“Nhân loại ơi! Có hay chăng một vị giác ngộ mới ra đời!
Chúng sanh ơi! Một Đấng đại từ, đại bi, đại trí, đại đức vừa xuất hiện dưới trần.
Ôi hân hoan, hân hoan cho toàn cả mấy tầng trời, vì chúng sanh ơi, một đoá hoa Đàm nở, một ánh sáng lạ chói ngời!
Này ai ơi! Hãy đi về phía Nam dãy núi Hy-mã-lạp-sơn, vì chính nơi ấy đã ra đời một Đức Phật.”
Tiếng hát ấy được cất lên cách đây hơn 25 thế kỷ tại xứ Ấn Độ, khi thái tử Sĩ - Đạt - Ta vừa mới chào đời. Đó là một sự kiện hy hữu nghìn năm một thuở. Cả trời người đều hân hoan chào đón một vị Phật đản sanh, mang lại hạnh phúc, an lạc cho Chư Thiên và loài người. Vì vậy, ngày Phật Đản được xem là ngày Tết của Phật Giáo. Đối với người học Phật, mỗi mùa Phật Đản đến, chúng ta không chỉ đón mừng sự kiện Đản Sanh trên khía cạnh hình thức lễ nghi mà còn phải thấy sâu hơn thông điệp Đức Phật muốn gửi đến cho chúng ta qua sự kiện đản sanh của Ngài.
Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện có nói: “Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Như vậy, sự xuất hiện hy hữu của Đức Phật nơi thế gian là chỉ cho chúng sanh thấy và sống được với “Phật tánh” thường hằng, bất sanh bất diệt sẵn có nơi mỗi chúng sinh. Phật tánh, Phật tri kiến, hay bản tánh thanh tịnh, bản lai diện mục, chơn tâm, chơn ngã…, có rất nhiều tên bởi vì thực sự vốn không có tên, vô hình vô tướng, trùm khắp vũ trụ vạn vật, vượt ngoài không gian và thời gian. Cho nên, có lúc người ta dùng những đại từ chỉ định “cái đó” hoặc “cái ấy” để tạm gọi. Chỉ khi nào chúng ta thật sự ngộ ra và sống viên mãn với nó thì chúng ta tự biết “nó” là cái gì. Đạo tự cảm thông chứ không thể nghĩ, không thể bàn . Các vị thiền sư khi đã chứng ngộ, các Ngài gọi bằng những mỹ từ như: một cành mai, chúa xuân, viên ngọc như ý…
Thái tử Sĩ - Đạt - Ta khi mới vừa sanh ra từ hông phải của hoàng hậu Ma-da, chân bước bảy bước có hoa sen nâng gót, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, dõng dạc tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. “Ngã” ở đây tức là “chơn ngã”, là Phật tánh. Trên trời và dưới trời, không có gì tôn quý hơn bản tánh thanh tịnh thường nhiên, lặng lẽ hằng soi nơi mỗi chúng sinh. Khi chúng ta biết quay về với chính trạng thái thanh tịnh đó, chúng ta cũng là Phật. Chính vì nhận ra điều ấy mà sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Đức Phật đã nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh thường nhiên, chỉ vì vọng tưởng chấp ngã nên cứ mãi trôi lăn trong sanh tử”. Đức Phật đã giác ngộ, đã nhận ra và sống viên mãn với Phật tánh của chính mình, nên Ngài là Phật. Còn chúng ta chưa nhận ra ông Phật sẵn có nơi mình nên cứ mãi luân hồi trong sanh tử triền miên. Chúng ta là những kẻ cùng tử lang thang, chưa chịu trở về nhà để thừa hưởng gia tài vô giá của người cha già. Nhưng chúng ta cũng được phần an ủi là nhờ những lời dạy vàng ngọc của Đức Thế Tôn mà chúng ta biết được mình đang có một “viên ngọc quý” trong chéo áo, một gia tài vô giá, để rồi tìm đường trở về thừa hưởng gia sản đó.
Chính vì thấy được “bình đẳng tánh” nơi mỗi chúng sanh đều không khác, ở Thánh không thêm, ở phàm không bớt, nên Đức Phật đã khẳng định: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Đây có thể xem như là một lời tuyên ngôn vĩ đại của một Bậc Đạo Sư, đề cao tinh thần bình đẳng trong toàn bộ giáo lý nhà Phật. Đối với các tôn giáo khác, không một vị giáo chủ nào cao thượng đến mức đưa đệ tử, tín đồ lên ngang hàng với mình. Lời tuyên bố trên của Đức Phật không những chỉ rõ Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng sanh mà còn nói lên một thông điệp về sự bình đẳng, một sự thật rất hiển nhiên và khoa học. Ví dụ, một thầy giáo dạy học trò những kiến thức trong ngành sư phạm (ngành đào tạo những giáo viên), thì vị thầy này hẳn nhiên chỉ mong muốn tất cả những học trò về sau đều trở thành những giáo viên giỏi như mình, chứ không một vị thầy nào lại muốn những học trò của mình cứ là học trò dưới mình mãi. Cũng vậy, nếu chúng ta tinh tấn tu tập theo những lời Đức Phật đã dạy thì tương lai chúng ta cũng sẽ thành Phật như Ngài. Chữ “Phật tử” ngoài nghĩa là con Phật, còn có một nghĩa khác là “người có chủng tử Phật”. Nếu chúng ta biết vun bồi cho hạt giống Phật trong ta ngày thêm tươi tốt thì quả vị Chánh Đẳng Giác sẽ không phải là điều tưởng tượng; chỉ có điều là sớm hay muộn mà thôi.
Tông chỉ của Thiền tông là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” (chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật). Hành giả muốn đạt được giác ngộ thì phải nhận ra và sống hoàn toàn với tự tánh nơi mình. Bởi tự tánh vốn thanh tịnh, vốn tự đầy đủ, vốn không sanh diệt. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, khi Lục Tổ Huệ Năng nghe Kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền đại ngộ, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết được nên đã nói: “Chẳng biết bổn tâm, học pháp vô ích. Nếu biết được bổn tâm mình, thấy được bổn tánh mình, tức gọi là Trượng Phu, là Thầy của trời người, là Phật”. Khi đã biết trong tâm mình có Phật tri kiến, nhận ra tự tánh thì liền thành Phật. Cho nên mới gọi “Phật tức tâm, tâm tức Phật”.
Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trong bài Phú cư trần lạc đạo đã viết:
“Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt.
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.”
Dân gian có câu nói : “Phật trong nhà không tìm, tìm Thích Ca ngoài đường”, gẫm lại thật sâu sắc, chứa ẩn nhiều đạo lý. Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong lục đạo, tam đồ, trầm luân sinh tử chỉ vì cứ chạy theo những ảo ảnh bên ngoài, bị ngũ dục lục trần lôi kéo mà quên mất vị Phật hằng hữu nơi chính mình. Chỉ khi nào chúng ta thật sự dừng lại tâm dong ruổi để quay về sống với Phật tánh nơi mình, thì khi ấy ta là Phật. Chủ trương của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là “phản quan tự kỷ, bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (xoay lại chính mình là phận sự gốc, không từ nơi khác mà được). Xoay lại chính mình để khám phá ra “ông chủ” thật sự nơi mình, và biết được mình là gì. Đây là một phương pháp thiền tập rất hữu ích, chú trọng đến việc hành giả phải tự phản tỉnh, soi xét lại bản tâm, bản tánh của mình, tự bơi lội vào công phu tu tập để nhận ra giá trị hằng hữu thường nhiên, phù hợp với tinh thần chứng ngộ sau 49 ngày thiền định của Đức Phật dưới cội Bồ đề.
Trong Kinh Pháp Hoa, Bồ tát Thường Bất Khinh mỗi khi gặp ai, Ngài đều cung kính chắp tay xá chào và nói rằng: “Tôi không dám khinh suất các người, vì nhân duyên trước sau, các người đều sẽ thành Phật”. Các vị Đại Bồ tát khi biết rằng “nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” thì đối với tất cả chúng sanh dưới con mắt các Ngài đều là những vị Phật tương lai. Như vậy, nếu chúng ta thấu suốt được lý này thì chúng ta không bao giờ dám khởi tâm khinh chê một ai hoặc tự đắc về chính bản thân mình, vì tất cả mọi người đều có nơi họ bản tánh thanh tịnh, bình đẳng, không phân biệt giai cấp, màu da, tiếng nói…
Mỗi lần kỷ niệm ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni là thêm một lần nữa để chúng ta tự nhắc nhở mình phải luôn biết rằng trong chính mỗi người chúng ta có một vị Phật luôn hiện hữu. Thân tứ đại chúng ta có thể mất, vũ trụ vạn vật có thể hoại nhưng Phật tánh không bao giờ mất. Khi một niệm tỉnh giác khởi lên, tâm chúng ta an trú vào giờ phút hiện tại thì một vị Phật trong ta “đản sanh”. Ngược lại, nếu một niệm lăng xăng, điên đảo theo trần cảnh bên ngoài, bị vô minh che lấp thì Đức Phật trong ta “nhập diệt”. Đây là ý nghĩa thâm thúy về sự kiện đản sanh của Đức Phật. Nhân sự kiện đản sanh của Ngài mà chúng ta suy nghiệm vào sâu để thấu suốt ý nghĩa đản sanh của vị Phật trong ta. Nếu chúng ta muốn vị Phật trong tâm mình luôn đản sanh thì phải hằng tỉnh, hằng giác; vì Phật tức là giác. Đức Phật là một Bậc “toàn giác”, thì chúng ta là đệ tử của Ngài cũng phải được “phần giác”. Mục đích chúng ta tu là từ từ từng bước gạn lọc bớt những bụi tham sân si, vô minh, phiền não để cho Phật tánh của mình ngày càng sáng tỏ hơn. Đức Phật là một Bậc Đạo Sư dẫn đường chỉ lối. Ngài chỉ cho tất cả chúng sanh biết được trong mỗi người đều có Phật tri kiến hằng hữu, nhưng chúng ta phải tự thắp sáng đuốc trí tuệ, phá tan màn vô minh tăm tối để tìm đường trở về với Phật tánh ban sơ của chính mình.
Một mùa sen nở nữa lại về, mọi người con Phật trên khắp năm châu bốn bể đều hân hoan vui mừng, long trọng tổ chức lễ kỷ niệm sự kiện Đản sanh vi diệu của Đấng Từ Phụ, hướng về Ngài với một lòng chí thành tôn kính. Ôn lại lịch sử về cuộc đời của Ngài, chúng ta phải nguyện noi theo những gương hạnh cao quý ấy, siêng năng tinh tấn tu học, sống hằng tỉnh hằng giác để dần trở về với chơn tâm tịch tỉnh, báo đền ơn đức của Chư Phật, là ơn khó đền. Nguyện cầu mùa Phật đản luôn hằng hữu trong tất cả mọi người, tất cả chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Nam mô Lâm Tỳ Ni viên, Vô Ưu thọ hạ, thị hiện Đản Sanh, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/10/2012 ).
No comments:
Post a Comment