới, phải cần đến chính người dânvùng đất đó đảm trách công việc này.
Chúng ta nói một vài chuyện xa xưa để suy nghĩ về việc truyền Phật pháp cho người ThượngViệt Nam hiện nay. Việc truyền Phật pháp cho người Thượng hiện nay, cũng không thể không noi theo những người xưa đã làm: cần một quyển sách Phật pháp dành riêng cho người Thượng; huấn luyện để người Thượng tiếp nối vai trò hoằng pháp, hoặc chí ít một ngườitrong cộng đồng bản làng nắm vai trò giữ đạo cho người trong bản sau khi họ đã quy y.
Những năm gần đây, chúng ta vui mừng thỉnh thoảng nghe nơi này nơi kia những buổi lễ quy y tập thể cho đồng bào người Thượng, những ngôi chùa đã tổ chức khoá tu cho người Thượng cũng những quý thầy đã vào các bản làng để làm từ thiện. Nhưng một điều chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã thiếu những bước chuẩn bị căn bản khi truyền Phật pháp cho cộng đồng này. Việc truyền Phật pháp cho người Thượng trong những năm qua, nhìn vào thấy tính “phong trào”, bên cạnh còn cho thấy phát xuất do sự tác động từ phía bên ngoài những do nào đó, hơn phát xuất từ chính bên trong Phật giáo.
Bởi không sự chuẩn bị kỹ, làm theo cảm hứng thụ động, cho nên đôi khi ta nghe ban này ngành nọ được thành lập để truyền Phật pháp cho cộng đồng người Thượng, thì những hoạt động chúng ta thấy được chỉ mang tính nhất thời, đối phó, rồi chúng ta không hề biết cộng đồng người Thượng sau khi quy y đã sinh hoạt Phật pháp như thế nào, việc quy y đem lại những lợi ích cho họ trong đời sống tâm linh cũng như trong đời sống hội. chúng ta cũng không biết bao nhiêu người Thượng tiếp tục Phật tử sau khi quy y, ai người tiếp tục “chăm lo” đời sống tâm linh cho cộng đồng này
Theo thiển ý của tôi, việc truyền Phật pháp cho người Thượng trong những năm gần đây, trước hết, đã thiếu đi điều căn bản quan trọng nhất, đó việc tìm hiểu căn cơ” của cộng đồng này để soạn thảo một cuốn sách Phật pháp thích hợp cho họ. Chúng ta nói về việc truyền Phật pháp cho người Thượng, vậy chúng ta đã giảng những Phật pháp cho họ? Liệu người Thượng hiểu được các giáo pháp như thường, Khổ, ngã, Tánh không, Niết-bàn, Phật tính…? Căn bản hơn, họ thể lãnh hội được những điều như tam quy, ngũ giới, thập thiện, nhân quả…?
Đối với cộng đồng người Thượng, cho họ một vốn liếng khá về tiếng Việt, hoặc người truyền Phật pháp thể nói được tiếng của họ, thì việc giảng giải Phật pháp dong dài một việc làm bổ. Bởi , đối với cộng đồng người Thượng hiện nay, “nhận thức” của họ về tôn giáo còn rất giản đơn. nhiều vấn đề “triết học” thể quen thuộc với người Kinh, nhưng đối với người Thượng lại không dễ dàng để tiếp nhận. những điều nếu chúng ta nói cho họ nghe, chỉ mất thời gian chắc chắc họ sẽ không hiểu được .
Tôi xin kể lại một câu chuyện thế này. Mẹ của tôi tu tập Bát quan trai tại một ngôi chùathị trấn huyện. tôi nghe kể lại rằngđạo tràng này khoảng 30 người dân tộc thiểu số, hầu hết họ người trẻ. duyên để họ tham dự đạo tràng này do một Phật tử người Kinh hướng dẫn. Phật tử này chồng người Thượng. Sau khi lấy chồng “xuất giá tòng phu”, đã vào trong bản (của chồng) sống, chính người đã hoá độ” chồng khuyến hoá những người Thượng trẻ tuổi kia trở thành Phật tử mỗi nửa tháng ra ngôi chùathị trấn tham dự khoá tu Bát quan trai một lần.
Tôi không Phật tử đã nói những Phật pháp cho những người Thượng này. Nhưng tôi nghe mẹ tôi kể rằng, khi tham dự khoá tu, nhưng người Thượng này rất thành tâm, nhưng điều mỗi khi đạo tràng tụng kinh thì họ chỉ ngồi chắp tay… im lặng không tụng đọc được, khi nghe thầy thuyết giảng họ cũng không hiểu cả. Vậy thì tại sao họ theo Phật giáo? Họ theo điều ? việc theo như vậy được lâu dài không?
Lại một chuyện khác liên quan đến bản thân tôi. Năm rồi tôi về quê làm lại giấy chứng minh nhân dân. Tại nơi làm giấy chứng minh nhân dân, trong khi chờ đến lượt mình, tôi đã điền hộ giấy tờ cho những anh chị người Thượng cũng đến làm giấy chứng minh nhân dân, bởi họ không biết chữ, mặc họ nói được tiếng Việt.
Tôi kể một vài chuyện lan man trước khi nói đến việc thuyết giảng những Phật pháp cho người Thượng. Theo tôi, như vừa mới nóitrên, để truyền Phật pháp cho người Thượng, trước hết cần phải biên soạn một quyển sách Phật pháp ngắn gọn. quyển sách Phật pháp này trước hết dành cho người truyền , sau đó cho đối tượng được truyền . Cuốn sách này được viết dưới dạng sám kệ, ràng, dễ đọc dễ thuộc. Cuốn sách sẽ những người truyền đạo sẽ nói với người Thượng, nhưng cũng một dạng sám nguyện dành cho người Thượng ngaytại buôn làng của họ. Nội dung của cuốn sách này thể bao gồm hai điểm chính sau:
- Xây dựng hình ảnh đức Phật
Những Phật tử hiểu đạo thường hiểu rằng đức Phật một bậc Đạo , một người thầy dẫn đạo chứ Ngài không phải thần linh khả năng ban phước hay giáng hoạ cho ai. Những đệ tử của Ngài, nếu muốn đạt được giác ngộ giải thoát thì nên tu học theo giáo pháp của Ngài tự mình thắp đuốc lên đi…
Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, một bậc giáo chủ như vậy sẽ không làm họ thoả mãn. Khi chúng ta tặng cho họ một bức ảnh/tượng Phật, chúng ta sẽ nói với họ về việc treo hoặc thờ bức ảnh/tượng ấy? Nói dong dài về tiểu sử của Ngài từ đản sanh đến niết-bàn, rồi sau đó kết luận rằng Ngài bậc Đạo chỉ đường các vị nên tu theo lời dạy của Ngài nếu các vị muốn giải thoát, chứ Ngài không khả năng giáng hoạ hay ban phước cho ai? Hay chúng ta nói với họ rằng, các vị hãy thờ đức Phật này. Ngài sẽ giúp cho các vị an ổn, nếu các vị chịu khó làm ăn không làm điều xấu ác?
Theo tôi, nói ngắn gọn, với đồng bào người Thượng, đức Phật phải một đấng thiêng liêng, không phải như thần linh thì cũng phải gần với ông Bụt trong dân gian Việt Nam. Ngài sẽ không giáng hoạ trừng phạt ai, nhưng Ngài sẽ giúp đỡ người tốt. Theo thờ Ngài trong nhà thì những điều tốt lành sẽ đến.
Tóm lại, hình ảnh đức Phật trong cuốn sách này vừa một đấng bi trí vẹn toàn, nhưng cũng phải người khả năng cứu độ chúng sanh. đức Phật phải vượt qua Giàng (trời) của họ.
Tôi cũng xin mở ngoặc để nói thêm rằng, đọc những dòng này chắc người sẽ cho tôi muốn xây dựng một hình ảnh đức Phật “thần quyền” cho cộng đồng người Thượng. Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng, Phật giáo được truyền vào Việt Nam đầu tiên cũng dưới dạng một tôn giáo “thần quyền”. cũng thử làm một cuộc “điều tra hội” xem, bao nhiêu Phật tử đến chùa không cầu Phật “gia hộ”. Thực ra, hình ảnh một đức Phật siêu nhiên đã hiện diện trong kinh sách Phật giáo, không chỉ trong kinh điển Đại thừa cũngtrong Phật giáo Theravada.
- Phật Pháp căn bản
Phật pháp căn bảnđây không phải những giáo pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Ngủ uẩn.v.v.. Bởi những giáo pháp ta xem căn bản này, người Thượng sẽ không hiểu được. Những giáo pháp căn bản tôi muốn nóiđây những nguyên tắc sống đạo đức cụ thể chúng ta rút ra từ kinh sách.
Thứ nhất chúng ta cần phải nói về ba quy y năm giới. Những giới như không uống rượu không trộm cặp cần thiết cho người Thượng hiện nay. Người Thượng trước đây họ rất thật thà, nay do sống gần người Kinh, cũng sinh tật trộm cắp. Còn uống rượu dẫn đến gây tai nạn xe máy do người Thượng gây ra, cũng rất phổ biến hiện nay. Về giới không sát sinh, cần nên nhấn mạnh vào việc không được giết người. Nói không sát sanh chung chung thì người Thượng sẽ không theo được. Ở vùng tôi đã hiện tượng người Thượng giết người cướp của, điều trước đây không bao giờ xảy ra.
Tiếp theo chúng ta sẽ bổ sung thêm những nguyên tắc sống khác chúng ta thể tìm thấy trong nhiều kinh sách, chẳng hạn như: phải siêng năng làm việc; phải thương yêu giúp đỡ vợ con (cần nhấn mạnh điều này); phải nuôi nấng cha mẹ già, không bài bạc…
Cũng cần nói về giáo nhân quả, nghiệp báo cho họ. Nói ngắn gọn rằng nếu làm điều tốt, cần siêng năng thì họ sẽ gặp điều tốt, sẽ được chư Phật gia hộ. Nếu biếng nhác làm điều ác thì họ sẽ gặp quả xấu. như tôi đã nói, những nguyên tắc này nên được viết dưới dạng sám nguyện, thơ hay văn xuôi, để sau một thời gian nghe hoặc đọc theo, họ thể thuộc lòng.
…..
Về đối tượng người truyền đạo trước hết cần nhắm đến các vị trưởng bản, những người trẻ thể đọc được chữ quốc ngữ, hoặc những người nghe sành tiếng Việt. Việc truyền đạo đến một cộng đồng văn hoá mới, nếu người truyền biết được chữ tiếng nói của họ điều rất ưu thế. Nhưng trong điều kiện không người thành thạo ngôn ngữ của họ để đảm trách công việc này, thì việc tranh thủ những người biết chữ quốc ngữ sành tiếng Việt điều cần ưu tiên. tôi cũng xin nói thêm, một số cộng đồng dân tộc thiểu số ngôn ngữ riêng, nhưng họ không chữ viết. dụ như cộng đồng Vân Kiềuxứ của tôi.
Tôi không các nơi khác như thế nào, riêng những tôi biết đượcxứ tôi, những người Tin Lành khi truyền đạo, trước hết họ đều nhằm vào các vị trưởng bản những người “sáng giá”trong cộng đồng. Việc “hoá độ” được người đứng đầu những người ảnh hưởngtrong bản làng, sẽ tạo điều kiện tốt cho việc giáo hoá những người khác. những buổi lễ quy y cho đồng bào người Thượng, sẽ tốt hơn nếu được tổ chức tại một gia đình của buôn làng, gia đình này nên trở thành điểm sinh hoạt Phật pháp về sau của bản. Điều này cũng giống như các làng kinh tế mới trước đây (ở vùng tôi), thường “mượn” nhà của một Phật tử nào đó làm địa điểm sinh hoạt Phật pháp khi họ chưa xây được chùa hay niệm Phật đường. Việc vận động cả một cộng đồng người Thượng đông đảo kéo về thị hay thành phố để quy y tập thể, điều thể tạo được “tiếng vang”, thể tốtmột gốc độ nào đó. Nhưng cũng sẽ trở thành bi hài sau khi quy y ở một hội trường to đùng nào đóthành phố, các tân Phật tử nhận tiền, gạo, xe đạp… rồi trở về buôn làng trở thành tín đồ của tôn giáo khác.
Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, khi đem đến cho họ một niềm tin tôn giáo mới, cũng cần phải nghĩ đến việc thay đổi một số điều kiện sống nào đó của họ. Điều kiện sống của người Thượng hiện nay nói chung rất tệ thua kém rất nhiều so với người Kinh. Nhưng ràng không dễ để thay đổi triệt để những điều kiện sống tồi tệ của một bản làng người Thượng. Tuy nhiên, nếu việc hoằng pháp sự hỗ trợ của nhiều người những chương trình hoạt động hiệu quả, thể cải đổi được một số vấn đề nào đó.
dụ, nếu việc hoằng pháp được kết hợp với việc làm từ thiện, một vài công tác hội” khác chẳng hạn như “tư vấn” về việc vệ sinh nguồn nước, giữ sạch đẹp buôn làng, chăm sóc sức khoẻ, hướng dẫn các loại cây trồng cách trồng trọt… hơn hết truyền những nguyên tắc đạo đức Phật giáo, thì ngoài việc chúng ta đem lại cho họ một đời sống tâm linh mới, cũng đang phát triển một phần nào đó đời sống hội” của họ. Việc làm từ thiện đối với người Thượng, cũng như đối với người Kinh, hẳn không nên nhắm mắt đem tiền của ban phát để họ thay đổi chế độ ăn uống trong một vài ngày, điều đôi khi ta tưởng đang “ban vui cứu khổ” hay xoá bớt bất công, nhưng lại đang tạo nên sự bất công mới.
trước chỉ một vài suy nghĩ nhân, những ý kiến này không phải những đề xuất. đề xuất cho ai? ( nghĩ mình cũng chẳng đủ khả năng để đề xuất cho ai). Những dòng này, nếu ai đọc được thì chỉ nên coi như những “chia sẻ”, nếu thấy chút nào đó hợp thì cùng nhau nghiên cứu thêm để tìm ra một hình truyền Phật pháp “bền vững” hơn cho cộng đồng người Thượng.
Việc truyền Phật pháp cho cộng động người Thượng bằng cách thâm nhập sâu vào trong các bản làng hẳn sẽ gặp trở ngại, bởi các bản làng người Thượng thường được coi những địa điểm “nhạy cảm”. Việc các nhóm tự vào các bản làng hoằng pháp cộng với các hoạt động từ thiện hội không dễ được chấp nhận, nhất khi các nhóm làm việc độc lập không thông qua một ban ngành hay tổ chức chính thức nào.
Nhưng với tình hình hiện nay, thì các chùa gần các buôn làng hoặc các Phật tử nên tự tập hợp lại thành nhóm tự làm lấy công việc này, thể khó khăn. Chờ đợi các ban ngành hay tổ chức chính thức của Phật giáo thực hiện công việc này một cách bài bản, thì khi dân chúng của các bản làng đã trở thành tín đồ của các tôn giáo khác hết rồi. Sự thực, ở tỉnh tôi ( rất nhiều tỉnh khác), đã không bất kỳ hoạt động hoằng pháp nào của các ban ngành giáo hội địa phương cho các buôn làng trong địa bàn, ngoại trừ thỉnh thoảng một vài chùa hay các nhóm Phật tửđâu đó đến “bố thí” rồi rời ngay sau đó. thường các đoàn từ thiện cũng không vào tận trong các bản làng để cứu tế, họ chỉ tập trung tại uỷ ban hay một ngôi chùa nào đó mời đồng bào người Thượng đến nhận tài vật.
Mọi việc đã quá muộn. Nhưng nếu cố gắng thì thể vớt vát được phần nào!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/10/2012 ).

No comments:

Post a Comment