Một ít quán niệm về Chánh tư duy
Đức Phật khi còn là đạo sĩ Gautama, trải qua sáu năm tọa thiền tinh tấn vô song dưới cội cây bồ đề, nhưng không thành tựu đạo nghiệp. Thực hành khổ hạnh, ăn mỗi ngày một ít mè, thân thể Ngài chỉ còn da bọc xương. Ngày bước đến dòng sông tắm gội nhưng không đủ sức, ngã quỵ trên bờ cát. Mục nữ Sojata đi ngang qua thấy, liền dâng lên Ngài tô cháo sữa dê. Dùng xong bát cháo, Ngài cảm thấy khỏe khoắn bội phần, thong dong xuống tắm gội ở dòng sông Ni liên thuyền. Sau đó, Ngài nhận ra rằng khổ hạnh ép xác không phải là phương pháp đúng, phóng dật buông lung lại càng sai. Hành giả tu đạo phải giữ thái độ trung dung về mọi mặt. Nhờ suy nghĩ như vậy Ngài tiếp tục ngồi dưới gốc bồ đề với một tư duy mới. Trải quan 49 ngày đấu tranh với nội tâm, ngoại cảnh, Ngài đắc đạo khi sao Mai chênh chếch cuối trời lúc bình minh. Từ đó Ngài trở thành Đức Phật, có nghĩa là người thức tỉnh luôn luôn. Đây là cội nguồn xuất phát của Chánh tư duy.
Chánh tư duy chỉ có trong quỹ đạo giáo pháp của đạo Phật vì liên quan đến phạm trù Nhân duyên, và quan kiến giải thoát của Phật giáo là Tứ diệu đế (đâu là khổ, nguyên nhân khổ, phương thức diệt khổ, cảnh giới thoát khổ). Cơ chế vận hành của Chánh tư duy dựa trên nền tảng Chánh kiến. Một người có được Chánh kiến (thấy biết chân chánh), nhưng chưa chắc đã có được Chánh tư duy bởi vì bản thân họ thiếu tuệ quán, tức là quán xét sự vật, hiện tượng đi thẳng vào bản chất Bồ đề tâm. Chẳng hạn như một cư sĩ tại gia đang tuân thủ giới cấm vọng ngữ (nói dối hại người) của nhà Phật. Nhưng đặt trường hợp vị ấy gặp một kẻ hung bạo đang tìm kiếm nạn nhân để sát hại. Nếu mình thấy nạn nhân đó đang núp ở một bụi cây hay góc vườn kia khi kẻ thủ ác hỏi chỗ núp mà mình thực thà trả lời để giữ được giới cấm vọng ngữ, thì vô tình tiếp tay cho kẻ kia gây tội ác. Hơn bao giờ hết, lúc này cần phải có Chánh tư duy để hành xử trên tinh thần từ bi của nhà Phật. Điều này có nghĩa là mình nói dối là nạn nhân ở chỗ khác, hoặc mình không thấy gì cả. Khi chế tác giới luật, Đức Phật cũng đề ra 4 cơ chế vận hành: Giá, Khai, Trì, Phạm (đóng, mở, giữ, phạm). Đó là để cho người Phật tử (tại gia hay xuất gia) tùy theo trường hợp mà hành xử. Ngay trong đạo đức thế gian cũng có hai khái niệm: Đạo đức tiêu chuẩn và Đạo đức ứng dụng, huống gì là đạo hạnh thế gian! Vị bác sĩ phẫu thuật có thể nói dối bệnh nhân vì mục đích động viên, an ủi. Điều đó không phạm vào đức hạnh của người cha hay mẹ. Người lính trên trận chiến bảo vệ đất nước, hành động giết giặc không được coi là sát nhân, mà đây là biểu hiện của sự yêu nước. Do dó, Chánh tư duy đóng vai trò quan trọng vô cùng trong toàn hệ thống Bát Chánh đạo.
Trên quan kiến Phật giáo, Chánh tư duy làm nền tảng cho Chánh tinh tấn, đưa đến thành tựu đạo nghiệp. Đây là mũi nhọn hiệu quả của Chánh tư duy! Cùng thời Đức Phật, 96 ngoại đạo tham thiền miên mật, tinh tấn không ngừng nhưng không thể chấm dứt vòng luân hồi sanh tử. Có đạo chứng được tứ thiền thác sanh vào cõi Sắc giới, có đạo cao siêu hơn chứng được tứ không, thác sanh lên cõi Vô sắc giới. Song, họ vẫn còn nằm trong luân hồi, có nghĩa là vẫn bị trôi lăn theo bánh xe sống chết. Khi tu hành đến mức được an lạc, trong sáng và vô niệm, ngoại đạo thường thỏa mãn ở trình độ này, đắm mình vào hoan lạc vô vi như loài gấu ngủ đông. Rốt cuộc gặp phải vô thường, họ đành mạng chung mà rơi xuống cõi thấp. Chỉ có cõi Niết bàn mới thoát khỏi sanh tử luân hồi, nhưng ngoại đạo không chạm tới mép cửa đó. Điều này có nghĩa là họ không đào sâu suy nghĩ về Tứ diệu đế, Vô thường, Vô ngã, Nhân duyên, hay nói một cách khác là họ thiếu Chánh tư duy.
Chánh tư duy đi theo diễn trình chánh pháp là Văn, Tư, Tu. Bởi vậy, người học Phật, tu Phật nên hiểu rằng Văn tức là nghe pháp, đọc kinh sách đạo Phật; Tư tức là suy ngẫm, đào sâu ý nghĩa, mục đích của vấn đề; Tu tức là bắt đầu thực hành theo hướng dẫn của tư duy trước đó. Trong quy trình học Phật, tu Phật, yếu tố Tư là quan trọng nhất vì không có suy nghĩ đúng thì không có hoạt động đúng. Tư ở đây chúng ta hiểu là Chánh tư duy, có nghĩa là hoạt động của trí tuệ. Có trí tuệ mới trở thành Phật, bởi vậy Phật dạy “Hãy lấy trí tuệ làm sự nghiệp của con người” (Kinh Bát Đại Nhân Giác). Thánh tăng Thogme Zangpo từng khẳng định: “Có năm Ba-la-mật (tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định) mà thiếu Trí huệ Ba-la-mật thì không thể dẫn tới đạo quả. Bởi vậy, hãy kết hợp các phương tiện thiện xảo cùng với trí huệ để khỏi lạc vào ba cõi…” (Ba mươi bảy Pháp hành Bồ tát đạo). Trong một lần thuyết pháp ở Trung tâm Thiền học San Francisco (Hoa Kỳ) vào năm 1990, Đại sư Jampal Tenzin nhấn mạnh rằng trên con đường tu Phật của bất kỳ ai, dù được hoàn thiện năm Ba-la-mật đầu nhưng thiếu Trí huệ Ba-la-mật, cũng coi như là bị “mù lòa” trên con đường giải thoát. Như thế mới biết, Chánh tư duy là nền tảng của Trí huệ thực sự quan trọng đối với người tu.
Hiểu rõ tầm quan trọng của Chánh tư duy như vậy, người con Phật chúng ta phải ứng dụng như thế nào? Chánh tư duy phải luôn được coi là tấm gương chiếu rọi những giai đoạn tu tập của chúng ta trên bước đường giải thoát. Nếu thiếu Chánh tư duy chúng ta sẽ dễ giải đãi, phóng dật, nghiêm trọng nhất là lạc hướng bởi vì không có gì để soi chiếu mà nhận rõ nỗ lực tâm linh của mình như thế nào? Chánh tư duy đó theo cách nói của Thiền tông gọi là “hồi quan tự kỷ”, tức là “soi rọi ánh sáng vào bên trong”, nghĩa là xem xét lại bản thân mình. Nói theo văn phong Mật giáo, Chánh tư duy tức là “quán xét lỗi lầm”. Người quán xét lỗi lầm thường có được bệ phóng tốt, vươn xa và bay cao tới chân trời bao la của đạo pháp, mà người ở dưới này không thể nghĩ tưởng được. VÌ vậy mà Thánh tăng Thogme Zangpo khẳng định: “Nếu không chịu tự quán xét lỗi lầm, tức là ta chỉ mang danh là hành giả mà không có thực hành. Bởi vậy, hãy luôn luôn quán xét và loại trừ lỗi lầm của mình. Đó là Pháp hành Bồ tát đạo”. Một khi quán xét lỗi lầm trở thành công việc thường nhật của mình, hành giả sẽ có được hai gia tài lớn trong “thất thánh tài”: Tàm, Quý (có nghĩa là tự xấu hổ với mình và biết xấu hổ với người). Đức Phật khi còn là Đạo sĩ Gautama, học đạo với Đạo sư Uất-đầu-lâm-phất, nhờ vào Chánh tư duy tức là quán xét lỗi lần, Ngài cảm nhận rằng mức thiền chứng của thầy mình vẫn chưa rốt ráo. Ngài hỏi vị Đạo sư khả kính này, thì ông ta cũng nghĩ vậy, nhưng không biết cách nào để đạt đến cảnh giới rốt ráo. Thế là Đạo sĩ Gautama từ giã thầy ra đi để tiếp tục tìm ra chân lý giải thoát. Cuối cùng, nhờ Chánh tư duy mà sau 49 ngày đêm dưới gốc cây bồ đề, Ngài viên thành quả đạo, trở thành Đức Phật.
Tướng trạng của Chánh tư duy như thế nào? Đương nhiên là cần học Phật, tu Phật theo quy trình tuần tự Văn, Tư, Tu. Trước tiên cần học giáo lý nhà Phật, sau đó thực hành giáo pháp của Phật. Điều này có nghĩa là tư duy, nghiên cứu giáo điển, giáo pháp Phật-đà để chọn ra một tông phái, một pháp môn thích hợp với căn cơ. Tiếc rằng, Phật tử chúng ta hiện nay ít ai chịu đọc hiểu nên chỉ theo Phật vì truyền thống mà Pháp vương Gyalwang Drukpa gọi là Phật tử thế tục, còn loại kia – Phật tử chân chính… Vấn đề còn lại là tùy vào duyên đã tạo của mình trong nhiều kiếp trước mà nay người theo đạo Phật gặp được vị thầy khai đạo tốt, còn gọi là minh sư, thiện tri thức, hoặc vị thầy xấu gọi là tà sư. Kinh điển xác quyết rằng gặp được minh sư là yếu tố quan trọng bậc nhất của sự tu học. Đại sĩ Liên Hoa Sanh khẳng định nếu theo học một vị thầy tốt chẳng khác nào tìm được viên ngọc như ý; tất cả những điều bạn cần và muốn đều được thành tựu (trích trong luận điển Giáo lý Dakini). Nếu gặp phải tà sư thì kết quả ngược lại. Không phải ngẫu nhiên trong những pháp hội khác nhau, Đức Phật thường khuyên Phật tử nên tránh xa thầy tà, bạn ác. Trong kinh Niết bàn, Phật khuyến cáo gặp phải tà sư là gặp phải nguy cơ đọa lạc ở địa ngục. Muốn biết thế nào là vị thầy chân chánh hay một tà sư, thì cần phải đọc kinh sách. Rốt lại người con Phật trải qua quy trình Văn, Tư, Tu, phải cần đến Chánh tư duy.
Tuy nhiên, Chánh tư duy thực sự có giá trị đích thực khi được người Phật tử quán chiếu rồi áp dụng vào đời sống thường nhật để làm tốt đạo, đẹp đời. Trong khía cạnh xã hội, gia đình, đạo đức cũng cần Chánh tư duy. Bởi lẽ, một khi không suy nghĩ đúng hướng thì hành động thực hiện bị lệch hướng, đương nhiên là kết quả không thể có. Đây là tinh túy giáo pháp mà Pháp vương Gyalwang Drukpa thứ XII khẳng định khi nêu lên quan kiến của mình trong một lần khai thị cho đồ chúng: “Pháp là cuộc sống, cuộc sống là Pháp”. Trong kinh Bổn sanhkể về tiền thân Đức Phật, có lần là vị thuyền trưởng Áo đen, phát hiện tên cướp định giết hại 500 vị thương nhân, vốn là 500 vị A-la-hán tương lai. Thuyền trưởng là người con Phật, giữ giới cấm sát sanh, nhưng vì thương tên cướp sẽ bị đọa địa ngục Vô gián mà ra tay giết chết tên cướp để cứu người, dù biết rằng hành vi ấy sẽ gây nhân rơi vào cõi thấp. Song, nhờ Chánh tư duy như vậy mà sau khi hậu quả xảy ra, vị thuyền trưởng ấy không những không gánh chịu nghiệp quả mà còn tăng công đức hàng trăm lần. Thời Đức Phật tại thế, có lần người thợ săn hỏi Phật: “Có thấy con nai vừa chạy qua đi hướng nào chăng?” Phật có thấy nhưng Ngài từ tốn đứng lên và trả lời: “Từ lúc đứng lên, Ta không thấy con nai nào chạy qua đây!”. Lần đó, Đức Phật đã khéo léo sử dụng Chánh tư duy khiến lời nói của Ngài vừa không sai sự thật vừa góp phần cứu được chú nai con. Chuyện nhà thiền Nhật Bản có kể lại một vị thiền sư quản chứng ở một tự viện nổi tiếng phạm giới tà dâm với một cô kỹ nữ, nhưng được chúng Tăng quý trọng, đồng thanh kiến nghị vị trụ trì không trục xuất vị quản chúng này vì Ngài làm thế để cứu giúp mẹ của cô kỹ nữ kia, thoát khỏi bàn tay tử thần. Bởi lẽ, có kẻ xấu yêu cầu cô ta phá giới vị sư mới được mượn tiền chữa bệnh cho mẹ cô đang ở tình trạng nguy kịch.
Chánh tư duy là nền tảng của trí tuệ mà trí tuệ mới chính là sự nghiệp cao cả nhất của con người. PHật chúng ta dù tại gia hay xuất gia đều phải biết thế nào là Chánh tư duy để tạo hạnh phúc trong đời sống thế tục, thăng hoa trong đời sống tâm linh. Nhờ đó chúng ta mới được Chánh tinh tấn, một khi luôn giữ được Chánh tinh tấn thì sẽ nhanh chóng viên thành quả đạo.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI,( TINH THAT KIM LIEN,AUSTRALIA,SYDNEY.2/9/2012.
No comments:
Post a Comment