BƯỚC
ĐẦU HỌC PHẬTBiên-Soạn: Thích Tâm Châu.( HOA THUONG THUONG THU TAM HA CHAU ).CANADA,USA,AUSTRALIA=MELBOURNE=CHUA PHAT QUANG.=THICH NU CHAN KIM.SYDNEY=TINH THAT KIM LIEN.=THICH NU CHAN TANH,THICH NU CHAN CHUC.( TINH THAT LIEN HOA.VIETNAM.)TU VIEN VIEN QUANG,TO DINH TU QUANG.
“Sau khi Ta diệt-độ, phàm hết thảy pháp-tạng của Ta nói
ra, các vị cần suy-nghĩ, vâng theo gìn-giữ, siêng làm tinh-tiến, không lâu tự
mình sẽ được giải-thoát”.
KINH ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN
KINH ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người
hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp?
Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ
khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an –
không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh
đủ.
Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử
hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc
hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và
xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này.
Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng
theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo
muốn tiến trên đường tu-học thực-sự.
Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất
(1958)
Thích-Tâm-Châu
Thích-Tâm-Châu
PHẦN THỨ NHẤT
GIÁO-LÝ
“…Khai-thị chúng-sinh ngộ-nhập
Phật-tri-kiến.”
1.- MỤC-ĐÍCH PHẬT-HỌC và HỌC
PHẬT
PHẬT-HỌC:
thông-thường gọi là học-thuyết[1] giáo-lý[2] của Phật. Nghĩa là những lời của bậc giác-ngộ[3], kết-tinh[4] thành giáo-lý, chia thành từng môn, cho người sau
tu-học, giác-ngộ.
Mục-đích[5] của Phật-học là huân-tập[6] cho con người trở thành con người có nhân-cách
tương-đối, đầy-đủ ba đức tính: từ-bi, trí-tuệ, dũng-mãnh. Và, tiến lên,
hướng-dẫn con người hoàn-thành nhân-cách viên-mãn; nghĩa là rèn-luyện cho con
người đầy-đủ phúc-đức, trí-tuệ thành bậc giác-ngộ hoàn-toàn.
HỌC-PHẬT là nghiên-cứu, học-hỏi,
tu-học Phật-pháp (giáo-pháp của Phật).
Mục-đích của sự học Phật là không
cầu tư-lợi, không nghiên-cứu suông; chỉ mong phát trí hiểu biết, diệt-trừ
khổ-não, đạt tới chỗ thành Phật và cứu-độ chúng-sinh.
Người Phật-tử tin-nhận học-thuyết
của Phật tinh-tiến tu-học giáo-lý ấy, không nhận lẫm sự vật, tiến-triển đúng
đường chân-chính, phát-sinh trí-tuệ, mở lòng rộng lớn, hiện-tại thoát khổ được
vui và dần dần thành bậc Đại-giác (Phật).
2.- TAM-QUY
(Quy-y 3 ngôi báu)
(Quy-y 3 ngôi báu)
Một người được gọi là tín-đồ
Phật-giáo hay được gọi là Phật-tử, phải thụ Tam-quy trước đã.
Tam-quy tức là quy-y Tam-bảo. Nghĩa
là, quay về, nương-tựa và sống theo ba ngôi báu là Phật, Pháp và
Tăng.
Phật (Buddha) là đấng giác-ngộ
hoàn-toàn.
Pháp (Dharma) là giáo-lý,
phương-pháp diệt khổ được vui.
Người Phật-tử quy-y Tam-bảo là
người tránh xa sự tà-vạy, si-mê, nguyện trọn đời quay về và sống theo Tam-bảo,
quyết không tin theo đạo-giáo khác.
3.- TAM-BẢO
(3 ngôi báu)
(3 ngôi báu)
Tam-bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp,
Tăng.
Vàng bạc, châu-báu ở đời tuy rằng
quý nhưng, còn trong vòng mất, còn, thay đổi. Đối với Phật, Pháp, Tăng hàm-tàng
10 ý-nghĩa cao quý: vững bền, không nhơ, cho vui, khó gặp, phá phiền-não,
uy-đức, mãn-nguyện, trang-nghiêm, rất mầu-nhiệm và không chuyển-biến…đem lại cho
chúng-sinh phương-pháp thoát khổ, được vui, nên tôn xưng là “Bảo”.
Tam-bảo phân chia nhiều bậc, nhưng
tóm-tắt có thể thành ba bậc như sau:
1.- Đồng-thể Tam-bảo:[8] Còn gọi
là Nhất-thể Tam-bảo, Đồng-tướng Tam-bảo: a) Phật bảo: Phật và chúng-sinh đồng
một lý-thể giác-chiếu (bản-thể chân-lý hiểu biết, sáng-suốt hoàn-toàn). b)
Pháp-bảo: Phật và chúng-sinh đồng một pháp-tính[9] viên-mãn, thường-trụ
và bình-đẳng. c) Tăng-bảo: Phật và chúng-sinh đồng một thể-tính[10] hòa-hợp
thanh-tịnh.
2.- Biệt-thể Tam-bảo:[11] Còn
gọi là Chân-thực Tam-bảo[12], Xuất-thế Tam-bảo:[13] a) Phật bảo:
Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân[14] của Phật, chỉ vào các đấng đã giác-ngộ
hoàn-toàn như đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni. b) Pháp-bảo: Chính-Pháp của Phật như
Tam-học, Tứ-đế, Lục-độ v.v…[15] c) Tăng-bảo: Các vị Thánh-tăng, Bồ-tát
tăng…
3.- Trụ-trì Tam-bảo:[16] a)
Phật-bảo: Tranh, tượng Phật. b) Pháp-bảo: Kinh, Luật, Luận: Tam-tạng thánh-giáo
của Phật. c) Tăng-bảo: Các vị Tăng-sĩ.
Nếu ai quy-y Tam-bảo, nhận rõ
ý-nghĩa Tam-bảo, như-thực tu-hành, thoát-ly khỏi các nơi khổ-não, được đạt tới
cảnh-giới giải-thoát Niết-bàn.[17]
4.-
TAM-TẠNG
(3 kho giáo-lý)
(3 kho giáo-lý)
Tam-tạng:
Ba kho-tàng chứa đựng giáo-lý của Phật
là: Kinh, Luật và Luận:
1.- Kinh: Tiếng Phạm (Ấn-độ)
gọi là Tu-đa-la (Sutra). Tàu dịch là Kinh. Kinh gọi đủ là Khế-kinh, có nghĩa là
thâu-tóm những giáo-pháp hợp-lý, hợp-cơ của Phật thành một loại, hầu hướng dẫn
cho sự tu-học và đem lại lợi-ích chân-thực cho chúng-sinh. Kinh có kinh Đại-thừa
và kinh Tiểu-thừa.
2.- Luật: Tiếng Phạm gọi là
Tỳ ni (Vinaya). Tàu dịch là Luật. Là giới-luật của đức Phật chế cấm để dạy cho
chúng đệ-tử ngăn-ngừa và diệt-trừ nghiệp ác, hầu tiến trên đường thiện-chính,
làm cửa ngõ vào cảnh-giới Niết-bàn.
3.- Luận:
Tiếng Phạm gọi là A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma). Tàu dịch là “đối-pháp, vô-tỷ-pháp…”
Đối-quán[18] trí-tuệ thù-thắng[19] của
chân-lý là “đối-pháp”. Và, trí-tuệ thù-thắng ấy không có gì sánh kịp nên gọi là
“vô-tỷ-pháp”. Theo tiếng Phạm, Luận còn có một tên riêng nữa là “Ưu-bà-đề-xá”
(Upadesa), Tàu dịch là ‘Luận” và có nghĩa là hỏi, đáp, bàn-bạc về tính-tướng[20] của
mọi pháp, phát-sinh trí-tuệ thù-thắng.
Tam-tạng có chỗ thêm Bát-nhã-tạng
và Đà-la-ni-tạng thành Ngũ-tạng.
Người Phật-tử nhất tâm duy-trì[21]
Tam-tạng làm cơ-sở tu-học: Giới, Định, Tuệ, sẽ đạt tới giác-ngộ và
giải-thoát.
5.- NGŨ-GIỚI
(5 điều răn)
(5 điều răn)
Muốn con người được xứng-đáng với
ý-nghĩa con người; muốn xã-hội trở thành một xã-hội an-vui, cần thực-hành năm
điều răn:
1.- Không được
sát-sinh: Không được giết-hại các
sinh-mệnh khác mà nó cùng có sự ham sống sợ chết như mình.
2.- Không được
trộm cắp: Tôn-trọng của người; vật gì
không phải của mình không được lấy.
3.- Không được
tà-dâm: Không được
ngoại-tình.
4.- Không được nói
dối: Không nói những lời sai sự thực, có
hại.
5.- Không được
uống rượu: Không được say-sưa rượu-chè,
có hại cho tư-cách, trí-tuệ và gia-nghiệp.
Ngoài việc đối với tự-thân, xã-hội
hiện-tại, năm điều răn còn là cửa ngõ sinh lên Nhân, Thiên và
Niết-bàn.
6.- BÁT QUAN-TRAI
(8 pháp quan-trai)
(8 pháp quan-trai)
Nghiêm-trì giới-luật và tịnh-tâm
tu-niệm là hai món tư-lương tối-yếu trên con đường giải-thoát của người
Phật-tử.
Với lòng từ-bi của
Phật, người Phật-tử tại-gia vì bận việc gia-đình, xã-hội, không thể thoát-ly
trọn đời để tu niệm được, Ngài chế ra tám
pháp quan-trai[22], thực-hành một ngày một đêm cũng được công-đức vô-lượng.
Tám pháp ấy là:
1.- Không
sát-sinh.
2.- Không
trộm-cắp.
3.- Không
dâm-dục.
4.- Không nói
dối.
5.- Không uống
rượu.
6.- Không trang-sức các vật quí-báu
và không xoa-bôi đồ thơm vào mình.
7.- Không ca múa hát xướng, không
đi xem, nghe.
8.- Không nằm giường cao,
rộng.
Và một trai-pháp là không ăn
phi-thì, nghĩa là không ăn quá giờ ngọ.
Việc thụ-trì 8 pháp quan-trai này
hoặc phải có giới-sư truyền-thụ hay là tự mình phát-nguyện thụ-trì[23]
ngay ở nhà cũng được, nhưng phải làm đúng. Làm đúng, ba nghiệp[24] được thanh-tịnh,
do đó thiện-nghiệp phát-triển, gieo sâu hạt-giống vô-lậu[25] giải-thoát trong
tâm-điền[26], khỏi sa đường ác và sẽ sinh về nơi An-lạc.[27]
7.- THẬP-THIỆN
(10 nghiệp lành)
(10 nghiệp lành)
Tiến xa, rộng hơn, người Phật-tử
nên thụ-trì thập-thiện.
Thập-thiện là mười nghiệp lành do
nơi thân, miệng, ý tạo ra:
A.- Ba nghiệp nơi
thân:
1.- Không sát-sinh, hay làm việc
hộ-sinh.
2.- Không trộm cắp, hay làm hạnh
bố-thí.
3.- Không dâm-dục, thường giữ hạnh
thanh-tịnh.
B.- Bốn nghiệp nơi
miệng:
4.- Không nói dối, nói
chân-thực.
5.- Không nói thêu-dệt, nói đúng
nghĩa.
6.- Không nói lưỡi đôi chiều, nói
hòa-hợp.
7.- Không nói thô-ác, nói
dịu-dàng.
C.- Ba nghiệp về
ý:
Mười nghiệp lành trên đây là cả một
chương-trình vĩ-đại đối với mình và người. Nếu thực-hành đúng, kết-quả cũng
vĩ-đại.
8.- TỤNG KINH
Tụng kinh là đọc lên những lời Phật dạy ghi chép trong kinh-sách
bằng cách chí-thành, suy-ngẫm, và tin-tưởng.
Tụng kinh làm cho thân, miệng trong sạch, tâm-ý bình-tĩnh,
phát-sinh trí-tuệ và gây nhân-quả tốt. Tụng kinh tập-trung được tư-tưởng, tạo
thành một năng-lực mạnh-mẽ, diệt-trừ tội lỗi nơi mình, đem lại sự trong sạch,
an-vui cho người trong tinh-thần giao-cảm.[31]
Tụng kinh là một phương-pháp hay
nhất của người Phật-tử muốn tu và muốn tiến. Người Phật-tử tự coi mình có
bổn-phận tụng kinh hai thời: sớm, tối trong ngày hay ít ra cũng một tháng hai
kỳ.
9.- NIỆM
PHẬT
Niệm Phật là nhớ-nghĩ đến Phật;
nhớ-nghĩ đến đức-tính: từ-bi, tinh-tiến của Phật, tức là gợi lại cái tính Phật
sẵn có tại nơi mình, hầu đem áp-dụng vào cuộc sống lợi-ích cho mình và cho
người.
Niệm Phật có ba
phương-pháp:
1/ Xưng-danh niệm
Phật: Miệng niệm danh hiệu
Phật.
2/ Quán-tưởng niệm
Phật: Ngồi yên quán-sát, tưởng-niệm
công-đức tướng-hảo của Phật.
3/ Thực-tướng niệm
Phật: Quán-tưởng pháp-thân của Phật là
lý thực-tướng trung đạo chẳng phải có, chẳng phải không.
Nhưng, phương-pháp niệm danh-hiệu
Phật là dễ-dàng và thông-dụng nhất. Niệm Phật, dù niệm danh-hiệu đức Phật nào
theo bản-nguyện của mình đều được, nhưng điều quan-trọng hơn hết là phải
nhất-niệm. Nghĩa là chỉ nhớ-nghĩ tới Phật, đức-tính Phật, không một vọng-niệm
(nhớ-nghĩ xằng) nào xen vào.
Người nhất-tâm niệm Phật, huân-tập
đức-tính Phật, không tưởng-niệm mông-lung, sẽ tạo cho mình có đức-tính như Phật,
cải-tạo thế-giới vẩn-đục, độc-ác, thành thế-giới trong sạch,
yên-vui.
Người Phật-tử cần tinh-tiến niệm
Phật.
10.- LẦN TRÀNG
(chuỗi)
Lần tràng (chuỗi) là
một hình-thức trợ-duyên cho chính-niệm (nhớ-nghĩ chân-chính) khỏi bị tạp-niệm
(nhớ-nghĩ phức-tạp) xen vào; là tiêu-chuẩn[33] cho ý-định niệm
Phật của người niệm và là biểu-tượng[34] đối-trị[35] của chính niệm
diệt-trừ phiền-não.
Lần tràng gắn liền
với niệm Phật. Khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, tràng mang theo mình và
chí-tâm niệm Phật, không phân-tán ý-niệm, được công-đức
vô-lượng.
Tràng có nhiều thứ:
1.080 hạt, 108 hạt, 54 hạt, 42 hạt, 27 hạt, 21 hạt và 14 hạt. Số mục của tràng
hoặc lớn hoặc nhỏ đều có biểu-thị[36] cho các tôn-vị,[37] các quả-vị[38] để
đối-trị phiền-não.
Vật-liệu làm tràng
hoặc bằng vàng, bạc, châu-báu hay các thứ hạt, các thứ gỗ nhưng, nhiều phúc-báo
hơn phải kể là tràng bằng hạt bồ-đề[39], hạt sen, kim
cương.
Phép lần tràng tay phải sạch-sẽ,
tay hữu cầm tràng để vừa trước ngực ngang trái tim; chuỗi tràng để trên ngón tay
giữa, đầu ngón tay cái và đầu ngón tay chỏ cầm vào hạt tràng, mỗi niệm lần một
hạt. Lần từ hạt giáp hạt giữa, lần vòng đến khi lại giáp hạt giữa, lần quay trở
lại không được lần qua hạt giữa.
Lần tràng có nhiều ý-nghĩa như
trên, người Phật-tử nên cố-gắng thực-hành.
11.- ĂN
CHAY
Ăn chay là ăn các thức rau,
trái.
Loài vật cũng là một động-vật như
người, cũng biết ham sống, sợ chết, cũng biết thương-xót trước cảnh biệt-ly và
đau-đớn trong khi xúc-phạm tới thân-thể, vì thế người có lòng từ-bi không nỡ
giết và ăn thịt nó.
Thịt sinh-vật có nhiều chất
kích-thích, làm cho người ăn nó sinh ra tính-tình hung-bạo, nhiều dục-vọng,
nhiều bệnh-tật và kém phần trí-tuệ, nên nhiều nhà y-học khuyên ta không nên ăn
thịt hay là nên ăn ít.
Vì hai lẽ trên, người Phật-tử giữ
giới, ăn chay trường được càng quý hoặc ăn chay từng kỳ như
sau:
- Mỗi năm ăn chay 3 tháng: tháng
giêng, tháng năm và tháng chín.
-Mỗi tháng ăn chay 10 ngày: 1, 8,
14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu tính từ ngày
27)
- Mỗi tháng ăn chay 6 ngày: mồng 8,
14, 15, 23, 29 30.
- Mỗi tháng ăn chay 4 ngày: mồng 1,
14, 15, 30.
- Mỗi tháng ăn chay 2 ngày: mồng 1
và 15.
12.-
SÁM-HỐI
Là con người, trong sự hoạt-động
thường ngày chưa chắc đã tránh khỏi lỗi-lầm. Có lỗi-lầm, biết ăn-năn sửa-đổi,
tu-tiến là một cử-chỉ đáng khen và nên theo. Đó là sám-hối, theo danh-từ
Phật-học.
“Sám-hối” là hai chữ ghép chung
tiếng Phạm (Ấn-độ) và tiếng Hán mà thành. Tiếng Phạm gọi là Sám-ma (Ksamayati)
Tàu dịch là “hối-quá”, gọi chập lại là “Sám-hối” và có nghĩa là tự mình bày tỏ
những lỗi mình làm trước, ăn-năn từ nay xin sửa đổi, không dám phạm
nữa.
Sám-hối có ba
pháp:
1/
Tác-pháp-sám: Y-pháp, hướng Phật-tiền
sám-hối (hoặc lễ danh-hiệu Phật).
2/
Thủ-tướng-sám: Định-tâm vận-tưởng
sám-hối, thấy Phật xoa đầu hoặc thấy hào-quang.
3/
Vô-sinh-sám: Chính-tâm, quán-lý vô-sinh
(không sinh diệt).
Nơi con người từ vô-thỉ tới nay do
thân, miệng, ý tạo ra biết bao nhiêu tội-lỗi. Lỗi-lầm càng che-dấu, tội báo càng
tăng thêm, càng vòng quanh trong sinh-tử mãi mãi, thế nên cần phải sám-hối. Ngay
như trong phẩm Phổ-Hiền kinh Hoa-Nghiêm cũng nói lên rằng: “Ngã tích sở tạo
chư ác-nghiệp, giai do vô-thỉ tham, sân, si. Tòng thân, ngữ, ý chi sở sinh,
nhất-thiết ngã kim giai sám-hối ”. (Xưa tôi tạo nên các nghiệp ác, đều do
tâm tham, sân, si của tôi từ đời vô-thỉ và, từ nơi thân, miệng (lời nói) ý của
tôi mà sinh ra. Vậy, hết thảy tội-lỗi ấy, nay tôi đều
sám-hối).
Người Phật-tử cho sám-hối là
phương-thức tốt-đẹp nhất trong đường tu-hành của mình. Sám-hối viên-dung
(dung-hợp đầy-đủ) cả sự, lý sẽ được như kinh Nghiệp-báo sai-biệt nói: “Người
gây tội nặng, thâm-tâm tự-trách, sám-hối không làm nữa sẽ nhổ hết được những tội
căn-bản ”.
13.-
PHÁT-NGHYỆN
Việc làm của con người muốn đạt tới
mục-đích không thể không có một đề-án, một chương-trình, một sư cam-kết hay một
sự hứa-hẹn. Người Phật-tử bước chân vào đạo cũng phải có sự hứa hẹn ấy, nhưng
theo danh-từ Phật-học gọi là “Phát-nguyện.”
Phát
nguyện có nghĩa là tự đáy lòng chân
thành của mình phát-khởi ra lời thề-nguyện (lời hứa-hẹn) tự-lợi, lợi-tha rộng
lớn, làm tiêu-chuẩn cho mình tu-tiến, khả-dĩ xứng đáng là Phật-tử, là vị Phật
tương lai.
Lời phát-nguyện tùy
theo tâm-niệm, hoàn-cảnh có nhiều, nhưng đại-để chư Phật, Bồ-tát, Thánh-tăng hay
chúng ta noi theo, có thể tóm-tắt trong bốn điều chính-yếu này: “Chúng-sinh
vô-biên thệ-nguyện độ. Phiền-não vô tận thệ-nguyện đoạn. Pháp-môn[40] vô-lượng thệ-nguyện học. Phật-đạo vô-thượng thệ-nguyện
thành ”. (Chúng-sinh rất nhiều,
thề-nguyền xin độ hết. Phiền-não rất nhiều, thề-nguyền xin bỏ hẳn. Pháp-môn rất
nhiều, thề-nguyền xin học hết. Đạo Phật cao siêu, thề-nguyền quyết đạt
thành).
Phát-nguyện là một việc làm
quan-trọng. Nó ghi sẵn bước đường cần đi của người Phật-tử. Nó đánh giá cả một
tâm niệm, một việc làm lùi hay tiến của người Phật-tử.
14.- LỤC-HÒA
(6 pháp hòa kính)
(6 pháp hòa kính)
Để trong một đoàn-thể luôn luôn
được sự hòa-hợp, đức Phật nói ra sáu pháp hòa-kính sau
đây:
1.- Thân-hòa đồng
trụ: Thân hòa hợp cùng làm việc Phật,
cùng chung sống một nơi với nhau.
2.- Khẩu-hòa vô
tránh: Miệng hòa không cãi-cọ nhau, luôn
luôn nói lời hòa-dịu, lợi-ích, tụng-kinh, niệm Phật, tán-dương công-đức
Phật.
3.- Ý-hòa đồng
duyệt: Tâm-ý hòa cùng tin-tưởng, vui-vẻ
trao đổi lẫn nhau.
4.- Giới-hòa đồng
tu: Cùng hòa-hợp tu theo giới-pháp của
Phật.
5.- Kiến-hòa đồng
giải: Mọi sự hiểu biết chân-chính, sâu
rộng, đồng giải tỏ cho nhau cùng hiểu.
6.- Lợi-hòa đồng
quân: Có quyền-lợi gì đồng chia đều cho
nhau cùng hưởng.
Sáu pháp hòa-kính này, đem lại sự
an-hòa cho mọi người, để sống theo lời Phật dạy, tinh-tiến trên đường xây-dựng
và giải-thoát.
15.- TAM-HỌC
(3 nền-tảng tu-học)
(3 nền-tảng tu-học)
Người học Phật muốn hướng-thượng,
cần phải đứng trên ba nền-tảng tu-học sau đây:
1.-
Giới-học: Giới-luật để ngăn-ngừa và
trừ-diệt ba ác-nghiệp: thân, khẩu, ý. Giới-học có ba loại:
a) Nhiếp-luật nghi-giới: Các
giới-luật, uy-nghi của Phật-tử tại-gia[41], các bậc Sa-di[42] Thức-soa ma-na[43],
Tỳ-khưu[44], Tỳ-khưu-ni[45], Bồ-tát[46].
b) Nhiếp-thiện-pháp-giới: Các pháp
lành như thập-thiện v.v…
c) Nhiêu-ích hữu-tình-giới: Làm
việc cứu khổ cho vui đối với chúng-sinh.
2.-
Định-học: Thiền-định làm tâm-ý
vẳng-lặng, trong sạch không xáo-động. Định-học có 8 bậc gọi là “bát-định”: 4
thiền của Sắc-giới là Sơ-thiền, Nhị-thiền, Tam-thiền, Tứ-thiền và 4 định của Vô
sắc-giới là Không-vô-biên-xứ, Thức-vô-biên-xứ, Vô-sở hữu-xứ và Phi-tưởng,
phi-phi-tưởng-xứ.
3.-
Tuệ-học: Trí-tuệ quán-suốt chân-lý, dứt
bỏ mê lầm. Tuệ-học có 3 thứ: Văn, tư, tu.
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát
Tuệ, Niết-bàn giải-thoát do đó chóng thành.
16.- TAM-TUỆ
(3 pháp sinh trí-tuệ)
(3 pháp sinh trí-tuệ)
Trí-tuệ là sự nghiệp.Người học Phật
muốn phát-sinh trí-tuệ, phải y theo ba pháp sau đây:
1.-
Văn-tuệ: Nương vào chỗ nghe, học, tìm
hiểu kinh-giáo mà phát-sinh trí-tuệ.
2.-
Tư-tuệ: Nương vào chỗ suy-nghĩ đạo-lý,
phát-sinh trí-tuệ.
3.-
Tu-tuệ: Nương vào chỗ tu-tập thiền-định,
phát-sinh trí-tuệ.
Ba pháp sinh trí-tuệ này đạt được
sẽ dứt trừ mê-lầm và chứng được chân-lý.
17.- BÁT-CHÍNH-ĐẠO
(8 con đường chính)
(8 con đường chính)
Muốn chúng-sinh diệt khổ, được vui,
đức Phật dạy chúng-sinh cần đi theo tám con đường chính dưới
đây:
1.-
Chính-kiến: Thấy biết
chân-chính.
2.-
Chính-tư-duy: Suy-nghĩ
chân-chính.
3.-
Chính-ngữ: Nói-năng
chân-chính.
4.-
Chính-nghiệp: Hành-động
chân-chính.
5.-
Chính-mệnh: Nghề sống
chân-chính.
6.-
Chính-tinh-tiến: Gắng làm
chân-chính.
7.-
Chính-niệm: Nhớ-nghĩ đạo
chân-chính.
8.-
Chính-định: Nhập thiền-định chân-chính,
vô-lậu và thanh-tịnh.
Phật-tử muốn giác-ngộ chân-chính
như Phật, phải tu-tập Bát-chính-đạo.
18.- TAM-THẬP-THẤT ĐẠO-PHẨM
(ba mươi bảy đạo-phẩm)
(ba mươi bảy đạo-phẩm)
Ba mươi bảy đạo-phẩm này là ba mươi
bảy món tư-lương để đi tới Niết-bàn:
1.- Tứ
niệm-xứ: Bốn chỗ cần quán-niệm: a)
Quán-thân bất-tịnh: Quán-sát thân-thể này là túi nhơ, không sạch. b)
Quán-thụ thị khổ: Quán-sát những sự cảm-thụ là khổ. c) Quán-tâm
vô-thường: Quán-sát tâm-thức luôn luôn chuyển-biến không thường. d)
Quán-pháp vô ngã: Quán-sát tất cả sự-vật đều không có cái “ta” có
tự-chủ.
2.-
Tứ-chính-cần: Bốn thứ siêng-năng
chân-chính (còn gọi là “tứ chính-đoạn, tứ ý-đoạn, tứ chính-thắng”): a) Đối với
việc ác đã sinh phải trừ hẳn. b) Đối với việc ác chưa sinh không cho sinh. c)
Đối với việc thiện chưa sinh làm cho sinh. d) Đối với việc thiện đã sinh làm cho
tăng-trưởng.
3.- Tứ
như-ý-túc (còn gọi là “tứ thần-túc”):
Bốn pháp thiền-định làm cho được đầy-đủ như ý: a) Dục : Y vào sự muốn
tiến mà định phát-khởi. b) Cần : (có chỗ gọi là “tiến”): Y vào sức siêng
tu, định phát-khởi. c) Tâm (có chỗ gọi là “niệm”): nhất tâm chuyên-trụ,
định phát-khởi. d) Quán (có chỗ gọi là “tuệ”): quán-sát chân-lý, định
phát-khởi.
4.-
Ngũ-căn: Năm pháp căn-bản sinh ra các
pháp thiện khác: a) Tín-căn : tin-tưởng Tam-bảo, Tứ-đế. b)
Tinh-tiến-căn (có chỗ gọi là “cần”): Dũng mãnh tu pháp lành. c)
Niệm-căn : Nhớ-nghĩ chính-pháp. d) Định-căn : Tâm trụ vào một cảnh
mà không tán-loạn. đ) Tuệ-căn : Suy-nghĩ tìm hiểu
chân-lý.
5.-
Ngũ-lực: Năm thứ năng-lực để đối-trị với
ác-pháp, tức là năng-lực của năm căn trên.
6.-
Thất-giác-chi (còn gọi là “thất
Bồ-đề-phận, thất giác-phận”): Bảy phần hiểu-biết và quán-sát rõ-ràng làm cho
Định, Tuệ quân-bình: a) Trạch-pháp : Dùng trí-tuệ lựa-chọn sự thực, giả
của các pháp. b) Tinh-tiến : Dùng tâm dũng-mãnh bỏ tà, theo chính. c)
Hỷ : Được thiện-pháp tâm vui mừng. d) Khinh-an : Đoạn-trừ
phiền-não nặng-nề, thân-tâm nhẹ-nhàng, an-vui. đ) Niệm : Nhớ rõ Định, Tuệ
không quên, làm cho Định, Tuệ quân-bình. e) Định : Tâm trụ một cảnh không
tán-loạn. g) Hành-xả : Bỏ những dối-trá, mê-lầm và bỏ hết thảy trong
tư-tưởng, hành-động, giữ tâm bình-thản.
7.- Bát chính
đạo: Tám con đường chính: Chính-kiến,
chính tư-duy, chính-ngữ, chính-nghiệp, chính-mệnh, chính tinh-tiến, chính-niệm
và chính-định.
19.-
NHÂN-QUẢ
Một ý-nghĩ, một lời nói, một
hành-động, hay nói chung là một pháp (sự-vật) đã có sự phát-khởi ở ban đầu, đem
lại sự đáp-ứng cho phút cuối cùng, đó là thuộc trong đạo-lý
nhân-quả.
Nhân là nguyên-nhân, Quả là kết-quả. Tỷ-dụ: học (nhân) thì
biết chữ (quả); trồng cây (nhân) thì có trái (quả); đánh trống (nhân) thì có
tiếng (quả). Nhân-quả chi-phối tất cả.
Nhân-quả rất phức-tạp: Có khi nhân
nào sinh quả ấy. Có khi nhân tốt sinh quả xấu; nhân xấu sinh quả tốt. Có khi
nhân không thể sinh ra quả được vì thiếu trợ-duyên v.v…Nhân làm quả; quả làm
nhân, chuyển-biến tế-nhị và linh-động vô cùng trong lẽ tương-quan của
nó.
Thời-gian-tính thực-hiện lý
nhân-quả ấy cũng không nhất định: Có khi có nhân, có quả liền, như đánh chuông
thấy tiếng ngay. Có khi trồng nhân hiện-tại, kết-quả trong hiện-tại. Có khi
trồng nhân hiện-tại sẽ có kết-quả trong một đời hay hai, ba hoặc nhiều đời sau
này. Nhưng, dù gần hay xa, hễ có nhân, đủ duyên là có quả.
Người Phật-tử hiểu rõ đạo-lý
nhân-quả tức là hiểu rõ được sự-vật, không bị mê-lầm, không bị cám-dỗ và cố-gắng
trồng nhân tốt để hưởng quả tốt; làm theo Phật sẽ thành Phật như Phật. Thế là
người Phật-tử phải có trí-tuệ, phải có đức tự-chủ, tự-tín: Không tin thần-quyền,
bói-toán, đồng-bóng, vàng mã…, phải tích-cực sống theo lẽ sống của đạo, mới
xứng-đáng là người Phật-tử chân-chính.
20.-
NHÂN-DUYÊN
“Nhân” là thứ có năng-lực
phát-sinh. “Duyên” là những thứ giúp đỡ cho nhân kia phát-sinh,
tăng-trưởng và đưa tới kết-quả. Tỷ-dụ:Hạt lúa (nhân) nhờ có ruộng đất, cày bừa,
bón tưới…làm duyên thành cây lúa và bông lúa (quả).
Người Phật-tử hiểu lý “nhân-duyên”,
tức là hiểu rõ sự-sự, vật-vật trong vũ-trụ này có ra là do sự tác-hợp của mọi
thứ mà thành, không phải tự-nhiên có hay một người nào tạo ra. Do đó có sự
tác-thành và tác-hại lẫn nhau, nếu nó hòa-hợp hay không
hòa-hợp.
Lý nhân-duyên tạo cho người Phật-tử
một sự hiểu biết chân-chính.
21.- LUÂN-HỒI
NGHIỆP-BÁO
Theo đạo-lý nhân-quả, dù nhanh hay
chậm, tốt hay xấu…đã có nhân tất-nhiên phải có quả và, quả sinh nhân, nhân sinh
quả, luẩn-quẩn, loanh-quanh trong vòng luân-hồi
nghiệp-báo.
“Luân-hồi ” là bánh xe quay.
“Nghiệp-báo ” là những hành-động tạo-tác nơi thân, miệng, ý thế nào, một
thời-gian nhanh hay chậm nó sẽ trả lại cái kết-quả như hành-động, tạo-tác
trước.
Làm thiện tiến lên, làm ác trụt
xuống, vòng quanh trong sáu ngả: Thiên (trời), nhân (người), A-tu-la (Tàu dịch
là Phi-thiên: 1 loại quỉ-thần), địa-ngục, ngã-quỉ (quỉ đói) và súc-sinh (loài
vật) như bánh xe quay tròn không dứt, nên gọi là “luân-hồi, nghiệp-báo ”
(hay nghiệp-báo luân-hồi).
Dứt hẳn luân-hồi nghiệp-báo là một
việc khẩn-thiết đối với người Phật-tử cầu tiến trên đường giải-thoát
thực-sự.
22.- NGHIỆP, PHIỀN-NÃO, HOẶC,
CHƯỚNG
NGHIỆP
là những hành-động, tạo-tác do 3 nơi
thân, miệng, ý.
Nghiệp có ba tính: thiện,
ác và vô-ký (không thiện, không ác). Làm thiện là
“thiện-nghiệp”, làm ác là “ác-nghiệp”, không thiện, không ác là
“vô-ký-nghiệp”. Đối với những hành-động thiện, ác, vô-ký ấy gọi là
“nghiệp-nhân” và nó sẽ đem lại những kết-quả: vui, khổ, không vui, không
khổ thời gọi là “nhiệp báo, nghiệp-quả ”. Nghiệp thuộc về đời đã qua là
“túc-nghiệp”. Nghiệp trong hiện nay là “hiện-nghiệp
”.
Chỉ-định cho việc làm, nghiệp còn
có hai thứ nữa là: “Biểu-nghiệp” và “Vô-biểu-nghiệp”.
“Biểu-nghiệp” là chỉ cho những hành-động nơi thân, miệng có thể biểu-lộ,
người ta trông thấy, nghe thấy được. “Vô-biểu-nghiệp” là hành-động do nơi
ý-nghĩ, không biểu-lộ ra, người ta không thể trông thấy nhưng, nó không phải là
không kém phần tai-hại.
PHIỀN-NÃO là những thứ mê-hoặc như: tham, sân, si v.v…làm phiền
cho tâm, làm não cho thân; làm cho chúng-sinh bị ràng-buộc, buồn-phiền, đau-khổ
trong vòng sinh-tử luân-hồi.
HOẶC là tên riêng của phiền-não và có nghĩa là mê-lầm.
“Hoặc” có 3 thứ:
1.- Kiến,
tư-hoặc: Tức kiến-hoặc và
tư-hoặc. “Kiến-hoặc” là cố-chấp tư-tưởng tà-vạy (tà-kiến) không
thấu rõ chân-lý. “Tư-hoặc” là tâm suy-nghĩ, tham-đắm sự-vật, hoàn-cảnh.
Do mê-lầm về lý (kiến) và sự (tư) này làm chướng-ngại cho sự hiểu
biết.
2.-
Trần-sa-hoặc: “Trần-sa” là cát-bụi.
Cảnh-giới vô-số, chúng-sinh vô-lượng, tâm mê-lầm của chúng-sinh cũng nhiều như
cát bụi. Do tâm mê-lầm này không thấu-suốt được các pháp-môn, làm chướng-ngại
cho hạnh lợi-tha của Bồ-tát, nên gọi là
“Trần-sa-hoặc”.
3.-
Vô-minh-hoặc: Sự mê-lầm sâu-dầy và vi-tế
che-lấp chân-lý thực-tướng (tướng-trạng như-thực) của trung đạo (đạo trung-dung)
và làm cỗi-gốc cho sự sống chết.
CHƯỚNG là tên riêng của phiền-não.
Phiền-não làm chướng-ngại chính-đạo, hư-hại thiện-tâm nên gọi là
“chướng”. Chướng có ba thứ:
1.-
Phiền-não-chướng: Những thứ như: tham,
sân, si v.v…
2.-
Nghiệp-chướng: Những hành-động như giết
cha, mẹ, A-la-hán, Phật, phá hòa-hợp Tăng cùng làm 10 điều ác
v.v…
3.-
Báo-chướng: Chịu khổ-báo trong địa-ngục,
ngã-quỉ, súc-sinh v.v…
Người Phật-tử cố-gắng tạo nghiệp
thiện. Nghiệp thiện tăng thêm, phiền-não, hoặc, chướng do đó sẽ bớt dần và
tiêu-diệt.
23.-
THẾ-GIỚI
THẾ-GIỚI: Đổi dời, lưu-chuyển là
“thế ”. “Thế” chỉ cho thời-gian quá-khứ, hiện-tại và vị-lai. Có biên-giới
Đông, Tây, Nam, Bắc là “giới ” “Giới” chỉ cho không-gian, như đất-đai mà
chúng-sinh nương ở. “Thế-giới ” là chỉ chung cho không-gian và thời-gian
trong đó có ý-nghĩa liên-tục và chuyển-biến. “Thế-giới ” còn gọi là
“thế-gian ”.
Theo Phật-học, thế-gian có 2
:
1.- Hữu-tình
thế-gian: Chỉ về thân-thể của các loài
chúng-sinh, do nghiệp-nhân mà cảm chịu quả-báo chính-thức về thân-thể ấy.
Quả-báo này gọi là “chính-báo”.
2.-
Khí-thế-gian: Chỉ về đất-đai, núi sông,
nhà cửa, áo mặc, cơm ăn…những vật ấy là chỗ nương-tựa của chúng-sinh để sống.
Quả-báo này gọi là “Y-báo”.
Trong vũ-trụ này không biết bao
nhiêu là thế-giới. Một Thái-dương-hệ là một tiểu, thế-giới. Một
nghìn tiểu-thế-giới thành một tiểu-thiên thế-giới. Một nghìn
tiểu-thiên thế-giới thành trung-thiên thế-giới. Một nghìn trung-thiên
thế-giới thành đại-thiên thế-giới. Thế là tam thiên đại-thiên
thế-giới.
Thế-giới xoay-vần không ngớt. Mỗi
thế-giới đều trải qua 4 thời-kỳ: thành, trụ, hoại, không. Mỗi
thời-kỳ gồm có 20 tiểu-kiếp. Mỗi kiếp chừng 16.000.000 năm. Hai mươi tiểu-kiếp
là một trung-kiếp. Hai mươi trung-kiếp là một đại-kiếp.
Thế-giới vô-thường, người Phật-tử
phải tìm lẽ chân-thường, như-thực.
24.-
TAM-GIỚI
(Ba-cõi)
(Ba-cõi)
Tam-giới là ba cõi. Là thế-giới của phàm-phu còn phải đi,
lại trong sinh-tử. Thế-giới này chia làm ba phần:
1.- Dục-giới: Cõi có ý-tưởng về ham-muốn dâm-dục và ham muốn ăn-uống.
Cõi này gồm tất cả các loài hữu-tình trong 4 đại-châu: Đông thắng-thần-châu,
Tây-ngưu-hóa-châu, Nam-thiệm-bộ-châu, Bắc-câu-lô-châu, xuống đến Vô-gián
địa-ngục và lên đến sáu cõi trời dục (Lục Dục-thiên): Tứ-thiên-vương (Đông,
Trì-quốc-thiên, Nam, Tăng-trưởng-thiên, Tây, Quảng-mục-thiên, Bắc, Đa-văn-thiên)
Đao-lỵ-thiên, Dạ-ma-thiên, Đâu-xuất-thiên, Hóa-lạc-thiên và
Tha-hóa-tự-tại-thiên.
2.- Sắc-giới: Cõi có những hình-sắc tinh-hảo về thân-thể, cung-điện,
quốc-độ và bỏ được 2 thứ ham-muốn: dâm-dục, ăn-uống của Dục-giới. Cõi Sắc này
gọi chung là cõi Tứ-thiền (do tu 4 thiền-định mà thành): Sơ-thiền
có 3 cõi: Phạm-chúng-thiên, Phạm-phụ-thiên, Phạm-vương-thiên. Nhị-thiền
có 3 cõi: Thiểu-quang-thiên, Vô-lượng-quang-thiên, Quang-âm-thiên.
Tam-thiền có 3 cõi: Thiểu-tịnh-thiên, Vô-lượng-tịnh-thiên, Biến
tịnh-thiên. Tứ-thiền có 9 cõi: Phúc-sinh-thiên, Phúc-ái thiên,
Quảng-quả-thiên, Vô-tưởng-thiên, Vô-phiền-thiên, Vô-nhiệt-thiên,
Thiện-kiến-thiên. Thiện-hiện thiên và Sắc-cứu-cánh-thiên.
3.- Vô-sắc-giới: Cõi này không còn hình-sắc, vật-chất, thân-thể,
cung-điện, quốc-độ, chỉ dùng tâm-thức trụ vào thiền-định sâu xa, vi-diệu mà
thôi. Cõi này gọi chung là cõi Tứ-không (4 nơi trống-rỗng):
Không-vô-biên-xứ, Thức-vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ và Phi-tưởng, phi
phi-tưởng-xứ.
Ba cõi không yên, như trong nhà lửa, muốn rời bỏ ba cõi
phải quy-y Tam-bảo, tiến tu tịnh-nghiệp.
25.- TỨ-ĐẾ
(4 lẽ chân-thực)
(4 lẽ chân-thực)
TỨ-ĐẾ là bốn lẽ chân-thực rõ-ràng ai cũng có thể tự
chứng-nghiệm. Bốn lẽ chân-thực ấy là:
1.-
KHỔ-ĐẾ: Chúng-sinh chưa
thoát sự ràng-buộc trong đời, đều phải chịu những sự đau-khổ: sinh-khổ, già-khổ,
bệnh-khổ, chết-khổ, ân-ái chia-lìa khổ, cầu không được khổ, oán-ghét phải gặp
khổ, năm-ấm[48] áp-bức đầy-dẫy
khổ. Đây là sự kết-quả mà chúng-sinh gây nhân phải chịu.
2.- Tập-đế: Những nguyên-nhân hành-động, tạo-tác của chúng-sinh gây
ra khiến chúng-sinh phải chịu quả khổ trên. (Tập-đế nói về 12
nhân-duyên).
3.- Diệt-đế: Muốn hưởng quả Niết-bàn thanh-tịnh giải-thoát, cần
diệt-trừ mầm-mống phiền-não.
4.- Đạo-đế: Con đường chân-chính là nguyên-nhân hướng-dẫn
chúng-sinh đến quả-vị Niết-bàn (con đường này là “bát-chính-đạo”).
26.- THẬP-NHỊ NHÂN-DUYÊN
(12 nhân-duyên)
(12 nhân-duyên)
Theo lý nhân-duyên, sự-vật trong vũ-trụ có nguyên-nhân
phải có nhiều trợ-duyên mới đem tới kết-quả. Mười hai nhân-duyên này là sợi giây
chuyển-tiếp, tạo-thành các sự-vật:
1.- Vô-minh: Sự mê-lầm, nhận giả làm thực.
2.- Hành: Hành-động sai-lầm.
(Hai nhân-duyên này thuộc về nhân quá-khứ
).
3.- Thức: Phân-biệt sai-lầm.
5.- Lục-nhập: 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý xúc-nhập với 6 trần:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thành hình-thể và
sinh-trưởng.
6.- Xúc: Va-chạm với cảnh-vật.
7.- Thụ: Cảm-thụ sự đáp-ứng của cảnh-vật.
(Năm nhân-duyên này là quả hiện-tại
)
8.- Ái: Tham-ái (ham muốn, yêu mến).
9.- Thủ: Giữ-gìn.
10.- Hữu: Gây sự tạo-tác, sẽ có cái thân sau
này.
(3 nhân-duyên này là nghiệp-nhân hiện-tại
)
11.- Sinh: Sinh-mệnh.
12.- Lão, tử: Già và chết.
(2 nhân-duyên này là quả-báo vị-lai )
27.- LỤC-ĐỘ
(6 pháp độ-thoát)
(6 pháp độ-thoát)
LỤC-ĐỘ là 6 phương-pháp vượt qua bể sinh-tử đến
bờ Niết-bàn. Sáu pháp này là phương-châm thực-hành của các vị Bồ-tát.[52]
Sáu pháp ấy
là:
1.-
Bố-thí: Mở lòng từ-bi rộng
lớn và chân-thành đem của-cải, pháp-lợi[53] và vô úy (không sợ-hãi) giúp đỡ người
khác.
2.-
Trì-giới: Giữ-gìn những giới-luật Phật
chế ra, để ngăn-ngừa tội-lỗi. Giới có: Ngũ-giới, Sa-di-giới,
Thức-soa-ma-na-giới, Tỳ-khưu-giới, Tỳ-khưu-ni-giới,
Bồ-tát-giới.
3.-
Nhẫn-nhục: Nhẫn chịu tất cả những
hoàn-cảnh thuận, nghịch ngay nơi mình và chung-quanh mình.
4.-
Tinh-tiến: Làm cho thân-tâm tinh-thuần
thanh-tịnh và cố-gắng tiến tu trước, sau 5 độ, hướng cầu đạo giải-thoát.
(Tinh-tiến thấp hơn thì là 4 chính-cần trong 37 đạo-phẩm).
5.-
Thiền-định: Định-chỉ tâm tán-loạn và
quán-sát suy-nghĩ chân-lý. Pháp thiền-định có nhiều nhưng, tóm-tắt lại có 4
Thiền (Sơ, nhị, tam, tứ thiền) 8 Định (4 thiền và 4 định của
Vô-sắc-giới).
6.-
Trí-tuệ: Thông suốt mọi pháp, dứt trừ
mê-lầm và chứng-nhập chân-lý. Tu trí-tuệ có 3: Văn (nghe), tư (suy nghĩ) và tu
(tu-hành).
Trừ mê, diệt khổ là nguyện-vọng
duy-nhất của người Phật-tử đối với mình và người. Muốn đạt nguyện-vọng ấy, cần
thực-hiện 6 pháp “độ” này.
28.- TỨ NHIẾP-PHÁP
(4 phương-pháp nhiếp-thụ)
(4 phương-pháp nhiếp-thụ)
TỨ-NHIẾP là bốn phương-pháp
thực-hành để dắt-dẫn chúng-sinh, tin theo chính-đạo. Bốn phương-pháp ấy
là:
1.-
Bố-thí: Theo sự mong-muốn của
chúng-sinh, mình đem cho họ, do đó họ sinh tâm thân-ái, tin theo
chính-đạo
2.-
Ái-ngữ: Theo căn-tính chúng-sinh, nói ra
những lời nói hiền-lành, dịu-hòa và an-ủi họ, do đó họ sinh tâm thân-ái, tin
theo chính-đạo.
3.-
Lợi-hành: Thực-hành những việc thiện về
thân, miệng, ý, đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, do đó chúng-sinh sinh tâm
thân-ái, tin theo chính-đạo.
4.-
Đồng-sự: Tùy theo sự ưa muốn của
chúng-sinh, có khi phải phân-hình thị-hiện, sống nhịp-nhàng với đời sống của
chúng-sinh, làm lợi ích cho chúng-sinh, do đó chúng-sinh tin theo
chính-đạo.
Hạnh lợi-sinh là hạnh chính của chư
Phật. Tứ nhiếp-pháp có giá-trị cao-đẹp, biểu-lộ ý-chí cao-thượng của chư Phật,
người Phật-tử cần cố-gắng thực-hành.
29.- TỪ-BI,
BÌNH-ĐẲNG
“Từ-bi, bình-đẳng” là mục-đích, là
phương-pháp độ-sinh của đạo Phật.
TỪ-BI: có nghĩa là cho vui, cứu
khổ. Tâm từ-bi coi tất cả chúng-sinh như cha mẹ, quyến-thuộc…, nên thường nghĩ
tới sự cho vui, cứu khổ họ. Tâm từ-bi thương những người cố-chấp nhân, ngã…, làm
cho họ hiểu sự-vật là “không”, để cho họ khỏi khổ, được vui. Tâm từ-bi
thương-xót chúnh-sanh lăn-lộn trong sinh-tử…, dầu là tâm không duyên gì với họ,
chư Phật vẫn luôn luôn cho họ tự-nhiên được sự lợi-ích trong sự cho vui, cứu
khổ.
BÌNH-ĐẲNG: Đối với tất cả trong mọi
sự đều bằng nhau, không phân-biệt cao, thấp, sang, hèn.
Tâm
bình-đẳng đối với chúng-sinh không có
tư-tưởng phân-biệt kẻ oán, người thân, vì đồng chứng lý bình-đẳng của mọi pháp.
Mọi pháp đều sẵn tính bình-đẳng, nên hết thảy chúng-sinh đều bình-đẳng thành
Phật.
Người Phật-tử nhận rõ sự bình-đẳng
với tất cả pháp, nên hòa mình trong sứ-mệnh cho vui, cứu khổ không
phân-biệt.
30.- TỨ-ÂN
(Bốn ơn)
(Bốn ơn)
Người Phật-tử sống giữa thế-gian
cần phải biết ơn, trả ơn bốn bậc có ơn sau này:
1.- Ơn cha mẹ,
thầy dạy: Cha mẹ, thầy dạy là bậc
sinh-đẻ, nuôi-nấng và dạy bảo ta khôn lớn, thành người, ta phải hiếu-dưỡng,
cung-kính, tôn-trọng và ghi nhớ lời răn dạy.
2.- Ơn
xã-hội: (chúng-sinh): Xã-hội với ta có
tương-quan mật-thiết. Xã-hội giúp ta nhiều phương-diện sống còn và thành-đạt, ta
phải biết ơn và thành-thực đem năng-lực của ta giúp-đỡ mọi người, xây-dựng một
xã-hội yên-vui, lành mạnh.
3.- Ơn
quốc-gia: Quốc-gia bảo-đảm và duy-trì
cho ta được an-cư, lạc-nghiệp, ta phải có bổn-phận tin theo quốc-chế, góp phần
xây-dựng, làm trọn nghĩa-vụ công-dân.
4.- Ơn
Tam-bảo: Phật, Pháp, Tăng đem lại cho ta
những gương-mẫu và những phương-pháp biết sống trong yên vui, vợi khổ, biết nhận
lẽ chân, giả, biết đường đi đến chỗ giải-thoát chân-thực. Là Phật-tử ta phải có
lòng tin vững-chắc, thực-tâm cung-kính, cúng-dàng, hộ-trì và truyền-bá
chính-pháp.
Người Phật-tử nhận rõ bổn-phận mình
đối với bốn bậc có ơn, y theo giáo-lý Phật dạy mà trả ơn là cách trả ơn
cao-thượng.
31.- CĂN, TRẦN, THỨC, XỨ,
GIỚI
1.- CĂN tức lục (sáu)
căn: nhãn-căn, nhĩ-căn, tỵ-căn, thiệt-căn, thân-căn và ý-căn (nghĩa là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). “Căn ” có nghĩa là căn-bản, chủ-động
phát-sinh ra ngành-ngọn khác, như do mắt mà sinh ra sự nhận-thức của mắt
(nhãn-thức) v.v…
2.- TRẦN tức lục (sáu)
trần và còn gọi là lục (sáu) cảnh: sắc-trần, thanh-trần,
hương-trần, vị-trần, xúc-trần, pháp-trần (nghĩa là hình-sắc, giọng-tiếng
hương-vị, mùi-vị, va-chạm và các pháp. “Trần” nghĩa là bụi-nhơ, là hết
thảy sự-pháp của thế-gian có tính-cách nhiễm-ô chân-tính. “Cảnh” là
cảnh-sắc, là hình-tướng, là duyên dính-líu với tâm.
3.-THỨC tức lục (sáu)
thức: nhãn-thức, nhĩ-thức, tỵ-thức, thiệt-thức, thân-thức, ý-thức (nghĩa
là sự phân-biệt rõ-ràng về mắt v.v…). “Thức” là tên riêng của tâm, có
nghĩa là liễu-biệt (phân-biệt rõ-ràng); tâm đối với cảnh
phân-biệt rõ-ràng gọi là “Thức”. Ngoài 6 thức trên còn thêm thức thứ 7 là
Mạt-na-thức, Tàu dịch là “Ý” và có nghĩa là “tư-lượng” (suy-nghĩ,
so-lường) và thức thứ 8 là A-lại-da-thức (Alaya) (Tàu dịch là
Tạng-thức).
4.- XỨ tức thập nhị (mười
hai) xứ, còn gọi là thập nhị (mười hai) nhập, tức là 6 căn,
6 trần ở trên, thành 12 xứ hay 12 nhập. “Xứ” là 6 căn, 6
trần hòa-hợp, là nơi (xứ) làm cho 6 thức nhận biết sự-vật. “Nhập”
là căn và cảnh thiệp-nhập (liên-quan vào nhau) lẫn nhau mà sinh ra
“thức”.
5.- GIỚI tức thập bát (mười
tám) giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức thành 18 giới.
“Giới” có nghĩa là giới-hạn, địa-vị: mỗi mỗi thứ đều có giới-hạn, địa-vị
riêng-biệt của nó mà không lẫn-lộn.
Căn, trần, thức, xứ, giới không còn
liễu-biệt vọng-động, sẽ phát-sinh trí-tuệ.
32.- TÂM, Ý,
Ý-THỨC
TÂM có nghĩa là “tập-khởi” (tập-hợp
và phát-khởi). Ý là thức thứ 7 có nghĩa là “tư-lượng” (suy-nghĩ, so-lường).
Ý-THỨC là thức thứ 6, có nghĩa là “liễu-biệt” (phân-biệt
rõ-ràng).
Theo sự phân-tích thì tâm có 6
thứ:
1.-
Nhục-đoàn-tâm: tức là tâm-tạng, trái tim
bằng khối thịt.
2.-
Duyên-lự-tâm: tức là tâm nhận-thức,
suy-nghĩ khi đối-tượng với sự-vật.
3.-
Tư-lượng-tâm: tức là tâm suy-nghĩ,
so-lường tỷ-mỷ.
4.-
Tập-khởi-tâm: tức là tâm huân-tập các
chủng-tử (hạt-giống) và phát-khởi hiện-hành (sự-vật do hành-động
hiển-hiện).
5.-
Kiên-thực-tâm: tức là tâm-tính chân-như
thường-trụ.
6.- Tích-tụ
tinh-yếu tâm: gồm chứa tất cả nghĩa
tinh-yếu trong kinh.
Y nghĩa tinh-yếu, thanh-tịnh
tâm, ý, ý-thức, thể-nhập kiên-thực-tâm là
phương-châm rèn-luyện của Phật-tử.
33.- NGŨ-UẨN
(5 thứ tụ-họp)
(5 thứ tụ-họp)
NGŨ-UẨN còn gọi là
“ngũ-ấm” (5 thứ ngăn che chân-tính). Chữ “Uẩn” có nghĩa là tụ-họp.
“Ngũ-uẩn” là năm thứ tụ-họp lại. Hết thảy hiện-tượng (sự vật hiện có) tâm-tượng
(trạng-thái của tâm) đều do nhiều yếu-tố[54]
tụ-họp lại mà thành. Sự tụ-họp này theo Phật-học thời có năm
thứ:
1.-
Sắc-uẩn: Hình-sắc: Tức là chỉ cho những
vật-chất hữu-hình như ngũ (năm) căn: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỵ
(mũi), thiệt (lưỡi), thân và ngũ (năm) trần (cảnh): sắc, thanh,
hương, vị, xúc cùng “vô-biểu-sắc” (sắc-thái không biểu-lộ, người ta không
thấy được).
2.-
Thụ-uẩn: Cảm-thụ. Tác-dụng của
Tâm đối với cảnh khởi ra sự cảm-thụ: vui, buồn và không vui, không
buồn.
3.-
Tưởng-uẩn: Tưởng-tượng. Tác-dụng của
tâm đối với cảnh khởi ra sự tưởng-tượng sự-vật.
4.-
Hành-uẩn: Công-năng tạo-tác. Tác-dụng
của Tâm đối với cảnh khởi ra hành-động thiện, ác…(thuộc các
tâm-sở-pháp, trừ thụ, tưởng…)
5.-
Thức-uẩn: Nhận-thức, phân-biệt. Tác-dụng
của tâm đối với cảnh nhận-biết, phân-biệt rõ-ràng sự-vật.
Thức-uẩn chia làm tám loại, thường gọi là bát (tám)
thức:
-
Nhãn-thức: Mắt nhận biết
sắc-tướng.
-
Nhĩ-thức: Tai nhận biết
thanh-âm.
-
Tỵ-thức: Mũi nhận biết
hương-vị.
-
Thiệt-thức: Lưỡi nhận biết các
mùi.
-
Thân-thức: Thân nhận biết các cảm-xúc
như nóng, lạnh, ngứa-ngáy…
-
Ý-thức: Ý nhận biết, phân-biệt rõ-ràng
các sự-vật đối-tượng dù hữu-hình hay vô-hình.
-
Mạt-na-thức (Tàu dịch là Ý): Thức này
suy-nghĩ, so-lường và chấp-chặt ngã-pháp.
- A-lại-da
thức (Tàu dịch là Tạng-thức): Thức này
là kho-tàng chứa-chất các chủng-tử (hạt giống) và phát-khởi hiện-hành (sự-vật do
hành-động hiển-hiện).
Người Phật-tử tu-hành nhận rõ sự
giả-hợp của sự-vật, diệt-trừ vọng-tâm, vọng-cảnh, chuyển tám thức thành bốn
trí:
- Chuyển A-lại-da-thức thành
Đại-viên-kính-trí.
- Chuyển Mạt-na-thức thành
Bình-đẳng-tính-trí.
- Chuyển Ý-thức thành
Diệu-quán-sát-trí.
- Chuyển nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt,
thân-thức ra Thành-sở-tác-trí.
34.- NGŨ ĐÌNH TÂM
(5 pháp làm dừng vọng-tâm)
(5 pháp làm dừng vọng-tâm)
Ngũ-đình-tâm là năm pháp tu
quán-tưởng làm dừng vọng-tâm lại:
1.-
Bất-tịnh-quán: Người có nhiều tâm
tham-dục, quán-sát thân-thể và cảnh-giới là không trong-sạch, để đình-chỉ tâm
tham-dục ấy.
2.-
Từ-bi-quán: Người hay giận-tức,
quán-tưởng tất cả chúng-sinh như cha mẹ, quyến-thuộc…, sinh tâm thương-xót: cho
vui, cứu khổ, để đình-chỉ tâm giận-tức ấy.
3.-
Nhân-duyên-quán: Người nhiều ngu-si,
quán-sát lẽ tiếp-nối của mười hai nhân-duyên trong ba đời (quá-khứ, hiện-tại,
vị-lai), để đình-chỉ sự ngu-si ấy.
4.- Giới
phân-biệt-quán: Người nhiều
ngã-kiến (kiến-thức, tư-tưởng, thấy biết của cái Ta), quán-sát thân ta
hay sự-vật đều do sự giả-hợp của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức (hay
thời), sáu giới-phận ấy mà thành, cùng quán-sát mười tám giới: 6 căn, 6
trần, 6 thức đều là giả-dối, để đối-trị ngã-kiến ấy.
5.-
Sổ-tức-quán: Người tâm hay toán-loạn,
đếm hơi thở ra, vào bằng cách tinh-chuyên, để đối-trị tâm tán-loạn
ấy.
Pháp quán “Ngũ đình-tâm” là phương
thuốc chữa bịnh: tham, sân, si, tán-loạn và chấp-ngã. Người Phật-tử tu, chứng
không thể bỏ qua năm pháp này.
35.- HỮU-VI,
VÔ-VI
- HỮU-VI chỉ cho những sự-vật do nhân duyên tạo-tác mà thành như:
năm căn, năm cảnh (trần), vô-biểu-sắc v.v…Nhân-duyên
năng-sinh (năng-lực sinh ra…) là cái tạo-tác ra sự-vật sở-sinh (cái bị sinh ra).
Sự-vật sở-sinh quyết-định có sự tạo-tác của nhân-duyên ấy nên gọi là
“hữu-vi-pháp”. Hữu-vi-pháp dù trong một sát-na hay trong một kỳ-hạn nào, nó đều
trải qua 4 tướng-trạng: sinh, trụ, dị, diệt.
- VÔ-VI: chỉ cho chân-lý, có nghĩa là không còn nhân-duyên
tạo-tác, không còn 4 tướng-trạng: sinh, trụ, dị, diệt. Vô-vi còn có những tên
riêng như: Niết-bàn, Pháp-tính, Thực-tướng, Pháp-giới v.v…
Say-đắm hữu-vi phải lăn-lộn trong sinh-tử, hướng-tiến
vô-vi là Niết-bàn giải-thoát.
36.- HỮU-LẬU,
VÔ-LẬU
“LẬU” nghĩa là dò-rỉ. “Lậu” là tên riêng chỉ cho
phiền-não.
Sự-vật hàm-tàng phiền-não là “hữu-lậu”. Hết thảy sự-thể
trong thế-gian là “hữu-lậu”. Sự-thể xuất-thế-gian, xa phiền-não là
“vô-lậu”.
- HỮU-LẬU (còn tạo-tác, còn dò-rỉ) đối với chúng-sinh do
hành-động tạo-tác gây thành phiền-não, phải sa-rơi, lăn-lộn trong
sinh-tử.
- VÔ-LẬU (không còn tạo-tác, không còn dò-rỉ) đối với
chúng-sinh tu-tiến diệt-trừ phiền-não, không phải lăn-lộn trong vòng
sinh-tử.
Hữu-lậu vô-lậu nói lên những sự vẩn-đục, trong-sạch, lên
cao, xuống thấp trong từng tâm-niệm của chúng-sinh.
37.- VÔ-NGÃ,
VÔ-THƯỜNG
Sự-sự, vật-vật trong vũ-trụ đều do nhân-duyên tác-hợp,
không có gì là có tự-thể, tự-chủ độc nhất, nên Phật-học cho là “VÔ-NGÔ, nghĩa
là nó không có cái “ta” có tự-thể, tự-chủ, thường hằng bất-biến.
Sự-vật đã không có tự thể, tự-chủ, thường hằng bất-biến,
tức là nó luôn luôn biến-chuyển, tương-tục từng một niệm, từng sát-na, không
cố-định, thường còn, nên Phật-học cho là “VÔ-THƯỜNG”.
Người Phật-tử nhận-xét sự-vật hay nhận-xét bản-thân thấy
là “vô-ngã, vô-thường”, làm cho người Phật-tử không chấp đắm và cố-thủ
cho là “ta”, là “của ta”, là “thường còn”, là
“đoạn-tuyệt”, tức là dễ-dàng trong sự hỷ-xả, chóng đạt tới mục-đích
giải-thoát.
38.- VÔ-THỦY,
VÔ-CHUNG
Sự-vật đã bị chi-phối trong lý nhân-quả, thì
thời-gian-tính của nó là liên-tục.
Nhân thành quả, quả thành nhân, sinh diệt không ngừng,
nên không thể cho nó là có lúc ban đầu và có lúc sau cùng. (Đó là hướng về
tính-cách tuyệt-đối mà nói). Với thời-gian liên-tục ấy Phật-học gọi là “VÔ-THỦY
(không có lúc ban đầu), VÔ-CHUNG” (không có lúc sau cùng).
Người Phật-tử nhận rõ tính-cách vô-thủy, vô-chung của
thời-gian sẽ cố gây nhân lành để được quả tốt, mà không sợ
mất-mát.
39.- VÔ-BIÊN,
VÔ-TẬN
Đứng trên sự duyên-khởi và liên-lạc của
sự-vật do tạo-tác mà có, thời nó có tính-cách hết sức rộng lớn, không cùng-tận,
không biên-giới; vì thế-giới nhiều, chúng-sinh nhiều, tâm-hạnh nhiều…, nên
“vô-biên, vô-tận ”.
Đứng trên vô-vi-pháp là những pháp không phải có
bằng sự tạo-tác, xa-lìa hết thảy tướng sinh-diệt, không còn bị ngăn-ngại; tự-tại
viên-dung trong pháp-giới, không biên-giới, không cùng-tận… nên là “vô-biên,
vô-tận ”.
Nhận-chân sự-vật
hữu-vi, vô-vi, biết rõ lẽ rộng lớn của nó, người Phật-tử khởi lên tâm vô-thượng
rộng lớn, để sẽ chứng-nhập pháp-thân[55]
rộng lớn và giải-thoát cứu-cánh.
40.- PHÁP-GIỚI,
PHÁP-TÍNH
- PHÁP-GIỚI: Đứng về mặt sự mà nói
thời “pháp” là các pháp (sự-vật), “giới” là ranh-giới. Các pháp
đều có tự-thể nhưng, chia ra từng ranh-giới bất-đồng của mỗi pháp, nên gọi là
“pháp-giới ”.
Pháp-giới trong khung-cảnh hẹp-hòi
là chỉ cho mỗi pháp nhưng, trên phạm-vi rộng lớn, nó là tượng-trưng cho đại-khối
vạn-hữu. Do đó, Hoa-Nghiêm-gia tạm chia pháp-giới thành 10 loại: 1.- Phật
pháp-giới. 2.- Bồ-tát pháp-giới. 3.- Duyên-giác pháp-giới. 4.- Thanh-văn
pháp-giới. 5.- Thiên-pháp-giới. 6.- Nhân-pháp-giới. 7.- A-tu-la pháp-giới. 8.-
Quỉ-pháp-giới. 9.- Súc-sinh pháp-giới. 10.- Địa-ngục
pháp-giới.
Đứng về mặt lý mà nói,
pháp-giới chỉ cho lý-tính chân-như, hoặc gọi là “chân-như, pháp-tính,
thực-tế, thực-tướng”. Tới đây chữ “giới” có nghĩa là “tính”,
là tính sở-y của các pháp lại là các pháp đồng một tính, nên gọi là “pháp
giới”.
Tóm lại, PHÁP-GIỚI là
ranh-giới của các pháp và cũng là thể-tính của các pháp
- PHÁP-TÍNH: Thể-tính của các pháp
là chân-như thực-tướng. Chân-như là bản-thể của vạn pháp; ở nơi nhiễm,
nơi tịnh, nơi hữu-tình, nơi vô-tình tính nó không biến-đổi, nên gọi là
“PHÁP-TÍNH”.
Pháp-tính có nhiều tên gọi:
Chân-như, pháp-giới, pháp-tính, bất-hư-vọng-tính, bất-biến-dị-tính,
bình-đẳng-tính, ly-sinh-tính, pháp-định, pháp-trụ, thực-tế, hư-không-giới,
bất-tư-nghị-giới, vô-ngã-tính, không-tính, vô-tướng, thắng-nghĩa, thực-tướng,
tự-tính thanh-tịnh-tâm, Phật-tính, Pháp-thân, Như-lai-tạng,
Niết-bàn…
Chứng-nhập pháp-tính là mục-đích
tu-hành cứu-cánh của Phật tử.
41.- SINH-TỬ, GIẢI-THOÁT,
NIẾT-BÀN
SINH-TỬ là một hình-tướng của hết
thảy chúng-sinh do tác-động mê-lầm chiêu-cảm. Sinh-tử theo nghĩa Phật nói trong
kinh Tăng-già-tra thì “Thức diệt là tử, Thức khởi là sinh”. Có
nghĩa là: cái do 5 uẩn tụ-họp bắt đầu nẩy ra là sinh, 5 uẩn rã-rời là
tử. Sinh-tử, tử-sinh; sinh-sinh, tử-tử như vòng lửa quay tròn, tất nhiên
phải chịu nhiều sự đau-khổ.
GIẢI-THOÁT là cởi-mở sự ràng-buộc,
được tự-do, tự-tại. Giải-thoát đây là cởi-mở sự ràng-buộc của tác-động mê-lầm,
thoát khỏi khổ-quả trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô-sắc. Nghĩa là thoát-ly cảnh
sinh-hoạt bó buộc, khổ đau trong sinh-tử luân-hồi, phục-hồi lại năng-tính
tự-tại, tiến đến nơi giải-thoát Niết-bàn không sinh-diệt.
NIẾT-BÀN nghĩa là diệt-trừ hết
phiền-não ràng-buộc, vượt khỏi sinh-tử luân-hồi, chứng-nhập nơi yên-tịnh,
sáng-suốt, tự-tại.
Sinh-tử là thế-giới ràng-buộc,
đau-khổ; giải-thoát, Niết-bàn là trạng-thái tự-tại, trong-sạch, sáng-suốt,
an-vui và thường còn.
42.- NHỊ-ĐẾ.
TAM-ĐẾ
“Đế” có nghĩa là đạo-lý chân-thực
không hư-vọng.
- NHỊ-ĐẾ: Hai thứ đạo-lý
chân-thực:
1.-
Chân-đế: Thực-nghĩa của chân-lý. Là
thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhận thấy. Còn gọi là “Thắng-nghĩa-đế
”.
2.-
Tục-đế: Thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn
gọi là “Thế-đế ”.
-TAM-ĐẾ: Ba thứ đạo-lý
chân-thực:
1.-
Không-đế: Sự-vật do nhân-duyên-sinh là
giả-hợp nhưng, thể-tính chân-không không có giả-tướng của các pháp. Còn gọi là
“Chân đế ”.
2.-
Giả-đế: Thể-tính tuy không nhưng, vẫn
đầy-đủ các pháp. Còn gọi là “Tục-đế”.
3.-
Trung-đế: Trung là “trung-dung”.
Ý nói các pháp xưa, nay không ra ngoài có, không và cũng không
tức nơi có, không, dung-thông tất cả.
Tam-đế do nơi tam-quán (3 pháp
quán-sát): không-quán, giả-quán và trung-quán mà
ra.
Quán-sát sự-vật là
không-giả, là thế-đế, bình-đẳng chứng-nhập trung-đế,
chân-đế là thực-nghĩa của chân-lý.
43.- NHỊ TRÍ, TAM TRÍ, TỨ
TRÍ
“Trí” là trí-tuệ. Sự hiểu biết
trong thứ-bậc tu-chứng khác nhau, nên trí-tuệ cũng do đó mà phân-định khác
nhau.
-NHỊ TRÍ: Hai thứ
trí-tuệ:
1.-
Căn-bản-trí: Trí-tuệ không phân-biệt,
hiểu rõ các pháp là chân-như bình-đẳng. Và, do trí này phát-sinh các trí-tuệ
khác nên gọi là “căn-bản”. Căn-bản-trí còn gọi là: như-lý-trí,
vô-phân-biệt-trí, chính-thể-trí, chân-trí, thực-trí.
2.-
Hậu-đắc-trí: Trí-tuệ sau khi chứng được
thực-tính của chân-như mà hiện ra, không sinh chấp trước mê-muội là có thực-ngã,
thực-pháp. Hậu-đắc-trí còn gọi là: như-lượng-trí, hữu phân-biệt-trí,
tục-trí, biến-trí.
- TAM TRÍ: Ba thứ
trí-tuệ:
1.-
Nhất-thiết-trí: Biết rõ tướng chung của
hết thảy pháp (tướng chung tức là “không-tướng”). Trí-tuệ này là trí-tuệ của
Thanh-văn, Duyên-giác.
2.-
Đạo-chủng-trí: Biết hết thảy mọi
đạo-pháp sai biệt. Trí-tuệ này là trí-tuệ của Bồ-tát.
3.- Nhất-thiết
chủng-trí: Đây là trí-tuệ của Phật.
Trí-tuệ của Phật viên-minh, thông-suốt hết thảy mọi pháp về tổng-tướng (tướng
chung) biệt-tướng (tướng riêng), biết đạo-pháp của chư Phật, nhân-chủng của
chúng-sinh, hóa-đạo chúng-sinh dứt trừ mê-hoặc.
-TỨ TRÍ: Bốn thứ trí-tuệ. Bốn
trí-tuệ này do tu chuyển 8 Thức mà thành:
1.- Chuyển thức thứ 8 thành
Đại-viên-kính-trí. Trí này đối với hết thảy cảnh-tượng sáng-suốt, tỏ-rõ
như tấm gương sáng, các mầu sắc hiện đủ trong ấy
2.- Chuyển thức thứ 7 thành
“Bình-đẳng-tính-trí”. Quán-sát hết thảy pháp đều bình-đẳng, hiểu suốt lý
bình-đẳng vô-ngã.
3.- Chuyển thức thứ 6 thành
“Diệu-quán-sát-trí”. Quán-sát rành-rẽ những tướng của các
pháp.
4.- Chuyển nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt,
thân-thức thành “Thành-sở-tác-trí”. Trí-tuệ biến-hóa thành mọi sự, để làm
lợi-ích cho Thanh-văn, Duyên-giác và phàm-phu.
44.- GIÁC
Chữ “giác” tiếng Phạm gọi là Bồ-đề
(Bodhi). “Giác” có 2 nghĩa: Giác-sát và Giác-ngộ.
“Giác-sát” nghĩa là xét biết việc ác, không bị xâm-hại. “Giác-ngộ”
là khai-ngộ chân-lý.
Giác có: tự-giác,
giác-tha, giác-hành viên-mãn. A-la-hán[56] chứng phần tự-giác, Bồ-tát đủ tự-giác,
giác-tha, Phật đủ cả tự-giác, giác-tha, giác-hành
viên-mãn.
“Giác” còn có nhiều
danh-từ chỉ cho thứ-bậc giác-ngộ như sau:
- BẢN-GIÁC: Là
tâm-thể chúng-sinh, tự-tính thanh-tịnh, lìa bỏ hết thảy vọng-tưởng, có tính-đức
sáng-suốt hiểu biết. Bản-giác là tính-đức sẵn có như thế, không phải tu-tập mà
thành. Tức là pháp-thân Như-Lai.
- THỦY-GIÁC:
Chúng-sinh bị vô-minh phiền-não che lấp chân-tính nhưng, nhất đán do công
tu-trị, vọng-tâm hết, mới bắt đầu khởi lên tri-giác, khế-hợp với bản-giác gọi là
“Thủy-giác”.
- BẤT-GIÁC: Bất-giác
là địa-vị phàm-phu, có nghĩa là không giác-ngộ. Nhưng, bất-giác đây còn có nghĩa
là hiểu biết tương-đối, chưa biết được như thực-pháp
chân-như.
- TƯƠNG-TỰ-GIÁC:
Bồ-tát trong địa-vị Thập-trụ[57], Thập-hạnh[58], Thập hồi-hướng[59]
phát-sinh trí-tuệ tựa như giác-ngộ chân-thực, để chế-phục các
phiền-não.
- TÙY-PHẬN-GIÁC: Trí
giác-ngộ của hàng Bồ-tát Sơ-địa trở lên, tùy theo sự hiểu biết về niệm-trụ (trụ
nơi vọng-niệm) vô-niệm-trụ (trụ nơi không vọng-niệm) mà
chứng-ngộ.
- CỨU-CÁNH-GIÁC: Sự giác-ngộ cùng
cực của hàng Bồ-tát mà đại-hạnh đã viên-mãn rốt-ráo. Cứu-cánh-giác tức là quả-vị
Phật.
Trở về Bản-giác là mục-đích tối-cao
của người tu-hành Phật-giáo.
45.- TAM-THÂN
(3 thân)
(3 thân)
Chư Phật có ba thân là Pháp-thân,
Báo-thân và Ứng-hóa-thân.
1.- PHÁP-THÂN: Chân-thân của Phật,
đầy-đủ vô-lượng pháp-công-đức. Còn gọi là “tự-tính-thân” là thể-tính
chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng của hết thảy
pháp.
2.- BÁO-THÂN: Do gây
nhân công-đức nhiều đời mà hiển-thị thân Phật trang-nghiêm. Thân này còn gọi là
“Thụ-dụng-thân”: Nơi mình do tu-tập nhiều công-đức, được sắc-thân
thanh-tịnh và được hưởng pháp-lạc rộng lớn nhiệm-mầu, gọi là
“Tự-thụ-dụng-thân”. Đối với hàng Thập-địa[60] Bồ-tát, chư Phật
thị-hiện sắc-thân, hiện đại-thần-thông, chuyển pháp-luân (quay xe pháp) làm cho
các vị khỏi ngờ, được thụ-dụng pháp-lạc của
Đại-thừa, như thế gọi là “Tha-thụ-dụng-thân”.
3.- ỨNG-HÓA-THÂN: Do Phật-trí
biến-hóa nhiều thân, tùy theo căn-cơ chúng-sinh mà hóa-độ. Ứng-hiện-thân trong
Thập-địa Bồ-tát là “Thắng-ứng-thân”. Ứng-hiện-thân trong phàm-phu,
Thanh-văn, Duyên-giác là “Ứng-liệt-thân”.
Tam thân Phật là chân-như, do
công-đức từ-bi, trí-tuệ mà có.
46.- TAM-ĐỨC
(3 đức)
(3 đức)
Tùy theo tính, tướng, nhân, quả,
lợi mình, lợi người, Phật-học chia tam (ba) đức ra các loại sau
đây:
1.- Đại-Niết-bàn có ba đức, đầy-đủ
cả thường (thường hằng, không thay-đổi), lạc (an-vui chân-thực),
ngã (tự-tại không chướng-ngại), tịnh (trong-sạch thực-sự) là:
Pháp-thân, Bát-nhã và Giải-thoát.
- PHÁP-THÂN: Bản-thể của Phật, lấy
pháp-tính thường-trụ bất-diệt làm thân.
- BÁT-NHÃ: Trí-tuệ. Trí-tuệ của
Phật hiểu biết rõ-ràng trạng-thái các pháp như-thực, bình-đẳng, không thêm, bớt,
sinh, diệt.
- GIẢI-THOÁT: Xa-lìa hết thảy sự
ràng-buộc; được tự-tại.
2.- Về phần lợi mình, lợi người,
chư Phật có ba đức: Trí-đức, Đoạn-đức và Ân-đức
- TRÍ-ĐỨC: Phá hết thảy sự mê-lầm
không biết; đầy-đủ vô-thượng-giác.
- ĐOẠN-ĐỨC: Đoạn-trừ hết thảy
phiền-não; đầy-đủ vô-thượng Niết-bàn.
- ÂN-ĐỨC: Đầy-đủ tâm đại-bi, cứu
giúp hết thảy chúng-sinh.
3.- Về phần nhân-quả, chư Phật có
ba đức: Nhân-viên-đức, Quả-viên-đức và Ân-viên-đức.
- NHÂN-VIÊN-ĐỨC: Sự tu-hành trong
ba đại-kiếp viên-mãn.
- QUẢ-VIÊN-ĐỨC: Trí-đức, đoạn-đức
đều hoàn-toàn viên-mãn.
- ÂN-VIÊN-ĐỨC: Độ hết thảy
chúng-sinh được giải-thoát hoàn-toàn.
Toàn-thể ba đức trên, chứng-thực sự
giác-ngộ cao cả của chư Phật và lòng thương vô-biên của chư
Phật.
47.- BỔN-PHẬN NGƯỜI
PHẬT-TỬ
Trí-tuệ,
từ-bi và sự-thực là ba yếu-điểm
trong giáo-lý Phật-đà.
Y-cứ vào giáo-lý ấy người Phật-tử
cần phải thực-hành:
1.- Đối với
bản-thân a) Bỏ dần dục-vọng, ích-kỷ, tập
sống đời sống tự-chủ giải-thoát, rộng-rãi, phát-triển điều lợi mình, giúp người.
b) Nhận rõ sự-vật đều vô-thường, chuyển-biến theo định-luật nhân-quả, phá bỏ
tà-chấp, phát ý-chí dũng-mãnh, quyết thắng dục-vọng, hướng theo đường
chân-chính, xây-dựng một lý-tưởng vững-vàng trên đường tu-học,
giác-ngộ.
2.- Đối với
Tam-bảo: Có lòng tin chân-chính,
vững-chắc. Tinh-tiến tu-học đúng giáo-lý Phật, hộ-trì và truyền-bá chính-pháp
của Phật.
3.- Đối với
gia-đình: Hiếu-thảo cha mẹ, hòa-thuận
anh em, vợ chồng, họ-hàng thân-thích…, hướng-dẫn gia-đình trên đường thiện-chính
và xây-dựng gia-đình trên nền-tảng Phật-hóa.
4.- Đối với
xã-hội: Đem tinh-thần từ-bi bình-đẳng
phục-vụ xã-hội và xây-dựng xã-hội trên tinh-thần hiểu-biết, hòa-hợp, an-vui
chân-thực trong giáo-lý Phật-đà.
Ý-tưởng thanh-tịnh,
lời nói thanh-tịnh, hành-động thanh-tịnh, hiểu biết rốt-ráo, thực-hiện lòng
thương rộng lớn là bổn-phận người Phật-tử.
PHẦN THỨ
HAI
LỊCH-SỬ
LỊCH-SỬ
“Noi công-nghiệp trước,
xét sự việc nay,
đặt-định chương-trình xây-dựng cho mai sau”.
đặt-định chương-trình xây-dựng cho mai sau”.
A.- LỊCH-SỬ CHƯ
PHẬT
1.- THẤT PHẬT THẾ-TÔN
(7 đức Phật Thế-Tôn)
(7 đức Phật Thế-Tôn)
Phật-học chia thời-gian làm ba
thời-kỳ: quá-khứ Trang-nghiêm-kiếp, Hiện-tại Hiền-kiếp và vị-lai Tinh-tú-kiếp.
Trong mỗi thời-kỳ này đều có một nghìn đức Phật ra đời độ sinh. Danh hiệu chư
Phật rất nhiều nhưng, trong kinh thường thường nói tới danh-hiệu bảy đức Phật
Thế-Tôn (thất Phật Thế-Tôn) tức là chỉ vào ba vị cuối cùng trong kiếp quá-khứ và
bốn vị trong kiếp hiện-tại. Bảy vị ấy là:
1.- Đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassin)
con vua Bàn-đầu (Bandhumant) và bà Bàn-đầu-bà-đề (Bandhumati) thuở
quá-khứ.
2.- Đức Phật Thi-Khí (Sikhin) con
vua Minh-tướng (Aruna) và bà Quang-diệu (Pabhàvati), thuở
quá-khứ.
3.- Đức Phật Tỳ-Xá-Phù (Vessabhù)
con vua Thiện-đăng (Suppatita) và bà Xưng-giới (Yasavati) thuở
quá-khứ.
4.- Đức Phật Câu-Lưu-Lôn
(Kakusandha) con ông Tự-đắc (Aggidatta) và bà Thiện-chi (Visàkhà) kiếp
Hiện-tại.
5.- Đức Phật Câu-Na-Hàm
(Konàgamana) con ông Đại-đức (Yannadatta) và bà Thiện-thắng (Uttarà) kiếp
Hiện-tại.
6.- Đức Phật Ca-Diếp (Kassapa) con
ông Phạm-đức (Brahmadatta) và bà Tài-chủ (Dhanavati) kiếp
Hiện-tại.
7.- Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni
Giáo-chủ đạo Phật hiện-tại.
Còn vị kế-thừa đức Phật Thích-Ca
sau này là đức Phật Di-Lặc.
2.- ĐỨC PHẬT THÍCH-CA
MƯU-NI
Vị Giáo-chủ Phật-giáo hiện-tại là
đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni (Sàkya Muni).
Ngài là vị Thái-tử tên là
Tất-đạt-Đa (Siddhar-thà), con vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) và Hoàng-hậu Ma-gia
(Maya) nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) thuộc Trung-Ấn-Độ. Ngài giáng-sinh tại
vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini) vào ngày trăng tròn tháng hai Ấn-độ, tức tháng tư
âm-lịch Trung-hoa (theo phong tục nước ta làm lễ khánh-đản Ngài vào ngày mồng
tám tháng tư âm-lịch).
Ngài thông-minh, đĩnh-ngộ, tài-trí
hơn người. Ngài nhìn đời bằng con mắt từ-bi, Ngài muốn phá tan sự bất công,
mê-tín… đương thời, đem lại chân giá-trị cho con người, cho chúng-sinh thoát
khổ, được vui. Ngài bỏ sự vinh hoa, khoái-lạc ở đời đi xuất-gia tìm đạo năm Ngài
29 tuổi.
Vượt bao chướng-ngại Ngài ngộ đạo
năm 35 tuổi.
Sau khi giác-ngộ, Ngài đi khắp nơi
thuyết-pháp suốt 45 năm ròng. Vừa năm 80 tuổi Ngài nhập Niết-bàn tại rừng Sa-la,
xứ Cưu-thi-la (Kusinagara). Xá-lỵ Ngài được chia cho tám nước xây tháp
cúng-dàng.
Đó là đời Ngài. Đời Ngài vì
chúng-sinh, phục vụ cho chúng-sinh… đem lại sự an vui chân-thực cho muôn loài,
trong muôn thuở.
3.- ĐỨC PHẬT
A-DI-ĐÀ
A-Di-Đà (Amita) có nghĩa là “Vô-lượng-quang” (sáng láng
không lường) “Vô-lượng-thọ” (sống lâu không lường).
Theo kinh Bi-Hoa: Thuở quá-khứ lâu xa, cõi San-đề-lam, có
ông vua tên là Vô-Tránh-Niệm. Do ông Bảo-Hải đại-thần khuyến-tiến, nhà vua gặp
được đức Phật Bảo-Tạng. Nhà vua thành tâm cúng-dàng, quy-y, thụ-giáo và
phát-nguyện độ sinh, nên được đức Phật Bảo-Tạng thụ-ký: sau đây sẽ thành Phật
hiệu là A-Di-Đà (Amita) ở nước Cực-lạc phương Tây. Hiện-tại Ngài đang
thuyết-pháp tại đó. Và, trong một kiếp khác xa xưa, Ngài là Pháp-Tạng Tỳ-khưu
phát ra 48 đại-nguyện độ tận chúng-sinh, nơi đức Thế-Tự-Tại-Vương
Phật.
4.- ĐỨC DƯỢC-SƯ LƯU-LY-QUANG
NHƯ-LAI
Đức Dược-Sư Lưu-Ly-Quang Như-Lai, tiếng Phạm gọi là
Bệ-sát-xã-lũ-rô (Bhaisajyaguruvaidùryap-radhàsa).
Ngài là vị Giáo-chủ nước Tịnh-Lưu-Ly phương Đông. Ngài có
mười hai đại-nguyện độ sinh. Ngài có hai vị Bồ-tát phụ-tá là Nhật-Quang
biến-chiếu Bồ-tát và Nguyệt-Quang biến-chiếu Bồ-tát.
B.- LỊCH-SỬ
BỒ-TÁT
1.- DI-LẶC
BỒ-TÁT
Bồ-tát Di-Lặc, gọi theo tiếng Phạm là Mai-đê-lê (Maitrya)
dịch nghĩa là “Từ”, là tên họ, nên gọi chung là “Từ-thị”; tên là A-dật-đa
(Adjita) dịch nghĩa là Vô-Năng-Thắng. Ngài sinh trong họ Bà-la-môn, thuộc
Nam-thiên-trúc (Ấn-độ). Ngài là vị kế-thừa đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni làm Giáo-chủ
cõi Sa-bà này trong tương-lai. Hiện-tại Ngài đang thuyết-pháp trên cung trời
Đâu-suất.
2.- QUÁN-THẾ-ÂM
BỒ-TÁT
Quán-Thế-Âm là dịch nghĩa chữ A-va-lô-ky-tết-va-ra
(Avalokitesvara) của chữ Phạm và có nghĩa là vị Bồ-tát quán-sát tiếng kêu cầu
của chúng-sinh trong thế-gian, mà độ cho họ được giải-thoát. Quán-Thế-Âm, còn
gọi là Quán-Tự-Tại.
Xưa kia Ngài là con trai cả vua Vô-Tránh-Niệm tên là
Bất-Thuấn (Huyến). Ngài được thân-thừa, cúng-dàng đức Phật Bảo-Tạng và được
thụ-ký: sau này sẽ được hiệu là Quán-Thế-Âm, phụ-tá bên cạnh đức Phật A-Di-Đà ở
cõi Cực-Lạc. Và, sau nữa Ngài sẽ thành Phật hiệu là “Phổ-Quang Công-Đức
Sơn-Vương Như-Lai” ở cõi “Chúng-bảo sở tập trang-nghiêm”.
Ngài thường thị-hiện nhiều thân để hóa-độ
chúng-sinh.
3.- ĐẠI-THẾ-CHÍ
BỒ-TÁT
Đại-Thế-Chí là dịch nghĩa chữ Mô-hát-tha-na-pờ-rất-ta
(Mohasthanaprâta) của chữ Phạm và, theo kinh Quán-vô-lượng-thọ thời có nghĩa là
“dùng ánh sáng trí-tuệ soi khắp hết thảy, khiến chúng-sinh trong 3 đường ác được
giải-thoát và được năng-lực vô-thượng”.
Xưa kia Ngài là con trai thứ vua Vô-Tránh-Niệm tên là
Ni-ma. Ngài được thân-thừa, cúng-dàng đức Phật Bảo-Tạng và phát-nguyện độ sinh
mà được thụ-ký: sau này sẽ được hiệu là Đắc-Đại-Thế (Đại-Thế-Chí), phụ-tá bên
cạnh đức Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Và, sau nữa Ngài sẽ thành Phật tên hiệu là
“Thiện-Trụ Công-Đức Bảo-Vương Như-Lai” ở thế-giới
“Đại-thế”.
4.- VĂN-THÙ
BỒ-TÁT
Văn-Thù gọi đủ là Văn-Thù-Sư-Lỵ và còn gọi là Mạn-Thù-Thất-Lỵ
(Manjusri). Văn-Thù-Sư-Lỵ dịch nghĩa là “Diệu-Đức, Diệu-Âm,
Diệu-Cát-Tường”. Xưa kia, Ngài là con thứ ba vua Vô-Tránh-Niệm, tên là
Vương-Chúng Thái-tử. Do cúng-dàng đức Phật Bảo-Tạng và phát-nguyện độ sinh Ngài
được tên hiệu là Văn-Thù-Sư-Lỵ và được thụ-ký: sau đây sẽ thành Phật ở thế-giới
Thanh-tịnh Vô-cấu bảo-chỉ và tên hiệu là Phổ-Hiền Như-Lai.
Ngài là vị Bồ-tát hiểu-thấu Phật-tính, đầy đủ ba đức:
Pháp-thân, Bát-nhã, giải-thoát và Ngài đem ba đức vi-diệu ấy giác-ngộ
chúng-sinh. Ngài là vị có trí-tuệ nhiệm-mầu, hiện-thân giúp đỡ sự truyền-bá
Phật-pháp của đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni.
5.- PHỔ-HIỀN
BỒ-TÁT
Phổ-Hiền là dịch nghĩa chữ Tam-man-đa-bạt-đà-la (Samantabhadra)
của tiếng Phạm (Ấn-độ). “Phổ-Hiền” là nói về cái thể-tính rộng khắp. Xưa kia,
Ngài là con thứ tư vua Vô-Tránh-Niệm, tên là Năng-Đà-Nô. Do cúng-dàng đức Phật
Bảo-Tạng và phát-nguyện độ-sinh, Ngài được thụ-ký: sau đây làm hạnh Bồ-tát sẽ
được tên là Kim-Cương trí-tuệ quang-minh công-đức, rồi sau sẽ thành Phật ở
thế-giới Bất-Huyến phương Đông và tên hiệu cũng là Phổ-Hiền Như-Lai. Ngài là vị
Bồ-tát hóa-thân giúp đỡ sự truyền-bá Phật-pháp của đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni.
Ngài có mười đại-nguyện thừa-sự chư Phật, tự-tu và
độ-sinh.
6.-
ĐỊA-TẠNG BỒ-TÁT
Địa-Tạng là dịch nghĩa chữ Khất-soa-để-nghiệt-sa (Ksitigarbha)
của tiếng Phạm. “Địa-Tạng” có nghĩa là an-nhẫn bất động như đại-địa, suy nghĩ
sâu xa kín-đáo như kho-tàng bí-mật.
Tiền-thân của Ngài theo kinh
Địa-Tạng nói thì rất nhiều nhưng, đều do hiếu-hạnh và lòng từ-bi của Ngài mà
Ngài phát ra thệ-nguyện rộng lớn: “địa-ngục rỗng không, chúng-sinh độ hết mới
thành Phật”.
Trên cung trời Đao-Lỵ đức Phật
Thích-Ca Mưu-Ni phó-chúc cho Ngài cứu-độ chúng-sinh sau khi Ngài nhập Niết-bàn
cho đến lúc đức Phật Di-Lặc ra đời.
7.- CHUẨN-ĐỀ
BỒ-TÁT
Chuẩn-Đề (Candi) có nghĩa là “thanh-tịnh”, là lời tán-thán
“tâm-tính thanh-tịnh”. Ngài là vị Pháp-thân Bồ-tát, thường được tôn-xưng là
“Thiên-Nhân Trượng-Phu Quán-Âm”, là Thất-Câu-Chi Phật-Mẫu”. Ngài thường thuyết
Đà-la-ni cho chúng-sinh tu-tập, cho tâm-tính thanh-tịnh, để đạt tới chỗ
Đại-giác.
C.- LỊCH-SỬ
THÁNH-TĂNG, TỔ-SƯ
1.- THẬP ĐẠI ĐỆ-TỬ
(10 vị Đại đệ-tử của Phật)
(10 vị Đại đệ-tử của Phật)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni độ rất
nhiều đệ-tử nhưng, có mười vị cao-đệ như sau:
1.- Ngài Xá-Lỵ-Phất
(Sariputra): Tàu dịch là Thu-lộ-tử (con bà Thu-lộ. Bà này có con mắt sáng như
mắt chim Thu-lộ). Ngài thuộc dòng Bà-la-môn con ông Ưu-bà-đề-xá và bà Xá-lỵ.
Ngài là vị Trí-tuệ đệ
nhất.
2.- Ngài Mục-Kiền-Liên
(Maudgalyàyana): Tàu dịch là Đại-tán-tụng (hay tán-tụng). Ngài thuộc dòng
Bà-la-môn, tên cha là Câu-lỵ-ca, tên mẹ là Mục-kiền-liên. Ngài là vị
Thần-thông (du-hành tự-tại) đệ
nhất.
3.- Ngài Ca-Diếp
(Kasyapa): Tàu dịch là Ẩm-Quang (Át ánh sáng). Ngài người nước Ma-kiệt-đà, dòng
Bà-la-môn, thân phụ là Ẩm-trạch, thân-mẫu là Hương-chí, Ngài là vị đầu-đà
(Dhùta: khất-thực, khổ hạnh) đệ
nhất.
4.- Ngài A-Na-Luật
(Aniruddha): Tàu dịch là Như-ý vô tham (được như ý, không tham lam). Ngài là em
thúc-bá với Phật. Ngài là vị Thiên-nhãn (mắt trông suốt) đệ nhất.
5.- Ngài Tu-Bồ-Đề (Subhùti):
Tàu dịch là Thiện-Hiện (sự diệu-thiện hiển-hiện). Ngài con ông Trưởng-giả thành
Xá-vệ. Ngài là vị Giải-không (hiểu rõ lẽ chân-không) đệ nhất.
6.- Ngài
Phú-Lâu-Na-Di-Đa-La-Ni-Tử (Pùrna-maitràyani-putra): Tàu dịch là Mãn-từ-tử
(con bà Mãn-từ: đầy đủ lòng nhân-từ). Ngài người xứ Ba-la-nại, trước tu đạo
Tiên, đắc đạo, sau quy-y Phật là vị Thuyết-pháp đệ nhất.
7.- Ngài Ca-Chiên-Diên
(Kàtyàyana): Tàu dịch là Tiễn-thế chủng (dòng cắt tóc) dòng Bà-la-môn. Ngài quy
Phật, là vị Luận-nghị (bàn bạc) đệ
nhất.
8.- Ngài Ưu-Ba-Ly (Upàli):
Tàu dịch là Cận-thủ (giữ lấy sự thiết-cận), thuộc giai-cấp hèn-hạ. Ngài quy Phật
là vị Trì-luật (giữ luật) đệ nhất.
9.- Ngài La-Hầu-La (Rahula):
Tàu dịch là Phú-chướng (bị sự ngăn-che). Ngài là con Phật, đi xuất-gia, là vị
Mật-hạnh (giữ hạnh nhiệm-nhặt) đệ
nhất.
10.- Ngài A-Nan-Đà (Ananda):
Tàu dịch là Khánh-hỷ (vui mừng) là em thúc-bá với Phật. Ngài đi xuất-gia, là vị
Đa-văn (nghe nhiều) đệ nhất.
2.- HĂM TÁM VỊ TỔ-SƯ
ẤN-ĐỘ
Thiền-tôn Ấn-độ tương-truyền được
hai mươi tám vị như sau:
1.- Ngài
Ca-Diếp.
2.- Ngài
A-Nan-Đà.
3.- Ngài Thương-na-hòa-tu
(Sànavàsa): Tàu dịch là Ma-y (áo gai). Ngài là đệ-tử ngài A-Nan. Ngài là người ở
nước Mạt-đột-la, họ Tỳ-xá-da, thân-phụ là Lâm-Thắng, thân-mẫu là
Kiều-xa-da.
4.- Ngài Ưu-bà-cúc-đa
(Upagupta): Tàu dịch là Đại-Hộ (giúp đỡ nhiều): Ngài là đệ-tử ngài
Thương-na-hòa-tu. Ngài là người Sất-lỵ-quốc, họ Thủ-đà, thân-phụ là
Thiện-ý.
5.- Ngài Đề-đa-ca (Dhrtaka:
có nghĩa là mộng lạ): Ngài là đệ-tử ngài Ưu-bà-cúc-đa. Ngài là người ở
nước Ma-già-đà, tên là Hương-chúng.
6.- Ngài Di-già-ca: Ngài
sinh-trưởng tại miền Trung Ấn-độ. Ngài là đệ-tử ngài
Đề-đa-ca.
7.- Ngài Bà-tu-mật
(Vasumitra): Tàu dịch là Thế-Hữu (bạn của đời): Ngài là đệ-tử ngài
Di-già-ca. Ngài họ Phả-la-đọa, người Bắc-Thiên-trúc.
8.- Ngài Phật-đà-nan-đề:
Ngài là đệ-tử ngài Bà-tu-mật. Ngài họ Cồ-Đàm, sinh-trưởng tại nước
Ca-ma-la.
(***
thiếu 1 trang, phần 02- 28 Vị Tổ Sư Ấn-Độ từ số …09 cho đến số
16…)
17.- Ngài Tăng-già-nan-đề
(Samghanandi): Tàu dịch là Chúng-hà (các sông): Ngài đắc-pháp nơi ngài
La-hầu-la-đa. Ngài là vị Hoàng-tử con vua Trang-nghiêm nước
Thất-la-phiệt.
18.- Ngài Già-gia-xá-đa:
Ngài lĩnh-thụ chính-pháp nơi ngài Tăng-già-nan-đề. Ngài dòng Uất-đầu-lam-phất,
sinh-trưởng tại nước Ma-đề, thân-phụ là Thiên-cái, thân-mẫu là
Phương-Thánh.
19.- Ngài Cưu-ma-la-đa
(Kumàralabdha): Tàu dịch là Hào-đồng (cậu bé hào-hùng): Ngài đắc-pháp nơi
ngài Già-gia-xá-đa. Ngài dòng Bà-la-môn, sinh-trưởng tại nước Nguyệt
thị.
20.- Ngài Xà-dạ-đa: Ngài
đắc-pháp nơi ngài Cưu-ma-la-đa. Ngài sinh-trưởng tại Bắc
Ấn-độ.
21.- Ngài Bà-tu-bàn-đầu
(Vasubandhu): Tàu dịch là Thế-thân (thân-mật với đời): Ngài họ Tỳ-xá-khư,
sinh-trưởng tại thành La-duyệt, con ông Quang-Cái và bà
Nghiêm-Nhất.
22.- Ngài Ma-nô-la: Ngài là
con vua Thường-tự-tại nước Na-đề, dòng Sát-đế-lỵ, đắc-pháp nơi ngài
Bà-tu-bàn-đầu.
23.- Ngài Hạc-lặc-na
(Haklena): Ngài đắc-pháp nơi ngài Ma-nô-la. Ngài dòng Bà-la-môn,
sinh-trưởng tại nước Nguyệt-thị, thân-phụ là Thiên-thắng, thân-mẫu là
Kim-quang.
24.- Ngài Sư-tử tôn-giả:
Ngài đắc-pháp nơi ngài Hạc-lặc-na. Ngài dòng Bà-la-môn, sinh-trưởng tại Trung
Ấn-độ.
25.- Ngài Bà-xá-tư-đa: Ngài
đắc-pháp nơi ngài Sư-tử tôn-giả. Ngài dòng Bà-la-môn, sinh-trưởng tại nước
Kế-tân, thân-phụ là Tịnh-Hạnh, thân-mẫu là Thường-an-lạc.
26.- Ngài Bất-như-mật-đa:
Ngài đắc-pháp nơi ngài Bà-xá-tư-đa. Ngài dòng Sát-đế-lỵ, con thứ hai của vua
Nam-Ấn-độ.
27.- Ngài Bát-nhã-đa-la
(Prajnàtàra): Ngài đắc-pháp nơi ngài Bất-như-mật-đa. Ngài sinh-trưởng tại
Đông-Ấn-độ.
28.- Ngài Bồ-đề Đạt-ma
(Bodhidharma): Tàu dịch là Đạo-pháp. Ngài đắc-pháp nơi ngài
Bát-nhã-đa-la. Chính tên ngài là Bồ-đề-đa-la, thuộc dòng Sát-lỵ, con thứ ba vua
Hương-chí, Nam-Ấn-độ. Đời Lương-Vũ-Đế (Trung-hoa) ngài đem tâm-pháp truyền sang
Trung-hoa, là vị Sơ-tổ Thiền-tôn tại đây.
3.- SÁU VỊ TỔ-SƯ THIỀN-TÔN
TRUNG-HOA
Thiền-tôn truyền sang Trung-hoa, sự kế-thừa tâm-pháp có
sáu vị như sau:
1.- Ngài Bồ-đề Đạt-ma: Ngài là vị Tổ thứ 28 của
Thiền-Tôn Ấn-độ, truyền Thiền-Tôn sang Trung-hoa thời nhà Lương. Cơ-duyên hóa-độ
chưa gặp, Ngài tới chùa Thiếu-lâm ngồi quay mặt vào vách chín năm. Sau, Ngài
truyền tâm-pháp cho ngài Thần-Quang, đạo-hiệu Tuệ-Khả.
2.- Ngài Tuệ-Khả: Ngài họ Cơ, sinh-trưởng tại đất
Vũ-lao, thân-phụ Ngài tên là Tịch. Khi sinh Ngài có điềm sáng lạ, nên thân-phụ
Ngài, đặt tên cho Ngài là “Quang”. Lớn lên Ngài đi xuất-gia nơi ngài Bảo-tịnh.
Năm 33 tuổi Ngài về Hương-sơn, ngồi yên-lặng tám năm. Sau tới chùa Thiếu-lâm,
chặt tay trái cầu pháp nơi ngài Bồ-đề Đạt-ma, Ngài được truyền tâm-pháp. Cuối
cùng Ngài truyền pháp cho ngài Tăng-Sán. Năm 107 tuổi ngài viên-tịch.
3.- Ngài Tăng-sán: Ngài người miền Từ-Châu. Khi
còn là người Cư-sĩ, Ngài đến quy-y, thụ-giáo nơi ngài Tuệ-Khả. Ngài hành-đạo gặp
thời Chu-vũ-đế hủy-diệt Phật-pháp. Ngài hay qua lại núi Tư-không. Sau Ngài
truyền-pháp cho ngài Đạo-Tín và ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi (sang Việt-nam). Cuối cùng
Ngài tới núi La-phù giáo-hóa chúng-sinh, rồi đứng thẳng, chắp tay mà viên tịch
gần bên cây đại-thụ.
4.- Ngài Đạo-Tín: Thân-phụ Ngài thuộc họ Tư-mã,
gốc ở Hà-nội, sau dời về Châu-kỳ, thuộc huyện Quảng-tế, mới sinh Ngài. Lúc tuổi
nhỏ, Ngài có tính siêu-việt lạ thường, hâm-mộ Không-tôn. Đi xuất-gia Ngài được
Ngài Tăng-Sán truyền tâm-pháp cho và từ đó Ngài không ngủ, không đặt lưng xuống
chiếu suốt 60 năm. Sau Ngài truyền-pháp cho ngài Hoằng-nhẫn. Đến năm 72 tuổi,
Ngài ngồi kết gia-phu viên-tịch.
5.- Ngài Hoằng-Nhẫn: Ngài họ Chu , quán ở Châu-Kỳ, thuộc huyện Hoàng-Mai. Ngài theo hầu
ngài Đạo-Tín từ thuở nhỏ. Khi đắc pháp, Ngài về núi Phá-đầu hóa-độ chúng-sinh.
Đồ-chúng Ngài có hơn 700 người, có ngài Thần-Tú là người quán-thông nội,
ngoại-điển nhưng, không đắc-ngộ. Sau Ngài truyền-pháp cho ngài Huệ-Năng. Năm 74
tuổi Ngài ngồi mà viên-tịch.
6.- Ngài Huệ-Năng: Ngài họ Lư, thân-phụ là
Hạnh-Thao, thân-mẫu là Lý-thị, người đất Tân-châu, thuộc miền Lĩnh-nam. Cha mất
sớm, lớn lên Ngài đi kiếm củi nuôi mẹ. Tìm đủ phương-tiện để chu cấp cho mẹ,
Ngài xin mẹ tới quy-y, thụ-pháp nơi ngài Hoằng-Nhẫn. Tới đây Ngài chuyên giã
gạo. Sau được ngài Hoằng-Nhẫn truyền tâm-pháp, qua phương Nam
hoằng-dương Phật pháp.
Ngài rất đông đệ-tử, sau có hai vị kế-thừa Ngài là
Nam-Nhạc và Thanh-Nguyên. Ngài Nam-Nhạc có ngài Mã-Tổ, ngài
Mã-Tổ có ngài Bách-Trượng, ngài Bách-Trượng có ba vị:
Hoàng-Nghiệt, Linh-Hựu, Vô-ngôn-thông (sang Việt-nam). Ngài
Hoàng-Nghiệt có ngài Nghĩa-Huyền lập phái Lâm-Tế. Ngài
Linh-Hựu có ngài Huệ-Tịch lập phái Quy-ngưỡng. Còn Ngài
Thanh-Nguyên có ngài Thạch-Đầu. Từ ngài Thạch-đầu trở xuống có
ngài Bản-Tịch lập phái Tào-động, ngài Văn-Yển lập phái
Vân-Môn và ngài Văn-Ích lập phái Pháp-nhãn. Do năm phái
trên, Thiền-tôn truyền bá khắp trong và ngoài nước
Trung-hoa.
4.- NGÀI
TỲ-NI-ĐA-LƯU-CHI
Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi (Vinitaruci: Trung-hoa dịch là
Diệt-Hỷ) là Sơ-tổ Thiền-tôn Việt-nam. Ngài là người Nam-Ấn-độ, sang Tây Ấn-độ
khảo-cứu Phật-giáo. Vì cơ-duyên chưa gặp, Ngài qua Trường-an (Trung-hoa) vào năm
574, là lúc Phật-giáo Trung-hoa đang bị Chu-Vũ-Đế phá-hoại. Ngài qua đất Nghiệp
(thuộc tỉnh Hồ-nam bây giờ) Ngài gặp Ngài Tăng-Sán ở núi Tư-không và được Ngài
truyền tâm-ấn. Sau đó, Ngài đến Quảng-châu trụ tại chùa Chế-chỉ. Năm 580 Ngài
sang Việt-nam ở chùa Pháp-vân (tức làng Văn-giáp, huyện Thượng-phúc, tỉnh
Hà-đông bây giờ). Sau Ngài truyền tâm-ấn cho Ngài Pháp-Hiền rồi
viên-tịch.
5.- NGÀI
VÔ-NGÔN-THÔNG
Ngài Vô-Ngôn-Thông là vị đứng đầu phái Thiền-tôn thứ hai
truyền vào Việt-nam. Ngài họ Trịnh, sinh-trưởng tại Quảng-châu (Trung-hoa). Ngài
xuất-gia tại chùa Song-Lâm đất Vũ-châu (thuộc Chiết-giang bây giờ). Tính Ngài
điềm-đạm ít nói nhưng, thông hiểu sự-lý, nên người đời mới gọi Ngài là
Vô-ngôn-thông. Ngài đắc-pháp nơi Ngài Bách-Trượng (phái Nam-nhạc Trung-hoa), rồi
về trụ-trì chùa An-hòa (Quảng châu). Năm 820 Ngài sang Việt-nam trụ-trì chùa
Kiến-sơ, làng Phù-Đổng, tỉnh Bắc-ninh. Sau Ngài truyền-pháp cho ngài Cảm-thành.
Năm 826, không bệnh-tật gì Ngài tắm rửa rồi viên-tịch.
6.- NGÀI KHUÔNG-VIỆT
THÁI-SƯ
Ngài họ Ngô, pháp-hiệu là Chân-Lưu, quê ở làng Cát-lỵ,
trụ-trì chùa Phật-Đà. Ngài thụ-giới nơi ngài Vân-phong Thiền-sư chùa Khai-quốc
Ngài quán-thông kinh sách. Năm 40 tuổi vua Đinh-Tiên-Hoàng vời Ngài vào hỏi đạo,
Ngài ứng-đối tinh tường, vua rất mến phục phong cho Ngài làm Tăng-Thống. Năm 971
nhà vua lại phong cho Ngài là Khuông-Việt Thái-Sư. Đến đời Lê-đại-hành việc
quân-quốc trong, ngoài đều thỉnh-vấn Ngài cả. Sau Ngài cáo về núi Du-hý mở
trường dạy học. Học-đồ của Ngài rất đông nhưng, có ngài Đa-Bảo là đắc-truyền
tâm-pháp. Năm Ngài 81 tuổi thì viên-tịch.
7.- NGÀI PHÁP-THUẬN
THIỀN-SƯ
Ngài dòng họ Đỗ, xuất-gia từ nhỏ nơi ngài Long-thụ
Phù-trì thiền-sư. Ngài quán-thông kinh sách, nên triều Tiền-Lê thường mời Ngài
vào bàn về các việc chính-trị và ngoại giao. Năm 986, nhà vua yêu cầu Ngài
cải-trang làm lái đò, chèo đò cho sứ Tàu là Lý-giác. Ngài ứng đối như lưu, sứ
Tàu hết sức kính-phục. Năm 990 Tây lịch không bệnh gì mà tịch, Ngài thọ 76
tuổi.
8.- NGÀI VẠN-HẠNH
THIỀN-SƯ
Ngài dòng họ Nguyễn, người làng Cổ-pháp (nay là làng
Đình-bảng, phủ Từ-sơn, Bắc-ninh). Tuổi nhỏ Ngài đã thông hiểu hết kinh-sách
Tam-giáo: Nho, Đạo, Thích. Ngài xuất gia năm 20 tuổi nơi ngài Định-Tuệ thiền-sư
và theo học ngài Thuyền-Ông đạo-giả. Ngài chuyên tập pháp Tổng-trì Tam-ma-địa
(Mật-tôn), nói sao đúng thế. Ngài giúp nhiều việc lợi-ích trong các triều đương
thời. Năm 1018 Tây-lịch Ngài viên-tịch.
9.- NGÀI
THẢO-ĐƯỜNG
Năm 1069 vua Lý-Thánh-Tôn đi đánh Chiêm-thành đem nhiều
tù-binh về nước, trong số đó bắt lầm một vị Thiền-sư tên là
Thảo-Đường.
Ngài Thảo-Đường là đệ-tử của ngài Tuyết-Đậu Minh-Giác,
thuộc hạt Minh-châu nước Trung-Hoa. Vua Lý-Thánh-Tôn phong Ngài là Quốc-sư và
thỉnh Ngài khai-giảng tại chùa Khai-quốc trong thành Thăng-long, đệ-tử tới học
đạo rất đông. Sau Ngài truyền tâm-pháp cho vua Lý-Thánh-Tôn. Thế là, Ngài là vị
đứng đầu phái Thiền-tôn thứ ba tại Việt-Nam.
10.- TRÚC-LÂM TAM TỔ
(3 vị Tổ phái Trúc-Lâm)
(3 vị Tổ phái Trúc-Lâm)
Phật-giáo đời Trần đặc-biệt thành-lập thêm một phái tại
Yên-tử-sơn, có ba vị giữ cương-lĩnh truyền-thừa chính-pháp của Phật, mà hậu-học
thường gọi là “Trúc-Lâm Tam Tổ” (3 vị Tổ phái Trúc-Lâm: Trúc-Lâm là tôn-hiệu của
vua Trần-Nhân-Tôn).
1.- Vua TRẦN-NHÂN-TÔN: Ngài là Thái-tử Khâm, theo
mệnh vua cha lên ngôi năm 1278 Tây-lịch, lấy hiệu là Nhân-Tôn. Năm 1293 Ngài
truyền ngôi cho con là Anh-Tôn rồi vào núi Yên-tử tu, lấy hiệu là “Hương-Vân
Đại-đầu-đà”. Sau Ngài truyền pháp cho ngài Pháp-Loa, rồi Ngài ngồi chắp tay mà
hóa. Năm ấy Ngài 51 tuổi (năm 1308 Tây-lịch). Sau khi viên-tịch vua Anh-Tôn dâng
tôn-hiệu là “Đại-Thánh Trần-Triều Trúc-Lâm Đầu-Đà Tĩnh Tuệ Giác-hoàng
Điều-Ngự Tổ-Phật”.
2.- PHÁP-LOA TÔN-SƯ: Ngài họ Đồng, tên là
Kiên-Cương, người làng Cửu-la, phủ Nam-sách (nay là làng Tiền-trung, tổng Vũ-la,
Hải-dương). Năm 21 tuổi Ngài đi xuất-gia theo Ngài Điều-Ngự (Vua Trần-Nhân-Tôn).
Ngài tinh-thông kinh-điển. Ngài Điều-Ngự truyền giới-pháp cho Ngài và đặt hiệu
là Pháp-Loa. Sau Ngài truyền-pháp cho Ngài Huyền-Quang. Năm 47 tuổi Ngài dặn-dò
đệ-tử rồi viên-tịch.
3.- HUYỀN-QUANG TÔN-SƯ: Ngài họ Lý, người làng
Vạn-tải (thuộc tỉnh Bắc-giang bây giờ). Ngài bẩm-tính thông-minh, hai mươi tuổi
đỗ Trạng-Nguyên. Ngài chán thế-tình, không ra làm quan, đi xuất-gia, thụ-giáo
nơi Ngài Pháp-Loa. Sau Ngài được Ngài Pháp-Loa truyền tâm-ấn. Ngoài 60 tuổi Ngài
viên-tịch.
11.- NGÀI
NGUYÊN-THIỀU
Ngài Nguyên-Thiều là vị Tổ truyền phái Lâm-Tế đầu tiên
tại Trung-Việt vào khoảng năm 1665 Tây-lịch. Ngài dòng họ Tạ, quê ở Trình-hương,
Triều-châu Quảng-đông, Trung-hoa. Ngài xuất-gia năm 19 tuổi tại chùa Báo-Tư và
thụ-giới nơi Ngài Bổn-Khao Khoán-Viên Hòa-thượng. Ngài lập chùa Thập-Tháp Di-Đà
ở phủ Quy-ninh (Bình-định), mở trường dạy học. Sau Ngài ra lập chùa Hà-trung,
(Thuận-hóa) rồi lên Xuân-kinh (Huế) lập chùa Quốc-Ân và dựng tháp Phổ-Đồng. Ngài
mở đàn giới tại chùa Linh-Mụ.
Khi về già, một hôm Ngài gọi môn-đồ lại dặn dò các việc,
nói bài kệ, rồi viên-tịch.
12.- NGÀI
LIỄU-QUÁN
Ngài Liễu-Quán là người có công lớn trong việc khai-hóa
Phật-pháp thuộc phái Lâm-Tế tại Trung-Việt. Ngài dòng họ Lê, húy Thiệt-Diệu,
làng Bạch-Mã, huyện Đồng-xuân, tỉnh Phú-Yên. Ngài thụ-giáo với Ngài Tế-Viên
Hòa-thượng chùa Hội-Tôn từ năm 6 tuổi. Sau Ngài ra học ngài Giác-Phong chùa
Báo-Quốc, Thuận-Hóa. Ngài thụ Sa-Di nơi ngài Thạch-Liêm, thụ Tỳ-Khưu nơi ngài
Từ-Lâm. Ngài đắc-ngộ nơi ngài Tử-Dung. Ngài truyền đạo hai, ba nơi và dự nhiều
giới đàn. Cuối năm Nhâm-Tuất (1742), ngài tự cầm bút viết bài kệ từ-biệt đồ-đệ,
rồi viên-tịch.
D.- LỊCH-SỬ
PHẬT-GIÁO
1.- PHẬT-GIÁO
ẤN-ĐỘ
Phật-giáo Ấn-Độ do đức Phật
Thích-Ca Mưu-Ni sáng-lập và truyền xuống được 28 vị Tổ-Sư.
Sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn
đặc-biệt có bốn lần kết-tập Tam-Tạng:
-Lần thứ nhứt, sau Phật nhập-diệt
ba tháng, kết-tập tại hang Tất-ba-la, ngoại thành
Vương-xá.
- Lần thứ hai, sau Phật nhập-diệt
chừng 100 năm, kết-tập tại vườn Ba-lỵ-ca thành Tỳ-xá-ly.
- Lần thứ ba, sau Phật nhập-diệt
trên 200 năm, kết-tập tại thành Ba-tra-lỵ-Phất.
- Lần thứ tư, sau Phật nhập-diệt
trên 400 năm, kết-tập tại thành Ca-thấp-di-la.
Nhờ có những lần kết-tập trên,
Phật-giáo Ấn-độ phát-triển mạnh tại trong nước và truyền-bá ra ngoài nước. Trong
thời-kỳ Phật-giáo tiến-triển, Bà-la-môn-giáo bị lu mờ; mãi đến thế-kỷ thứ tư
Tây-lịch Tôn-giáo ấy mới tạm phục-hưng. Nhưng, đến thế-kỷ thứ 8 Tây-lịch nhờ có
ông Thương-yết-la-a-sà-lê (Sànkar-àcàrya) khéo soạn-thích kinh sách
Bà-la-môn-giáo lại mà Tôn-giáo ấy được phục-hưng thực sự. Do đó, Phật-giáo suy
dần. Đến thế-kỷ thứ 12, Phật-giáo bị Hồi-giáo phá-hoại hoàn-toàn. Sang thế-kỷ 19
Tây-lịch, Phật-giáo tại đây mới phục-hồi, thành-lập Hội Ma-ha Bồ-Đề, hoạt-động
khắp nơi. Hiện nay Phật-giáo Ấn-độ đã tiến-triển khả-quan.
2.- PHẬT-GIÁO
TRUNG-HOA
Ảnh-hưởng của đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni tại Trung-Hoa đã
có ngay trong thời đức Khổng-Tử. Nhưng, đến Tây-lịch 67, tức đời vua Minh-Đế nhà
Đông-Hán, ngài Ma-Đằng và ngài Trúc-Pháp-Lan (Ấn-độ) chính-thức đem Phật-pháp
truyền-bá vào Trung-Hoa. Từ đó sự tiến-triển mỗi ngày mỗi tăng, có nhiều vị
Chân-tăng phiên-dịch Tam-tạng bằng Phạm-văn ra Hán-văn. Đời Lương-Vũ-Đế lại có
ngài Bồ-Đề Đạt-Ma sang truyền-bá Thiền-tôn, sau thành-lập ra năm phái, lan rộng
khắp trong nước và truyền cả sang các nước lân-cận.
Trong sự phát-triển mạnh-mẽ của Phật-giáo, các đạo khác
như Khổng, Lão không khỏi không có sự hiềm-khích. Do đó, Phật-giáo bị
Ngụy-Vũ-Đế, Chu-Vũ-Đế, Đường-Vũ-Tôn và Chu-Thế-Tôn phá-hủy Phật-giáo đến cực-độ,
có khi tưởng là tuyệt-diệt.
Trải qua những tai-nạn trên Phật-giáo tạm phục hưng, sau
lại tiếp-diễn ảnh-hưởng Tây-phương và chiến-tranh, Phật-giáo tại đây không tiến
hơn được, dần dần suy yếu. Từ năm 1911 làn sóng cách-mệnh dân-quốc nổi lên, các
ngài Đế-Nhàn, Thái-Hư v.v… đứng lên chấn-hưng Phật-giáo, coi đã có vẻ khả-quan.
Nhưng, vì cuộc nội-chiến, tới nay Phật giáo hình như biến-sắc và kém
phát-triển.
3.- PHẬT-GIÁO
VIỆT-NAM
Việt-Nam có ảnh-hưởng Phật-giáo kể từ cuối thế-kỷ thứ hai
Tây-lịch. Nhưng, đến năm 580 Tây-lịch, ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi (Vinitaruci)
chính-thức đem Thiền-tôn truyền vào Việt-Nam. Năm 820 Tây-lịch ngài
Vô-Ngôn-Thông lại đem Thiền-tôn truyền vào. Năm 1069 Tây-lịch Ngài Thảo-Đường
cũng truyền phái Thiền-tôn vào. Ba phái trên đây đều phát-triển sâu rộng giáo-lý
Phật-giáo trong dân-chúng Việt-Nam. Kể từ đời Đinh (968-980), Lê (980-1009)
Phật-giáo đã có hệ thống tổ-chức hẳn-hoi và đã có nhiều vị Tăng-tài như
Khuông-Việt Thái-Sư. Pháp-Thuận thiền-sư v.v…mở rộng đạo-giáo, giúp nhiều việc
lợi-ích cho quốc-dân.
Sang đời Lý (1010-1225) Phật-giáo cực-thịnh, có các vị
Tăng-tài như ngài Vạn-Hạnh Thiền-Sư v.v…Đến đời Trần (1225-1400) Phật-giáo vẫn
thịnh. Trong đời này có vua Trần-Nhân-Tôn đi tu tại Yên-tử-sơn thành phái
Trúc-Lâm, có ngài Pháp-Loa và Huyền-Quang thừa-kế.
Từ nhà Hồ (1400…) trở đi Phật-giáo thường bị Khổng-giáo
chen lấn và gặp nhiều sự chính-biến, nội-chiến trong nước, nên không thể tiến
mạnh được, mặc dầu cũng có nhiều vị Tăng tài-đức. Trong thời Nam-Bắc phân-tranh
(1528-1802) tại Bắc có thêm phái Tào-động tại chùa Hòa-giai, phái Liên-Tôn tại
chùa Liên-Phái Hà-nội; tại Trung có phái Nguyên-Thiều và sau có phái Liễu-Quán
thừa-kế.
Thời Nguyễn (1802…) trở đi Phật-giáo không có chi đặc-sắc
và thuần-túy, lại thêm ảnh-hưởng sự độ-hộ của Pháp, không tiến hơn được. Nhưng,
năm 1931 có Hội Nam-kỳ nghiên-cứu Phật-học, Hội Lưỡng-xuyên Phật-học, năm 1932
có An-nam Phật-học-hội, năm 1934 có Bắc-kỳ Phật-giáo-hội của Nam, Trung, Bắc ra
đời, coi cũng có phần chấn-hưng.
Tiếp đến thế-chiến thứ hai, Phật-giáo ít tiến. Rồi từ
1945 trở đi, lâm vào cuộc chiến-tranh, Phật-giáo không tiến được. Từ năm 1950
Phật-giáo Bắc, Trung ,
Nam bắt đầu
phục-hoạt. Năm 1951 thành-lập Tổng-Hội Phật-Giáo Việt-Nam, tại Huế. Năm 1952
thành-lập Giáo-Hội Tăng-già toàn quốc tại Hà-Nội. Từ đấy tới nay kể cũng có phần
hoạt-động nhưng, vẫn không tiến mạnh được, vì có nhiều
trở-ngại.
4.- PHẬT-GIÁO
THẾ-GIỚI
Từ sau khi kết-thúc hội-nghị kết-tập Tam-tạng lần thứ ba,
Phật-giáo không những bành-trướng trong Ấn-Độ mà còn lan rộng ra khắp các nước.
Tới nay khắp 5 châu đều có hình bóng Phật-giáo, như: Ấn-độ, Népal, Tích-lan,
Hồi-quốc, A-phú-hãn, Tây-tạng, Mông-cổ, Assam, Bhutan, Sikkhim, Mãn-châu,
Trung-Hoa, Triều-tiên, Nhật-Bản, Việt-Nam, Miến-Điện, Thái-Lan, Ai-lao,
Cao-Miên, Mã-lai, Tân-gia-ba, Phi-luật-tân, Nam-dương, Phi-châu, Úc-châu,
Mỹ-châu, Anh, Pháp, Đức, Ý, Phần-lan, Đan-mạch, Bỉ, Áo, Thụy-điển, Nga,
Hung-gia-lợi, Tiệp-khắc, Hạ uy-di v.v…
Đặc-biệt ngày 6 tháng 6 năm 1950 bản
Hiến-chương của Phật-giáo thế-giới được công-bố trong một Hội-nghị Phật-giáo
quốc-tế họp tại Tích-Lan. Thế là, Phật-giáo thế-giới thành-hình từ-đấy; lá cờ 5
màu tượng-trưng cho hào-quang của Phật tung bay khắp nơi; trên 600 triệu tín-đồ
Phật-giáo đang tập-hợp dưới cờ để truyền-bá chính-pháp của Ngài. Và, tới nay, 5
lần hội-nghị tại: Tích-Lan, Nhật-Bản, Miến điện, Népal và Thái-Lan hiện nay
(1958) đã tượng-trưng cho tinh-thần đoàn-kết và sự hoạt-động không ngừng của
nó.
PHẦN THỨ BA
NGHI-THỨC TỤNG-NIỆM
NGHI-THỨC TỤNG-NIỆM
“Nhất-tâm bất loạn là phương-pháp duy-nhất trong việc
tụng-niệm”
KHÓA LỄ
KINH BÁT ĐẠI-NHÂN-GIÁC
KINH BÁT ĐẠI-NHÂN-GIÁC
VÀ
TÂM-KINH
BÁT-NHÃ
KINH LỄ SÁU
PHƯƠNG
KHÓA LỄ
KINH BÁT ĐẠI-NHÂN-GIÁC [61]
KINH BÁT ĐẠI-NHÂN-GIÁC [61]
(Thắp đèn, đốt hương xong,
toàn-thể đứng ngay-ngắn, chắp tay ngang ngực mật-niệm
):
TỊNH PHÁP-GIỚI
CHÂN-NGÔN:
Án lam sa-ha (3
lượt)
TỊNH TAM NGHIỆP
CHÂN-NGÔN:
Án sa phạ bà phạ, truật-đà, sa phạ,
đạt-ma sa phạ, bà phạ, truật độ hám (3 lượt)
(Người chủ-lễ thắp 3 nén hương,
quỳ thẳng, cầm hương ngang trán, niệm lớn bài dâng hương
):
Nguyện đem lòng
thành-kính,
Gửi theo đám mây
hương;
Phảng-phất khắp mười
phương,
Cúng-dàng ngôi
Tam-bảo.
Thề trọn đời giữ
đạo,
Theo tự-tính làm
lành;
Cùng pháp-giới
chúng-sinh,
Cầu Phật-từ
gia-hộ:
Tâm Bồ-đề
kiên-cố,
Xa bể khổ, nguồn
mê,
Chóng quay về bờ
Giác.
(Vái 1 vái rồi đọc tiếp bài
kỳ-nguyện ):
Đệ-tử chúng con nguyện ngôi Tam-bảo thường-trụ trong mười
phương đức Bản-Sư Thích-Ca Mưu-Ni-Phật, đức Tiếp-Dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, cùng
hết thảy Thánh-Hiền, từ-bi gia-hộ cho đệ-tử chúng con: tâm Bồ-đề bền-chắc,
tự-giác, giác tha, giác-hành viên-mãn, cùng chúng-sinh trong pháp-giới,
tội-chướng tiêu-trừ, căn lành tăng-trưởng, một thời đồng chứng Vô-thượng
chính-đẳng, chính-giác.
(Vái 1 vái rồi đứng dậy cắm hương lên lư, Người chủ lễ
chắp tay đứng thẳng và đọc bài tán Phật):
Đấng Pháp-vương
vô-thượng,
Ba cõi chẳng ai
bằng.
Thầy dạy khắp trời,
người,
Quy-y tròn một
niệm,
Xưng-dương cùng
tán-thán,
Ức kiếp không cùng tận.
(Người chủ lễ vái một vái rồi
xướng ):
Nam-mô tận-hư-không, biến
pháp-giới, quá, hiện, vị-lai chư Phật, Tôn-pháp, Hiền-Thánh-tăng thường-trụ
Tam-Bảo (Lễ 1 lễ )
Nam-mô Sa-bà Giáo-chủ, đại-từ,
đại-bi, Bản-Sư Thích-Ca Mưu-Ni Phật, đương-lai hạ-sinh Di-Lặc Tôn Phật. (Lễ 1
lễ )
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới,
đại-từ, đại-bi A-Di-Đà Phật, Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Đại-Thế-Chí Bồ-tát, Thanh-tịnh
đại-hải-chúng Bồ-tát.
(Lễ 1 lễ, rồi quỳ thẳng đọc bài
sám-hối ):
Đệ-tử kính lạy đức Phật Thích-Ca,
Phật A-Di-Đà, thập phương chư Phật, vô-thượng Phật-pháp, cùng Thánh-Hiền-Tăng;
đệ-tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp-chướng nặng-nề, tham, giận kiêu-căng, si-mê
lầm-lạc, ngày nay nhờ Phật, biết sự lỗi-lầm, thành tâm sám-hối, thề tránh điều
dữ, nguyện làm điều lành, ngửa trông ơn Phật, từ-bi gia-hộ: thân không tật-bệnh,
tâm không phiền-não, hằng ngày an-vui tu-tập, phép Phật nhiệm-mầu, để mau ra
khỏi luân-hồi, minh-tâm kiến-tính, trí-tuệ sáng-suốt, thần-thông tự-tại, đặng
cứu-độ các bậc tôn-trưởng, cha mẹ anh em, thân bằng quyến-thuộc, cùng tất cả
chúng-sinh, đồng thành Phật-đạo.
(Đứng dậy vái 3 vái rồi ngồi
xuống tụng ):
Lư hương vừa
đốt,
Cõi pháp thơm
lây,
Chư Phật bốn biển đều xa
hay.
Thấu tâm thành
này,
Chư Phật hiện thân
ngay.
Nam-mô Hương-vân-cái Bồ-tát,
Ma-ha-tát. (3 lượt )
KHAI KINH KỆ:
Pháp Phật cao-siêu rất nhiệm
mầu,
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay
đâu.
Con nay nghe, thấy xin vâng
giữ,
Chân-nghĩa Như-Lai hiểu thật
sâu.
Nam-mô Bản-Sư Thích-Ca Mưu-Ni Phật.
(3 lượt)
Một là biết rằng:
Thế-gian vô-thường, đất-đai không chắc, bốn đại[66] khổ, không, năm ấm
vô-ngã;[67] sinh, diệt đổi khác, dối-trá không chủ. Tâm là nguồn ác,
hình là chằm tội.
Hai là biết rằng:
Muốn nhiều là khổ. Sống chết nhọc-nhằn, từ tham-dục khởi. Ít muốn, vô-vi,
thân-tâm tự-tại.
Ba là biết rằng: Tâm
không chán, đủ; chỉ tham-cầu nhiều, tăng thêm tội ác. Bồ-tát không thế, thường
niệm “biết đủ”, an bần giữ đạo, chăm tu trí-tuệ, sự-nghiệp của
mình.
Bốn là biết rằng:
Biếng lười, trụy-lạc. Thường hành tinh-tiến, phá phiền-não ác, dẹp hết bốn ma[68], ra
ngục Ấm, Giới.[69]
Năm là biết rằng:
Ngu-si sinh-tử. Bồ-tát thường nghĩ: học rộng, nghe nhiều, tăng thêm trí-tuệ,
thành-tựu biện-tài, giáo-hóa hết thảy, đều được sướng vui.
Sáu là biết rằng:
Nghèo khổ oán nhiều, kết nhiều duyên ác. Bồ-tát bố-thí, oán, thân bình-đẳng;
không nghĩ ác cũ, không ghét ác-nhân.
Bảy là biết rõ
lỗi-lầm năm dục[70]. Tuy là người tục, không nhiễm vui đời; luôn luôn nghĩ
đến y, bát, pháp-khí,[71] chí-nguyện xuất-gia, giữ đạo trong-sạch, Phạm-hạnh
cao-xa, lành thương hết thảy.
Tám là biết rằng:
Sống chết nồng-nàn, khổ-não vô-lượng, phát tâm Đại-thừa, cứu khắp hết thảy;
nguyện thay chúng-sinh, chịu nhiều khổ-não, khiến mọi chúng-sinh, được vui
rốt-ráo.
Tám sự như thế, là
điều giác-ngộ của các đức Phật, Bồ-tát đại-nhân. Các đại-nhân ấy tinh-tiến
hành-đạo, từ-bi tu-tuệ, ngồi thuyền Pháp-thân, đến bờ Niết-bàn. Rồi thì các Ngài
trở về sinh-tử, độ thoát chúng-sinh, đem tám sự trước, chỉ dẫn hết thảy, khiến
mọi chúng-sinh, biết khổ sinh-tử, xa lìa năm dục, tu tâm
Thánh-đạo.
Nếu đệ-tử Phật, tụng
tám sự ấy, trong từng niệm niệm, diệt vô-lượng tội, tiến tới Bồ-đề, chóng thành
Chính-giác, dứt hẳn sinh-tử, ở nơi sướng vui.
Khi Ngài Quán-Tự-tại
Bồ-tát,[73] thực-hành sâu-xa pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, Ngài soi
thấy năm uẩn[74] đều không, qua hết thảy khổ-ách.
Này ông Xá-Lỵ-Tử! Sắc
chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế
!
Này ông Xá-Lỵ-Tử!
Tướng Không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không
thêm, không bớt. Cho nên, trong Chân-không, không có Sắc, không có Thụ, Tưởng,
Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý[75]; không có sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp[76]; không có nhãn-giới, cho đến không có
ý-thức giới[77]; không có vô-minh, cũng không có cái hết vô-minh, cho
đến không có già, chết cũng không có cái hết già, chết[78]; không có khổ,
tập, diệt, đạo[79]; không có trí-tuệ cũng không có chứng-đắc, vì không có
chỗ chứng-đắc!
Bồ-tát y theo Bát-nhã
ba-la-mật-đa, nên tâm không ngăn-ngại. Vì không ngăn-ngại nên không sợ-hãi, xa
hẳn mộng-tưởng điên-đảo, đạt tới cứu-cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y
vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo-quả Vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.
Cho nên biết Bát-nhã
ba-la-mật-đa là đại thần-chú, là đại-minh-chú, là vô-thượng-chú, là
vô-đẳng-đẳng-chú, trừ được hết thảy khổ, chân-thực không
hư
Vì vậy, nói ra bài
chú Bát-nhã ba-la-mật-đa. Liền nói bài chú ấy rằng: “Yết-đế, Yết-đế. Ba-la
yết-đế. Ba-la-tăng yết-đế. Bồ-đề tát-bà-ha”[80].
Đại-từ, đại-bi thương
chúng-sinh,
Đại-hỷ, đại-xả cứu muôn
loài.
Tướng tốt sáng ngời
tự-trang-nghiêm,
Đệ-tử chí tâm quy-mệnh
lễ.
Nam-mô Sa-bà Giáo-chủ Bản-Sư
Thích-Ca Mưu-Ni Phật (3 lượt).
Nam-mô Thích-Ca Mưu-Ni Phật (10
lượt, hoặc 1 tràng hay đi nhiễu tùy ý).
Nam-mô Văn-Thù Sư-Lỵ Bồ-tát (3
lượt, hoặc 10 lượt).
Nam-mô Phổ-Hiền Bồ-tát (3 lượt,
hoặc 10 lượt ).
(Niệm xong rồi, quỳ đọc bài
phát-nguyện):
Chúng-sinh không số
lượng,
Thệ-nguyện đều độ
khắp.
Phiền-não không
cùng-tận,
Thệ-nguyện đều dứt
sạch.
Pháp-môn không kể
xiết,
Thệ-nguyện đều
tu-học.
Phật-đạo không gì
hơn,
Thệ-nguyện được
viên-thành.
(Đứng dậy, đọc 3 tự-quy và
đỉnh-lễ ):
- Tự quy-y Phật, xin nguyện
chúng-sinh, thể theo đạo cả, phát tâm vô-thượng (1
lễ)
- Tự quy-y Pháp, xin nguyện
chúng-sinh, thấu rõ Kinh-tạng, trí-tuệ như biển (1 lễ)
- Tự quy-y Tăng, xin nguyện
chúng-sinh, thống-lý đại-chúng, hết thảy không ngại (1
lễ)
Hòa-nam
Thánh-chúng.
(Vái 1 vái, đứng thẳng, chắp tay
đọc):
Nguyện đem công-đức này,
Hướng về khắp tất
cả.
Đệ-tử và chúng-sinh,
Đều trọn thành
Phật-đạo.
(Vái 3 vái rồi lui
ra).
PHỤ-LỤC
I.- PHẬT NÓI KINH LỄ SÁU PHƯƠNG1
I.- PHẬT NÓI KINH LỄ SÁU PHƯƠNG1
Chàng
Thiện-sinh,
Buổi sáng nọ,
Mặc áo mũ,
Lễ sáu
phương.
Phật hỏi
rằng:
“Lễ gì thế?”
Chàng mới kể:
“Theo lời
cha,
Cứ sáng ra,
Thời lễ vậy”.
Phật bèn dạy:
“Ngươi hiểu
lầm,
Lễ tại tâm,
Ngươi nên
biết:
Sáu ác-nghiệp,
Trừ ngay đi !
Đừng rượu
chè,
Chớ cờ bạc,
Đừng
biếng-nhác,
Chớ bạn xằng,
Đừng nói
nhăng,
Chớ gian-ác.
Trừ sáu ác,
Lễ sáu
phương,
Người
bất-lương,
Lễ vô bổ.
Nên biết rõ:
Tu cõi lòng.
Lễ phương Đông,
Là cha mẹ.
Giữ đủ lễ,
Sớm cùng
khuya,
Có việc gì,
Phải làm đỡ
Phải thương
nhớ,
Đức cù-lao.
Khi yếu đau,
Phải chạy
chữa.
Chăm chức-sự,
Yên lòng già.
Làm mẹ cha,
Cho trọn đạo.
Nên dạy bảo,
Theo điều
lành.
Nên dỗ-dành,
Gần người
giỏi,
Khuyên
gắng-gỏi
Chăm
học-hành.
Tuổi
trưởng-thành,
Tìm đôi lứa,
Dựng nhà cửa,
Dạy ăn làm.
Lễ phương Nam ,
Là sư-đệ.
Phải kính-nể,
Phải nghe
lời.
Học chớ lười,
Làm chớ ngại.
Phải
khen-ngợi,
Công-đức
Thầy.
Đạo làm thầy,
Cũng không
dễ.
Phải
chăm-chỉ,
Dạy cho mau.
Mong trò sau,
Thành người
giỏi.
Học tấn-tới,
Hơn trò
người.
Cố trau-giồi,
Hiểu đạo-lý.
Những
nghi-nghĩa,
Vạch cho hay.
Lễ phương
Tây,
Là chồng vợ.
Phải niềm nở,
Lúc chồng về,
Chồng ra đi,
Lo gia-chính.
Nết
trinh-tĩnh,
Lòng
chính-chuyên.
Có của riêng,
Đừng tư-túi.
Chồng
giận-dỗi,
Phải ôn-tồn.
Chồng
khuyên-ngăn,
Phải
tùng-phục.
Phải săn-sóc,
Việc trong
ngoài.
Chồng ngủ
rồi,
Mới đi ngủ.
Chồng đối vợ,
Có nhân-nghì.
Khi đi về,
Phải chào
hỏi.
Ăn đúng buổi,
Nghỉ đúng
giờ.
Để đợi chờ,
Phiền lòng
vợ.
Sắm cho vợ,
Tùy lực mình.
Áo quần lành,
Trang-sức đủ.
Giao cho vợ,
Giữ tiền-tài.
Cùng
tiêu-xài,
Không
giấu-giếm.
Tình âu-yếm,
Trọng
thủy-chung.
Không hai
lòng,
Với kẻ khác.
Lễ phương
Bắc,
Là bạn bầu.
Răn cấm nhau,
Tránh điều
dữ.
Phải giúp đỡ,
Lúc tai-nàn.
Nghĩa
keo-san,
Ngày gắn
chặt.
Thường
thân-mật,
Viếng thăm
nhau.
Chuyện riêng nhau,
Đừng tiết-lộ.
Giầu giúp
của,
Khỏe giúp
công.
Thù-tạc hậu.
Đừng
giận-cáu,
Chớ tham-bô.
Mối hiềm-thù,
Nên dứt đứt.
Lễ xuống đất,
Là tớ thầy.
Trước khi sai,
Xem sức đã.
Có tội-quá,
Đừng phạt
ngay,
Xét gian,
ngay,
Cân nặng,
nhẹ,
Lượng tình,
lý,
Gồm cương,
nhu.
Khi ốm-đau,
Phải
thương-xót.
Cấp
thang-thuốc,
Không tiếc
gì.
Thưởng vật
chi,
Không
thiên-lệch.
Của trữ-tích,
Nó có riêng,
Phải
phân-miêng,
Không
đoạt-thủ.
Ở với chủ,
Hết đạo tôi.
Sáng sớm mai,
Dậy trước
chủ.
Việc phận-sự,
Phải hết
lòng.
Đồ ăn dùng,
Đừng
phao-phí.
Phải kính-nể,
Phải chào
mời.
Khen-ngợi
người,
Chớ
báng-nhiếc.
Trọng
hiền-triết,
Lễ lên trời?
Tin theo lời,
Lòng
thành-thiệt.
Bảo các việc,
Phải vâng
làm.
Nên biết ham,
Nghe đạo-lý.
Nghe mà nghĩ,
Nghĩ mà tu.
Pháp Phật
mầu,
Hỏi cho vỡ.
Bậc trí-giả,
Phải dạy
người.
Dạy lễ nghi,
Không
phóng-túng.
Thương các giống,
Cứu
chúng-sinh.
Dạy
“tinh-thành”,
Dạy “bố-thí”,
Dạy
“định-lòng”,
Dạy
“trì-giới”;
Dạy “ít nói”,
Mà chăm làm.
Dạy
“phát-tâm”,
Cầu Tịnh-độ.
Sáu điều đó,
Làm được ra;
Ấy tức là,
Phép lễ-bái.
Thiện-Sinh
lạy,
Xin Phật quy.
Phật vỗ-về,
Đọc câu kệ:
Đừng ngủ trễ,
Sáng dậy
ngay.
Chắp hai tay,
Dâng hương,
nước.
Cúng-dàng
trước,
Phát-nguyện
sau:
Bốn ân sâu,
Lo báo-bổ,
Phép
“lục-độ”,
Phải cần tu.
Trừ “si-ngu”,
Thành
“trí-tuệ”.
Chăm
“bố-thí”,
Hết
“tham-tàn”.
Trừ
“giận-hờn”,
Thành
“kiên-nhẫn”.
Chăm
“tinh-tấn”,
Hết
“lỗi-lầm”.
Trừ
“phóng-tâm”,
Thành
“thiền-định”.
Đừng
lười-lĩnh,
Thì giờ qua.
“Sinh, bệnh,
già,
Chết” là khổ.
Đời người
thọ,
Được bao lâu.
Thân-thích
đâu,
Khi hấp-hối.
Thuốc nào
khỏi,
Trốn không
phương,
Khách qua đường,
Ra quán trọ.
Nào con, vợ,
Nào mẹ, cha…
Vừa một nhà,
Phút đôi ngả.
Như thế cả,
Cảnh
“vô-thường”.
Trong sáu đường2
Luân-hồi mãi.
Nay may lại,
Được làm
người.
Biết đạo hay,
Tu mà độ.
Độ mình trước,
Độ người sau.
Vượt bể sầu,
Thuyền
“lục-độ”.
Bến “Lạc-thổ”3
A-Di-Đà,
Tiếp-dẫn ta,
Mở đường
rộng.
Hỡi tứ-chúng!,4
Nên cầu sang.
Phật dạy
chàng,
Chàng nghe
Phật.
Mừng nhảy
nhót,
Mà tin theo.
II.- NIỆM PHẬT BUỔI SÁNG
(Phiên-âm Hán-văn)
(Phiên-âm Hán-văn)
(Chắp tay đọc
):
Đại-từ, đại-bi mẫn
chúng-sinh,
Đại-hỷ, đại-xả tế
hàm-thức.
Tướng-hảo quang-minh dĩ
tự-nghiêm,
Chúng-đẳng chí tâm quy-mệnh
lễ.
Nam-mô Sa-bà Giáo-chủ Bản-Sư
Thích-Ca Mưu-Ni Phật (3 lượt)
Nam-mô Thích-Ca Mưu-Ni Phật (10
lượt, hoặc một tràng hay nhiều tràng tùy ý)
Nam-mô Văn-Thù Sư-Lỵ Bồ-tát (3
lượt hoặc 10 lượt)
Nam-mô Phổ-Hiền Bồ-tát (3 lượt
hoặc 10 lượt)
Nam-mô Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Bồ-tát (3 lượt hoặc 10 lượt)
(Chắp tay đọc):
Nguyện dĩ thử
công-đức,
Phổ cập ư nhất
thiết.
Ngã đẳng dữ
chúng-sinh,
Giai cộng thành
Phật-đạo.
III.- NIỆM PHẬT BUỔI TỐI
(Phiên-âm Hán-văn)
(Phiên-âm Hán-văn)
(Chắp tay đọc
):
A-Di-Đà Phật thân kim
sắc,
Tướng-hảo quang-minh vô đẳng
luân.
Bạch-hào uyển-chuyển ngũ
Tu-Di,
Hám-mục trừng-thanh tứ
đại-hải
Quang trung hóa Phật vô số
ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô
biên.
Tứ thập bát nguyện độ
chúng-sinh.
Cửu phẩm hàm-linh đăng bỉ
ngạn.
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới
đại-từ, đại-bi A-Di-Đà Phật (3 lượt)
Nam-mô A-Di-Đà Phật (10 lượt
hoặc 1 tràng hay nhiều tràng tùy ý)
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3
lượt hoặc 10 lượt)
Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát (3
lượt hoặc 10 lượt)
Nam-mô Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Bồ-tát (3 lượt hoặc 10 lượt)
(Chắp tay đọc
):
Niệm Phật công đức thù-thắng-hạnh,
vô-biên thắng-phúc giai hồi-hướng. Phổ-nguyện trầm-nịch chư chúng-sinh, tốc vãng
Vô-lượng-quang Phật-sát. Thập phương tam thế nhất thiết Phật, chư tôn Bồ-tát
Ma-ha-tát, Ma-ha-Bát-nhã ba-la-mật. Tứ sinh, cửu hữu, đồng đăng Hoa-Tạng
huyền-môn, bát nạn, tam-đồ, cộng nhập Tỳ-lô tính-hải.
Nam-mô Sa-bà thế-giới, tam-giới
Đạo-Sư, tứ-sinh từ-phụ, Nhân, Thiên Giáo-chủ thiên-bách ức hóa-thân Bản-Sư
Hòa-Thượng Thích-Ca-Mưu-Ni Phật. (3 lượt)
Tự quy ư Phật, đương nguyện
chúng-sinh, thể-giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm.
Tự quy ư Pháp, đương nguyện
chúng-sinh, thâm-nhập Kinh-tạng, trí-tuệ như hải.
Tự quy ư Tăng, đương nguyện
chúng-sinh, thống-lý đại-chúng, nhất-thiết vô ngại.
Hòa-nam
Thánh-chúng.
Nguyện dĩ thử
công-đức,
Phổ cập ư
nhất-thiết,
Ngã đẳng dữ
chúng-sinh,
Giai cộng thành
Phật-đạo.
IV.- TƯỞNG NIỆM KHI ĂN
CƠM
Nam-mô Bản-Sư Thích-Ca Mưu-Ni Phật
(3 lượt)
- Nguyện đoạn các điều
ác,
- Nguyện tu các điều
thiện.
- Nguyện: tu được thiện-căn,
hồi-hướng chúng-sinh đồng thành Phật-đạo.
V.- NHỮNG KỲ ĂN
CHAY
- Tam nguyệt trai: Mỗi năm ăn chay 3 tháng: tháng giêng,
tháng năm, và tháng chín.
- Thập trai: Mỗi tháng ăn chay 10 ngày: 1, 8, 14, 15, 18,
23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu kể từ ngày 27).
- Lục trai: Mỗi tháng ăn chay 6 ngày: Mồng 8, 14, 15, 23,
29, 30 (tháng thiếu kể từ ngày 28).
- Tứ trai: Mỗi tháng ăn chay 4 ngày: Mồng 1, 14, 15, 30
(tháng thiếu kể ngày 29).
- Nhị trai: Mỗi tháng ăn chay 2 ngày: Mồng 1 và
15.
NHỮNG NGÀY
KỶ-NIỆM
Tháng
giêng
Ngày mồng 1: Đức Phật
Di-Lặc.
Tháng
hai
Ngày mồng 8: Đức Phật Thích-Ca
xuất-gia.
Ngày mồng 15: Đức Phật Thích-Ca
viên-tịch.
Ngày mồng 19: Đức Quán-Thế-Âm
Bồ-tát.
Ngày mồng 21: Đức Phổ-Hiền
Bồ-tát.
Tháng
ba
Ngày mồng 16: Đức Chuẩn-Đề
Bồ-tát.
Tháng
tư
Ngày mồng 4: Đức Văn-Thù
Bồ-tát.
Ngày mồng 8: Đức Thích-Ca
giáng-sinh.
Tháng
sáu
Ngày mồng 19: Đức Quán-Thế-Âm
Bồ-tát.
Tháng
bảy
Ngày mồng 13: Đức Đại-Thế-Chí
Bồ-tát.
Ngày mồng 15:
Vu-lan-bồn.
Ngày mồng 30: Đức Địa-Tạng
Bồ-tát.
Tháng
chín
Ngày mồng 19: Đức Quán-Thế-Âm
Bồ-tát
Ngày mồng 30: Đức Phật
Dược-Sư.
Tháng mười
một
Ngày mồng 17: Đức Phật
A-Di-Đà.
Tháng
chạp
Ngày mồng 8: Đức
Thích-Ca thành-đạo.
HẾT
[40]
Pháp-môn: Các pháp của Phật nói ra làm pháp-tắc cho thế-gian, pháp-tắc ấy
là cửa ngõ của các bậc Thánh đi thông vào giác-đạo. Pháp-môn là giáo-pháp của
Phật.
[41] Phật
tử tại-gia: tức là Ưu-bà-tắc (Oupasaka: Tàu dịch là Cận-sự-nam, nghĩa là
người đàn-ông thân-cận, phụng-sự Tam-bảo), Ưu-bà-di (Oupasika: Tàu dịch là
Cận-sự-nữ, nghĩa là người đàn-bà thân-cận phụng-sự Tam-bảo) thụ ngũ
giới.
[43]
Thức-soa-ma-na (Siksamànà): Tàu dịch là “Học-pháp-nữ”, nghĩa là người
phụ-nữ đi tu, trước đã thụ 10 giới, nay lại học thêm 6 pháp-giới: không dâm-dục,
trộm cắp, sát sinh, nói dối, ăn phi thì, uống rượu.
[44]
Tỳ-khưu: (Bhiksu: Tàu dịch là “Khất-sĩ ”, nghĩa là người cầu xin pháp của
Phật và xin ăn nơi quần-chúng) thụ 250 giới.
[46]
Bồ-tát: (Bodhisattva: Tàu dịch là “Giác-hữu-tình”, nghĩa là giác-ngộ
chúng-sinh) thụ 10 giới trọng, 48 giới khinh. Bồ-tát-giới Phật-tử tại-gia cũng
thụ được.
[49]
Thanh-văn: Tiếng Phạm gọi là Xá-la-bà-ca (Sràvaka). Thanh-văn là hàng
đệ-tử trong pháp Tiểu-thừa của Phật, nghe giáo-lý nơi tiếng nói của Phật, ngộ lý
tứ-đế (khổ, tập, diệt, đạo) dứt được kiến-hoặc, tư-hoặc chứng nhập Niết-bàn gọi
là “Thanh-văn”.
[51]
Duyên-giác: Xưa gọi là Bích-Chi-Phật, nay gọi là Bát-thích-ế-già-Phật-đà
(Pratyekabuddha) và xưa dịch là Duyên-giác, nay dịch là
Độc-giác:
- Duyên-giác có nghĩa là:
1/ Quán 12 nhân-duyên, đoạn hoặc, chứng lý. 2/ Nhân thấy ngoại-duyên như hoa
rơi, lá rụng mà tự giác-ngộ lẽ vô-thường, đoạn hoặc, chứng
lý.
- Độc-giác có nghĩa là
trong đời không có Phật, do mầm mống của nhân trước, hoặc quán 12 nhân-duyên,
hoặc quán hoa rơi, lá rụng mà tự giác-ngộ.
[52]
Bồ-tát (Boddhisattva): Gọi đủ là Bồ-đề-tát-đóa, Tàu dịch là “Giác hữu
tình”. Nghĩa là những vị phát đại-tâm, vì chúng-sinh cầu đạo vô-thượng và luôn
luôn giác-ngộ cho chúng-sinh thành vô-thượng đạo. Những vị có hạnh-nguyện sâu-xa
gọi là “Đại-bồ-tát”.
[56]
A-la-hán (Arahat): Tàu dịch là “Bất sinh, Vô sinh” nghĩa là quả-báo trong
một đời diệt tận, được vào Niết-bàn mãi mãi, không phải tái-sinh trong 3
cõi.
Thập-tín: 1/ Tín-tâm. 2/ Tinh-tiến-tâm. 3/ Niệm-tâm. 4/ Định-tâm.
5/ Tuệ-tâm. 6/ Thí-tâm. 7/ Giới-tâm. 8/ Hộ-tâm. 9/ Nguyện-tâm. 10/
Hồi-hướng-tâm. Mười bậc này đều lấy đức “Tín” làm gốc, cho nên gọi là
“Thập-tín”.
[57]
Thập-trụ: 1/ Phát-tâm-trụ. 2/ Trị-địa-trụ. 3/ Tu-hành-trụ. 4/
Sinh-quý-trụ. 5/ Phương-tiện-trụ. 6/ Chính-tâm-trụ. 7/ Bất-thoái-trụ. 8/
Đồng-chân-trụ. 9/ Pháp-vương-tử-trụ. 10/ Quán-đỉnh-trụ. Mười bậc này đều gọi là
“Trụ”, nghĩa là chỗ ở của các vị Bồ-tát an-trụ tâm, đối với sự tu-hành về lục-độ
chưa được rốt-ráo mầu-nhiệm, cho nên chỉ gọi là
“Trụ”.
[58]
Thập-hạnh: 1/ Hoan-hỷ-hạnh. 2/ Nhiêu-ích-hạnh. 3/ Vô-khuể-hạnh. 4/
Vô-tận-hạnh. 5/ Ly-si-loạn-hạnh. 6/ Thiện-hiện-hạnh. 7/ Vô-trước-hạnh. 8/
Tôn-trọng-hạnh. 9/ Thiện-pháp-hạnh. 10/ Chân-thực-hạnh. Mười bậc này chú-trọng
tu-hành về pháp lục-độ hơn các hạnh tu khác, cho nên gọi là
“Hạnh”.
[59]
Thập-hồi-hướng: 1/ Cứu-hộ chúng-sinh, ly chúng-sinh-tướng hồi-hướng (cứu
giúp chúng-sinh mà không chấp-trước về sự cứu giúp). 2/ Bất hoại hồi-hướng
(không bao giờ thoái lui lòng cứu giúp chúng-sinh). 3/ Đẳng chư Phật hồi-hướng
(lòng từ-bi cứu giúp chúng-sinh đã bằng chư Phật. 4/ Chí nhất thiết xứ hồi-hướng
(lòng cứu giúp chúng-sinh mỗi việc đều chu-đáo). 5/ Vô-tận công-đức-tạng
hồi-hướng (tích-chứa công-đức vô-tận). 6/ Tùy thuận nhất thiết kiên-cố thiện-căn
hồi-hướng (thuận theo hết thảy căn lành bền-chặt). 7/ Đẳng tâm tùy thuận nhất
thiết chúng-sinh hồi-hướng (đem tâm bình-đẳng tùy thuận hết thảy chúng-sinh) 8/
Như-tướng hồi-hướng (làm các công-đức đều hồi-hướng về tự-tính chân-như). 9/ Vô
trước vô phược giải-thoát hồi-hướng (không chấp-trước, không ràng-buộc, một lòng
giải-thoát). 10/ Pháp-giới vô lượng hồi-hướng (hồi-hướng về vô lượng pháp-giới).
Mười bậc này đều gọi là “Hồi-hướng”, vì những sự tu-hành của các vị Bồ-tát về
bậc ấy, đều đem công-đức mà hồi-hướng.
[60]
Thập-địa: 1/ Hoan-hỷ-địa. 2/ Ly khổ địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/
Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/
Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “Địa”,
vì thâu tóm các công-đức hữu-vi và vô-vi dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ
nương-tựa chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-tưởng, cho nên gọi là
“Địa”.
[64] Kinh Bát đại-nhân-giác là cuốn kinh số 779 trong
Đại-tạng-kinh, do ngài An-Thế-Cao dịch chữ Phạm ra chữ Hán. Kinh này dịch-giả
xuất-bản đầu năm 1957, nay có sửa lại đôi chút theo lối 4 chữ cho dễ tụng. “Bát
đại-nhân-giác” nghĩa là 8 điều giác-ngộ của bậc
Đại-nhân.
[67] Năm ấm vô ngã: Sắc, thụ, tưởng, hành thức là 5
thứ ngăn che chân-tính. 5 thứ này tạo-thành sự-vật nhưng, đều là giả-hợp, không
có gì là cái ta có tự-chủ, vĩnh-viễn.
[70] Năm dục: 5 thứ dục-vọng là của-cải, sắc-đẹp,
tiếng-tăm, ăn uống và ngủ-nghỉ. Còn gọi là sắc, thanh, hương, vị,
xúc.
[72] Kinh này là cuốn kinh số 251, trong Đại-tạng-kinh, do
ngài Huyền-Trang đời Đường dịch chữ Phạm ra chữ Hán. Bát-nhã ba-la-mật-đa
(Prajnà-Pàramità): Có nghĩa là dùng Trí-tuệ vượt qua bể sinh tử đến bờ
Niết-bàn.
[78] Đây nói tắt 12 nhân-duyên là: Vô-minh, Hành, Thức,
Danh-sắc, Lục-nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh. Lão (già)-tử
(chết).
[79] Đây nói về Tứ-đế (4 sự thực): Mọi thứ đau-khổ (khổ),
Nguyên-nhân của khổ (Tập), Diệt khổ được vui (Diệt), Tu theo, đường chính
(Đạo).
[80] Bài Thần-chú này có nghĩa là: “Qua đi, qua đi. Tích-cực
qua đi đến bờ kia. Mọi người đều tích-cực đi qua đến bờ kia. Sự giác-ngộ
viên-thành nhanh-chóng!”
[81] Về phần niệm danh-hiệu này, các Phật-tử có thể chuyển
niệm danh-hiệu đức A-Di-Đà, Quán-Âm, Thế-Chí, Thanh-tịnh đại-hải-chúng cũng
được.
Kinh này có thể tụng liền sau kinh Bát Đại-Nhân-Giác,
hoặc nay tụng Kinh này, mai tụng kinh kia cũng được.
2 6 Đường: Trời, người, A-tu-la, địa-ngục, ngã-quỉ,
súc-sinh
4 Tứ-chúng: 4 chúng đệ-tử của Phật là Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN, AUSTRALIA,SYDNEY.11/9/2012.)
No comments:
Post a Comment