Tuesday 24 June 2014

KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VII, PHẨM SƯ TỬ HẨU KIM CƯƠNG BỒ-TÁT THỨ MƯỜI BỐN.

 
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN
QUYỂN THỨ VII
 
PHẨM SƯ TỬ HẨU KIM CƯƠNG BỒ-TÁT THỨ MƯỜI BỐN
Lúc bấy giờ ngài Sư Tử Kim Cương Bồ-Tát trịch áo bày vai hửu ở giữa chúng hội bước ra đãnh Lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, quỳ xuống chấp tay mà bạch rằng:
Thế Tôn! Chúng con nghe Phật nói về những Mật-Nghĩa Đà Ra Ni phương tiện giúp cho chúng sanh được nhiều điều lợi ích. Nay xin Thế Tôn dẫn giải cho chúng con được hiểu biết Thủy Tổ loài người là ai? Thủy Tổ phiền nảo là ai? Ngưỡng mong Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con và chúng sanh đời sau được dứt sự nghi lầm.
Lúc ấy đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ở nơi Mật Định Kim Cang Tỳ Lô Quán Đảnh tâm chú, xuất nhập các môn tam muội Đà Ra Ni dậy an lành mà dạy cho ngài Kim Cang Sư Tử Hẩu Bồ Tát rằng :
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Hãy lắng nghe những điều thâm-mật khó hiểu khó nghĩ bàn. Như Lai sẽ vì các ông mà diễn nói Mật Giáo Môn Đệ Nhất Đà Ra Ni,không có một và hai. Đó là nghĩa Bí-Áo Huyền Diệu Bất Động Môn làu làu một thế chơn như nơi thân và tâm, hay xuất sanh vô lượng công đức được chư Phật tôn trọng ngợi khen, các hàng Tỳ Kheo Bồ-Tát vâng chỉ y giáo phụng hành. Trời, Người qui thuận cúng dường, tán thán, ngợi khen là việc chưa từng có, Như Lai đã xa lìa chấp có chấp không cũng như chấp pháp thuận nghịch hai bên. Như Lai không bị gò ép bởi pháp Thế gian và Xuất Thế gian. Các pháp có danh tự, cú nghĩa cũng lại như thế.
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Các ông chớ cho rằng Thủy tổ loài người chính là con người và người ấy là ai? ở đâu? Các ông chớ nhầm lẫn rằng Thủy tổ loài người chẳng phải là con người. Vì sao? Vì bản tánh ác và thiện ở trong vạn vật đều thể hiện rất rõ nét, bản tánh ấy đã có từ vô thỉ vô chung không ai dạy mà tự nhiên sẵn có, bản tánh này đủ sức chế ngự xác thân, tâm ý và hoàn cảnh bên ngoài lẩn bên trong, nhưng không được xem là Thủy Tổ của loài người.
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Thủy Tổ của loài người chính là Phật-Tánh bất di bất dịch do chư Phật tu tập thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật tánh này đã sẵn có trong lòng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, phiền nảo cũng lại như vậy. Các ngươi dù biết trong chúng sanh có Phật tánh, nhưng lại không biết Thủy Tổ loài người là ai ở đâu? Ví như hai anh em ruột là chủ của hai căn nhà cạnh nhau. Họ có thói quen không giao tiếp và chú ý về hành động việc làm tên tuổi danh tánh của nhau. Nếu có người hỏi đến họ đều trả lời không biết. Cũng vậy Phật Tánh và Thủy Tổ loài người vốn không có khác nhau, phiền nảo cũng lại như thế, vì một niệm sai lầm nên các ông chẳng biết Thủy Tổ loài người là ai? và Phật tánh là ai?  Dù rằng cả hai đều ở rất gần nhau trong tâm não và ý thức.
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Phật Tánh và chúng sanh vốn không hai không khác, chúng sanh và phiền nảo cũng lại như vậy. Phật tánh là bình đẳng gọi là Tổng Trì Đà Ra Ni. Chúng sanh cũng bình đẳng gọi là đại Trì Đà Ra Ni. Phiền nảo cũng bình dẳng gọi là Nhiếp Trì Đà Ra Ni. Các món pháp như thế chẳng ai hiểu được, chẳng ai biết được. Do sự phân biệt chấp trước nơi ý nghĩ mà chúng sanh chẳng đến được pháp Tối Thắng Tự Tại của giáo môn Bí Mật thành tựu nghĩa, thành tựu pháp, thành tựu Tô Tất Địa đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp Mật-Tạng của chư Phật không thể đến được. Tổng Trì Đà Ra Ni chú của chư Phật Ba đời không thể đến được. Nếu pháp Bí-Tạng của chư Phật có thể đến được, thời chúng sanh không cần phải tu tập khổ hạnh nơi vô lượng ức kiếp để tìm thấy bổn tánh thanh tịnh của chính mình. Phật tánh vốn xưa nay là Hư Vô Tịch Tỉnh, Đại Nhiệm Mật, Bất Động, không tà không chánh. Bổn tánh này gọi là Pháp Tánh Đà Ra Ni, không bị ngăn trệ bởi dục vọng, không kinh sợ bởi hoàn cảnh, không tham mê vật chất cám dỗ, không nghi ngại về mọi phương diện, chẳng tham ác, chẳng mê thiện, không dị biệt, không theo định bỏ loạn, không mê tâm chẳng bỏ tâm, không tình cũng chẳng vô tình, không đối đãi cũng chẳng phải bỏ mặc, không tu cũng chẳng phải bỏ tu, không hành cũng chẳng phải bỏ hành,không giải thoát cũng chẳng phải lìa giải thoát, không gàn buộc cũng chẳng phải lìa gàn buộc, không luân hồi cũng chẳng phải lìa luân hồi v.v…. Các pháp Bí-Mật-Môn Đà Ra Ni Tổng Trì tánh không như thế chẳng phải là pháp vô-vô cũng chẳng phải là pháp hửu-hửu. Pháp tuy có đối đãi mà tâm vốn không đối đãi. Pháp tuy không đối đãi mà tâm lại có đối đãi. Pháp tuy có lúc đối đãi có lúc không đối đãi. Tâm có lúc không đối đãi có lúc đối đãi. Cho nên tâm và pháp cả hai đều phản quang giúp cho người tu đang tối dược sáng, bỏ sáng được tối. Tùy chỗ sử dụng tâm đắc, pháp đắc, cũng có lúc không cần tâm đắc và pháp đắc. Đây là pháp môn Bí-Yếu Mật Tạng Diệu Ngữ Ngôn Đà Ra Ni hay khiến cho chúng sanh đời nay và đời Mạt Pháp sau này tu tập kinh đại thừa Chuẩn-Đề Bổn Tôn mau thành tựu quả Tối Sơ Đại Mật Chánh Đẳng Chánh Giác.
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp môn Bí mật Đà Ra Ni này hay xuất sanh các môn tam muội Đại Định an trụ Bất Động chuyển như vậy, như nhiên dường như hư không chẳng có dấu vết. Nơi Thế gian có pháp cấu pháp tịnh, muốn cắt đứt rời bỏ không thể được, muốn bắt lấy bảo thủ không dễ dàng. Cho nên ở nơi pháp môn Bí Mật Vi Diệu Đà Ra Ni này còn gọi đó là: Phật phi Phật, Pháp phi Pháp, Tăng phi Tăng, định phi định, loạn phi loạn, giác phi giác, chơn phi chơn, đạo phi đạo, dâm phi dâm, tà phi tà, ác phi ác, thiện phi thiện v.v… Vì các pháp xưa nay tánh tướng vốn không thì làm gì có Thủy Tổ loài người. Nếu Thủy Tổ loài người mang bản tánh độc ác thời chẳng được gọi là đúng. Nếu bản tánh ấy hoàn toàn thuần thiện thời mới được gọi là Thủy Tổ của loài người, đây gọi là chánh danh.
- Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Tánh ác và tánh thiện là pháp đối đãi cùa phiền nảo. Như Lai đã bao phen an trụ trong Mật Định xuất nhập nơi hằng hà sa ức như vô số vi trần thế giới làm pháp chiêm nghiệm tư duy để thoát ra vòng sanh tử, phiền nảo, khổ đau mà chúng sanh hằng ôm ấp đeo đuổi nó không hề có niệm chán mỏi và có ý buông bỏ. Như Lai đã im lặng vào chỗ Hư Vô Mật-Pháp Đà Ra Ni, ví như đang uống Cam Lồ dược vị, như đang cùng các vị đại Bồ-Tát dạo chơi các cõi Phật quốc, như đang ngồi trên xe thất bảo tự tại nơi các cõi Trời Đao Lợi, Đâu Xuất Đà, Tứ Thiên Vương, Tu Diệm Ma Đại Phạm, Phạm Phụ, Phạm Chúng, Long Cung, Quỷ Thần A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn phi Nhơn cùng với đia ngục A Tỳ không có chỗ chướng ngại. Như Lai là chúng sanh mà khác với chúng sanh. Như Lai là Thánh mà khác với Thánh. Như Lai là Bồ-Tát mà khác với Bồ-Tát. Như Lai là Phật Thế Tôn là ngôi vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc Thiện Thệ, Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn:
Khể thủ quy-y Tô-Tất-Đế
Đầu Diện Đãnh Lễ Thất Cu Chi
Ngã Kim Xưng Tán Đại Chuẩn-Đề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ
Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề cu chi nẫm đát điệt tha.
Án Chiết lệ chủ lệ Chuẩn-Đề ta bà ha.
Bấy giờ đức Phật Mẫu Chuẩn Đề muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
1. Đấng Vô Thượng Mật Ngôn
Chuyển mạnh bánh xe Pháp
Như Đại Sư Tử Vương
Phước đức vô cùng tận
Đầy đủ nghĩa pháp yếu
Khéo léo đều phục chúng
Diệu dụng nơi thế giới
Số tính như vi trần
Trí tịch huệ vô tịch
Suốt thấu trong tam giới
Đại độ khắp quần sanh
Im lặng dường như ngủ
Tiếng rống như Sư tử
Lẫy lừng như Rồng Thiên
Pháp nghĩa mầu rộng lớn
Ứng hợp các căn cơ
Chậm nhanh tuy có khác
Mà liệu định pháp mầu
Chọn đến chỗ vô định
An lạc tâm rỗng lặng
Diệu phước đại công đức
Thành trì chẳng có tướng
Danh lợi không chỗ nương
Ngu khôn chẳng điểm tựa
Thiện ác không nghe thấy
Cõi Phật đại quang minh
Trang nghiêm tịnh quốc độ
Công đức vô cùng tận
Khó nói khó nghĩ bàn
2. Hởi Nam Tử! Nữ Nhơn!
Muốn học đạo toàn chơn
Phải ân cần cầu Pháp
Các dục nhiểm xa lìa
Xả bỏ các việc ác
Cùng tội lỗi gian tham
Các vật chất mến yêu
Vợ con, vàng bạc thảy
Bạn bè đang thân thiết
Bỏ đi không nuối tiếc
Người trí nhẫn như vậy
Chẳng mỏi mệt tìm cầu
Nơi Thiện Hửu Tri Thức
Mà phục dịch ăn uống
Chấp tác, công quả thảy
Nghe lời dạy thâm sâu
Ghi nhớ tìm hiểu đó
Siêng tu tập oai nghi
Theo hạnh lành cao thượng
Thành tựu được như vậy
Gọi là Chơn-Mật đế
3. Phật Pháp chẳng biến hiện
Hư không chẳng chỗ sanh
Ly, lìa tuy có khác
Mà ý nghĩa lại đồng
Vô Vi, Tối-Mật-Ý
Bí yếu vô sai biệt
Suy gẫm lâu mới hiểu
Mỹ âm, Bí-mật âm
Tịnh âm, Thắng Nghĩa ậm
Quảng âm, Đại Oai âm
Nhuyển âm, Diệu pháp âm
Phật tánh rộng lớn khắp
Xuất sanh từ vô thỉ
Trụ chổ Hư Không Tạng
Đến đi khó lường được
Ra vào như ánh chớp
Xuất nhập pháp phương tiện
Thoáng hiện rồi biến mất
Không thể suy diễn được
4. Như Bồ-Tát Mật-Chiếu
Do bổn đại thệ nguyện
Cứu độ các chúng sanh
Như nhà Đại Ảo Sư
Vừa thấy Ngài biến mất
Chúng sanh dù thương tưởng
Một bậc thầy khả kính
Mà chẳng biết là ai?
Tổ loài người cũng thế
Dù biết mà chẳng biết
Dường như sống mộng ảo
5. Hởi Nam Tử! Nữ Nhơn
Thế gian là vô thường
Vua đất chết chế ngự
Không ai ngăn cản nổi
Thuốc trường sanh bất tử
Dù uống trăm ngàn ly
Cũng không thoát sanh tử
Trong mãnh bụi hằng sa
Ức vi trần thế giới
Chẳng tính đếm thí dụ
Phiền nảo là đất chết
Không có ngày yên lặng
Chúng sanh ở nơi đó
Mà thọ các đại khổ
Mê mệt lòng không chán
6. Đấng Đạo Sư Vạn Mật
Chuẩn-Đề Vương Thế Tôn
Sanh nơi đời ngu khôn
Tu hành Tập Chủng Trí
Huệ Đà La Tối thượng
Chế phục các phiền nảo
Ly lìa pháp thiện, ác
Thiện báo cùng ác báo
Tiền báo hoặc hậu báo
Nghiệp lành cùng nghiệp dữ
Pháp đối đãi sanh tử
Chẳng đắm nhiễm phút giây
Mà siêng tu đại pháp
Chuẩn-Đề Bí-Mật chú
Quảng đại chư chúng sanh
Thành tựu Bồ-Đề thọ
Quy-y đấng Chánh Giác
Mười phương ba đời Phật
Số Phật như vi trần
Không tính đếm thí dụ
Trời người chung tin tưởng
Thanh Văn, Duyên Giác thảy
Thấy Phật đấng xuất thế
Rãi hoa cúng dường Phật
Bao nhiêu các đức Phật
Thành tựu môn Mật-Giáo
Nhờ tu tập kinh này
7. Mười phương chúng Bồ-Tát
Xuất sanh trong đời ác
Thành tự đại phương tiện
Như tiếng chuông cảnh tỉnh
Khơi dậy lòng chúng sanh
Hàng phục chúng quân Ma
Thu phục các tà pháp
Nhiếp trừ chư phong thủy
Hóa giải nạn binh đao
Tất cả đều lui tán
Chúng sanh vướn tai nàn
Vương mang bao nghiệp khổ
Mà tưởng nhớ đến Phật
Tu tập kinh điển này
An ổn lòng tịnh định
Nhẹ nhàng như hư không
Chí thành tu tinh tấn
Quy-y và lễ bái
Tán thán cúng dường Phật
Hương bột hoặc hương xoa
Hương đốt, trầm, gỗ quý
Chiên đàn, Bạch giới tử
Huân lục hoặc phong đàn
Pha chế bơ cùng sữa
Cúng dường nơi thân Phật
Chí thành lòng cung kính
Mà tu tập kinh này
Trì tụng vô số kiếp
Công đức vô cùng tận
8. Như Bồ-Tát Mật Hạnh
Quân trì bình đẳng nguyện
Suy xét các nhân duyên
Dùng đại huệ tán thán
Nơi cõi Phật hằng sa
Quảng huệ soi thấu khắp
Cung kính cúng dường Phật
Tấn huệ hàng phục Ma
Lễ bái chư Bồ-Tát
Huệ chiếu nơi ba cõi
Quan sát nghĩa Phật pháp
Tịnh Huệ, địa Ngục môn
Cứu độ vô lượng chúng
Thiện huệ trừ ác đạo
Phổ hóa chư chúng sanh
Minh Huệ phá chư ám
Khai mở pháp phương tiện
Tán huệ ly phiền nảo
Giải thoát các trói buộc
Pháp huệ độ chúng sanh
An nhiên thanh tịnh địa
Như huệ khuyến đại chúng
Thầy lớn của Trời, Người
Đẳng huệ nhiếp tất cả
Thị hiện vô biên thân
Mật huệ khai đạo pháp
Mở môn đại cam lộ
Hải huệ nhập pháp giới
Im lặng dường như không
Đạo huệ độ quần Ma
Chuyển sức thần thông lực
Nghĩa huệ chơn lược thuyết
Thí dụ các nhơn duyên
Thí huệ cúng dường Phật
Hồi hướng khắp pháp giới
Thắng huệ mau thành tựu
Nghĩa pháp không cùng tận
Oai huệ đức hộ pháp
Giữ gìn tạng Bí-Yếu
Viên huệ pháp đầy đủ
Xoay dần trong chúng sanh
Nguyện huệ lòng bình đẳng
An lạc thành Tịnh-Độ
Các trí huệ như thế
Tập nhứt thiết chủng trí
Trời người không đến được
9. Như Lai trọn nơi pháp
Thành tựu vô biên thân
Trí huệ cũng như thế
Dạo đi trong Tam-Giới
Bằng cỗ xe Mật-Pháp
Nơi hằng sa thế giới
Tự tại không chướng ngại
Bằng các món tam muội
Tịnh Ý đà ra ni
Thâm tâm hằng trong sạch
Quang-Minh đà ra ni
Soi sáng trong ba cõi
Viên Tịch đà ra ni
Thẩm sâu nơi đại định
Mật ngữ đà ra ni
Diễn nói nghĩa đại pháp
Đẳng giác đà ra ni
Khai ngộ cho tất cả
Viễn ly đà ra ni
Quán sát sự xa lìa
Tuệ Mạng đà ra ni
Thân tâm đủ giới đức
Mật Tạng đà ra ni
Gồm thâu các phương tiện
Bát Nhã đà ra ni
Trí huệ thường tự tại
Thật tướng đà ra ni
Thi hành pháp chơn thật
Hồi hướng đà ra ni
Nghĩ nhớ chư chúng sanh
Đức Tạng đà ra ni
Chỗ chúa nhóm công đức
Bảo sanh đà ra ni
Các vật báu hiện đến
Cụ túc đà ra ni
Đầy đủ các tướng tốt
Pháp cự đà ra ni
Ngọn lửa soi đêm tối
Chánh pháp đà ra ni
Năng trừ nguy hiểm nạn
Tán thán đà ra ni
Ca ngợi hạnh thanh tịnh
Bất động đà ra ni
Im lặng không ngủ nghĩ
Vô niệm đà ra ni
Xa lìa các trược uế
Vô gián đà ra ni
Cứu khổ nơi địa-ngục
Quảng Hỏa đà ra ni
Dập tắt lửa Ma giới
Tịnh giới đà ra ni
Trang nghiêm cõi Phật độ
Thiện Mật đà ra ni
An ủi chư chúng sanh
Tự tại vô chướng ngại
Trên suốt Trời Cứu Cánh
Dưới thấu ngục A-Tỳ
Phương tiện vì đại chúng
Mà chẳng ai hay biết
10. Như Lai hằng buông bỏ
Chẳng chút lòng tham tiếc
Ra đi vào Niết Bàn
Chơn thị tịch là vui
Chẳng bận rộn quấy nhiễu
Tánh không nhập pháp giới
Pháp giới tự rỗng không
Viễn ly, ly tất cả
Nhất niệm, niệm hườn không
Vô vi đại mầu mầu
Nhiệm-Mật vô cùng tận
Vướng vít chút bản ngã
Chẳng được gọi là chơn
Không Mật-Pháp, Thiền Na
Chẳng gọi đó là định
Không oai nghi vững chắc
Chẳng gọi đó là Luật
Không xuất gia giải thoát
Chẳng gọi đó là lìa
Nếu lìa mà chẳng lìa
Gọi đây là phàm tục
Chẳng được dự chánh pháp
Chánh pháp chẳng có tướng
Dụng tướng từ nơi tâm
Chánh pháp chuyển động mạnh
Chấn động cả ba cõi
Tiếng nổ lớn chớp nhoáng
11. Như Lai đấng Hùng Mãnh
Chế ngự Trời, Người thảy
Hàng Ma độ muôn chúng
Chư Phật hằng khen ngợi
Tán thán đại công đức
Hư không trỗi nhạc âm
Cúng dường đấng vô thượng
Chuẩn-Đề Vương đức Phật
Hoa rãi như mưa lớn
Tiếng linh báu hòa reo
Tỳ Bà trỗi nhịp khúc
Chập chả, trống chiêng khua
Các âm thanh thượng diệu
Ca ngâm, vịnh, múa hát
Vì để cúng dường Phật
12. Bậc Vô Thượng Đạo Sư
Thành tựu pháp chơn như
Siêu vượt trong Tam Giới
Đà Ra Ni Tổng Trì
Mật pháp hàng Ma pháp
Sức mạnh Đại Tự Tại
Đều ở nơi kinh này
Mười phương ba đời Phật
Xưng dương cùng tán thán
Bổn nguyện tánh pháp màu
Chuẩn-Đề Phật vi diệu
Vì chúng hiện phân thân 
Bảy mươi câu chi Phật
Thị hiện băm hai tướng
Quốc độ đều riêng khác
Chật đầy cả hư không
Để ủng hộ kinh này
Đại Oai đức rộng lớn
Trí hùng dựng Phật môn
Thành lớn cõi Niết Bàn
Che chở các hiểm nạn
Khiến chúng sanh vào đạo
Mà tu tập kinh này
Lần đến đạo vô thượng
Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)
(Hết phẩm thứ mười bốn)
—————————————–
(Xin xem tiếp)
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN
QUYỂN VII
 
PHẨM Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO THỨ MƯỜI LĂM
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.24/5/2014.

No comments:

Post a Comment