Saturday 21 June 2014

ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI TU HÀNH NIỆM TỤNG LƯỢC NGHI.

 
 
ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI
TU HÀNH NIỆM TỤNG LƯỢC NGHI
Hán dịch: Đời Đường, Nước Bắc Thiên Trúc.
 
 * * *
Y theo kinh Quán Đỉnh Đạo Trường, nói Pháp môn tu Đà Ra Ni, cầu mau xa lìa biển lớn sinh tử chóng chứng Vô Thượng Bồ Đề. Trước hết vào Đạo Trường Quán Đỉnh trong Hải Hội của Chư Phật Như Lai. Nhận quán đỉnh xong, phát tâm hoan hỷ theo Thầy gần gũi nhận Pháp tắc niệm tụng. Sau đó, ở trong tịnh thất, núi, rừng, sông, nơi Thượng Thắng bậc nhất xây dựng Đạo trường an trí Bản Tôn.
Người tu chân ngôn, hướng mặt về phương Đông nên dùng Cù ma Di xoa lau mặt đất, lấy hương Bạch Đàn chà xát làm bùn hương (hương nê) dùng tô Đàn hoặc làm hình vuông, hoặc làm hình tròn, kích thước lớn nhỏ tùy ý. Ở trên Đàn rải hoa, đốt hương cúng dường. Lấy hai bình đựng đầy nước hương đặt trong Đàn dùng để cúng dường.
Hành giả tắm gội (táo dục) hoặc chẳng tắm gội đều không có chướng ngại. Xong nên vận tâm suy tư quán sát Bản tính của tất cả chúng sinh vốn thanh tĩnh vì bị khách trần che lấp nên chẳng thấy Pháp tính của Chân Như thanh tịnh. Vì khiến cho thanh tĩnh nên phải chí tâm tụng Chân ngôn này 3 biến, 7 biến. Chân ngôn là:
“Án – Sa phộc bà phộc Thú đà tát phộc đạt ma sa phộc bà phộc thú độ Hám”
Tịnh Tam nghiệp Chân ngôn:
OM SVABHÀVA ‘SUDHA SARVA DHARMA SVABHÀVA ‘SUDDHA UHÀM
Do Chân ngôn này gia trì nên nghiệp Thân, Khẩu, Ý thảy được thanh tịnh. Sau đó đặt 5 Luân (5 vóc) sát đất quy mệnh lễ 10 phương tất cả Chư Phật, chư Đại Bồ Tát, chư Đại Thừa phương quảng. Quỳ gối phải sát đất: sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện.
- Quy mệnh mười phương Chính Đẳng Giác
Diệu Pháp Tối thắng, chúng Bồ Tát
Dùng nghiệp thanh tịnh Thân Khẩu Ý
Ân cần chắp tay cung kính lễ.
- Hữu Nghiệp Thân Khẩu Ý đã gây tội
Như Phật Bồ Tát đã sám hối
Nay con Trần sám (bày tỏ sám hối) cũng như vậy.
- Trong hạnh nguyện của Phật Bồ Tát
Ba nghiệp Kim Cương phát sinh Phước
Duyên Giác Thanh Văn với hữu tình
Gom chứa căn lành, tùy hỷ hết.
- Tất cả THẾ ĐĂNG ngồi Đạo trường
Hé mở mắt Giác soi ba cõi (3 Hữu)
Nay con quỳ gối xin khuyến thỉnh
Chuyển bánh xe Pháp diệu vô thượng.
- Bao nhiêu Như Lai, chủ Tam giới
Bậc đến Vô dư, Bát Niến Bàn
Con đều khuyến thỉnh khiến trụ lâu
Chẳng bỏ Bi nguyện cứu thế gian
- Sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ Phước
Nguyện con chẳng mất Tâm bồ Đề 2
Trong Diệu chúng của Phật Bồ Tát
Thường làm bạn lành chẳng rời bỏ
- Lìa nơi tám nạn sinh vô nạn
Túc mệnh Trụ Trí Tướng nghiêm thân
Mau lìa ngu si đủ trí tuệ
Thảy hay túc mãn Ba La Mật.
- Phú lạc phong nhiêu sinh Thắng tộc
Quyến thuộc rộng nhiều thường đông đúc
Bốn Vô ngại Biện, mười Tự Tại
Sáu Thông, các Thiền thảy viên mãn
Như Kim Cương Tràng với Phổ Hiền
Nguyện Tán hồi hướng cũng như vậy.
- Tiếp, lễ Bản Tôn với chư Thánh chúng. Chân ngôn là:
“Án – Bát na ma phệ” OM PADMA VIH
Do Chân ngôn này, làm lễ, nên Bản Tôn, Thánh chúng nhận làm Chủ Tể.
- Tiếp, đối trước Bản Tôn, ngồi Kiết già hoặc ngồi Bán già. Khởi tâm Đại Bi, ta tu Pháp này vì tất cả chúng sinh mau ra khỏi biển lớn sinh tử, chóng chứng vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề. Trước hết mài các loại hương dùng để xoa tay, sau đó kết nơi Phật .
Bộ Tam Muội Gia Ấn. Chắp 2 tay lại giữa rỗng, mở 2 ngón trỏ co lại phụ ở lóng trên của 2 ngón giữa, 2 ngón cái co phụ ở lóng dưới 2 ngón trỏ, thì ấn đó liền thành. Đặt ấn ở trái tim, tưởng 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp tùy hình của Đức Như Lai cho thật rõ ràng từng phận như đối diện trước mặt, chí tâm tụng Chân ngôn 7 biến. Chân ngôn là:
“ÁN–Đát tha nga đổ na bà phộc dã Sa phộc hạ” OM TATHÀGATA UDBHAVÀYA SVÀHÀ
Do ấn này với tụng Chân ngôn cho nên liền cảnh giác tất cả Như Lai, thảy sẽ hộ niệm gia trì cho hành giả. Dùng quang minh chiếu chạm lên thân của ta, bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt, thọ mệnh lâu dài, Phước đức tăng trưởng. Chúng Thánh của Phật Bộ vui vẻ ủng hộ. Đời đời kiếp kiếp xa lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
- Tiếp, kết Liên Hoa Bộ Tam Muội Gia Ấn: Chắp 2 tay lại giữa rỗng, bung ,ở 2 ngón trỏ,2 ngón giữa, 2 ngón cái, 2 ngón vô danh, co lại như hình hoa sen. Đặt ấn ở trái tim, tưởng Đức Quán Tự Tại với đầy đủ tướng tốt đẹp. Tụng Chân ngôn 7 biến rồi xả ấn ở bên phải đỉnh đầu. Chân ngôn là:
“ÁN – Bát na ma nại bà phộc dã Sa phộc hạ” OM PADMA UDBHAVÀYA SVÀHÀ
Do ấn này với tụng Chân ngôn cho nên liền giác ngộ, bậc Trì Liên Hoa của Đẳng Quán Tại. Tất cả Bồ Tát, Chúng Thánh của Liên Hoa Bộ thảy đều vui vẻ gia trì hộ niệm. Hào quang của tất cả Bồ Tát chiếu chạm đến thân của Hành giả, bao nhiêu tội chướng đều được trừ diệt, tất cả Bồ Tát thường làm bạn lành.
- Tiếp, kết Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn: Tay trái lật lòng bàn tay hướng ra ngoài, đè lưng bàn tay phải đặt lên lưng bàn tay trái. Lấy ngón cái, ngón út của 2 tay, tướng tay câu móc như hình chày Kim Cương. Đặt ấn ở trái tim, tưởng Đức Kim Cương Thủ Bồ Tát, tụng Chân ngôn 7 biến, xả ấn ở bên trái đỉnh đầu. Chân ngôn là:
“ÁN – Phộc nhật lỗ na bà phộc dã Sa phộc hạ” OM VAJRA UDBHAVÀYA SVÀHÀ
Do ấn này với tụng Chân ngôn cho nên cảnh giác chúng Thánh của Kim Cương Bộ, tất cả Bậc Trì Kim Cương gia trì ủng hộ, bao nhiêu tội chướng thảy đều trừ diệt, tất cả sự đau khổ chẳng dính nhiễm vào thân, sẽ được thể bền chắc của Kim Cương. 3
- Tiếp, kết Hộ Thân Tam Muội Gia Ấn: Hai tay cùng cài nhau bên trong, bên phải đè bên trái. Dựng đứng 2 ngón giữa cùng dính đầu ngón. Co 2 ngón trỏ như hình móc câu đặt ở lưng ngón giữa đừng để cho chúng chạm nhau. Kèm 2 ngón cái đè lên 2 ngón vô danh, liền thành. Ấn vào 5 nơi trên thân là vầng trán, vai trái, vai phải, trái tim, cổ họng, rồi xả ấn trên đỉnh đầu. Đều tụng Chân ngôn 1 biến. Chân ngôn là:
“ÁN – Phộc nhật la nghi nãnh bát la nhĩ bát đa dã Sa phộc hạ” OM VAJRA AGNI PRADÌPTÀYA SVÀHÀ
Do kết ấn này với tụng Chân ngôn gia trì cho nên liền thành Bị Kim Cương Giáp Trụ (mặc giáp trụ Kim Cương). Bao nhiêu Tỳ Na Dạ Ca, các Ma, loài gây chướng ngại đều thoái lui chạy tán loạn, đều thấy hào quang của hành giả trùm khắp thân uy đức tại. Nếu ở núi, rừng, với ngay nơi hiểm họa thảy đều không có sợ hãi. Tai họa về nước, lửa … tất cả ách nạn, Hổ, Lang, Sư tử, đao, gậy, gông, khóa, các việc như vậy chẳng thể tiêu diệt. Người nhìn thấy vui vẻ. Sau khi chết, chẳng tùy theo nẻo ác sẽ sinh về Quốc thổ Tĩnh Diệu của Chư Phật.
- Tiếp, kết Kim Cương Luân Đại Bồ Tát Đại Uy Đức Khế xong vào Man Noa La nhận được 3 loại Luật nghi kh6ng có chướng ngại của 3 đời. Do vào Man Noa La, thân tâm đầy đủ Vi trần số Tam Ma Gia của Vi trần sát Thế giới mà không có làm cầm giới. Hoặc nhân co thân, cúi xuống, ngửa lên, nói ra lời, hơi thở ra, khởi tâm động niệm quên mất Tâm Bồ Đề, thụt lùi căn lành. Dùng ấn khế Mật ngôn, phương tiện Thù Thắng này tụng trì tác ý hay trừ khiển (phạm Khiên cữu) lỗi lầm sai phạm, Tam Ma Gia như cũ tăng thêm ánh sáng hiển hiện nhiều hơn. Hay tĩnh Thân Khẩu Ý ắt thành nhập tất cả Man Noa La, đắc được quán đỉnh Tam Ma Gia. Nên kết ấn tụng Chân ngôn 7 biến. Hai tay cài nhau bên trong, dựng 2 Định (trỏ) dùng 2 Niệm (giữa) buộc quanh 2 Định (trỏ). 2 Tuệ (cái) kèm duỗi thẳng. Đặt khế ngay trái tim. Thành tâm tụng 7 biến. Chân ngôn là:
1. Nẵng mô tất đề lý dã địa vĩ ca nẫm NAMAH STRIYADHVIKÀNÀM
2. Tát phộc đá tha nga đa nẫm TATHÀGATANÀM
3. Ám ÀM
4. Vĩ la thời vĩ la thời VIJARI VIRAJI
5. Ma ha tát yết la phộc nhật lý MAHÀ CAKRA VAJRI
6. Sa đá sa đá SATA SATA
7. Sa phộc đế sa phộc đế SARATE SARATE
8. Đát la dĩ đát la dĩ TRAYI TRAYI
9. Vĩ đà ma nãnh VIDHAMATI
10. Tam bàn nhạ nãnh SAMBHAMJANI
11. Đát la ma đề tất đề TRAMATI SIDDHI
12. Nghĩa lý đát lãm AGRIYE TRAM
13. Sa phộc hạ SVÀHÀ
NAMAH STRIYADHVIKÀNÀM TATHÀGATANÀM – ÀM VIJARI VIRAJI _ MAHÀ CAKRA VAJRI – SATA SATA – SARATE SARATE – TRAYI TRAYI – VIDHAMATI SAMBHAMJANI TRAMATI SIDDHI AGRIYE TRAM SVÀHÀ
Khi tụng Chân ngôn này, tác quán niệm là: “Tâm giới Hư không tràn khắp Pháp giới, hữu tình trong 6 nẻo sống chết đều được vào phổ tập hội đại Man Noa La, đẳng đồng với Thánh giả”
- Tiếp, kết Định Ấn, vào Tứ vô lượng tâm quán. Thoạt tiên, vào Từ vô lượng Tâm định dùng Tâm Ân tĩnh, duyên khắp tất cả hữu tình thuộc 4 loài (Tứ sinh) trong 6 nẻo đều được Như Lai Tạng, đầy đủ 3 loại Thân, Khẩu, Ý Kim Cương. Dùng sức công đức tu Tam Mật của ta, nguyện cho tất cả hữu tình, đẳng đồng như Phổ Hiền Bồ Tát. Quán như vậy xong, liền tụng Đại Từ Tam Ma Địa Chân ngôn là:
“ÁN – Ma hạ muội đát la dã Sa phả la” OM MAHÀ MAITRIYA SPHARA
- Tiếp, nhập vào Bi vô lượng Tâm Tam Ma Địa Trí. Dùng Tâm Bi Mẫn duyên khắp tất cả chúng sinh thuộc 4 loài (Noãn, thai, thấp, hóa) trong 6 nẻo, đắm chìm trong biển khổ sinh tử chẳng ngộ Tự Tâm, vọng sinh phân biệt, khởi mọi thứ nghiệp phiền não. Chính vì vậy cho nên chẳng đạt sự bình đẳng của Chân Như như Hư không, khởi hằng hà sa công đức. Dùng lực gia trì tu Tam Mật của ta, nguyện cho tất cả hữu tình đẳng đồng với Hư Không Tạng Bồ Tát. Quán như vậy xong, liền tụng Đại Bi Tam Ma Địa. Chân ngôn là:
“ÁN – Ma ha ca lỗ na dã Sa phả la” OM MAHÀ KÀRUNAYA SPHARA
- Tiếp, nhập vào Hỷ vô lượng Tam Ma Địa Trí. Dùng tâm thanh tĩnh duyên khắp tất cả hữu tình thuộc 4 loài trong 6 nẻo, xưa nay thanh tĩnh giống như hoa sen chẳng nhiễm bụi nhơ, tự tính thanh tĩnh. Dùng lực công đức tu Tam Mật của ta nguyện cho tất cả Hữu tình, đẳng dồng với Quán Tự Tại Bồ Tát. Quán như vậy xong, liền tụng Đại Hỷ Tam Ma Địa. Chân ngôn là:
“ÁN – Truật đà bát la mô na sa phả la” OM ‘SUDDHA PRAMODA SPHARA
- Tiếp, nhập vào Xả vô lượng Tâm Tam Ma Địa Trí. Dùng Tâmbình đẳng duyên khắp. Tất cả Hữu tình thuộc 4 loài trong 6 nẻo đều là ngã, ngã sở. Lìa Uẩn giới và lìa Năng thủ, Sở thủ. Ở nơi sự bình đẳng của Pháp Tâm vốn chẳng sinh, tính tướng Không . Dùng lực công đức tu Tam Mật của ta, nguyện cho tất cả Hữu tình , đẳng đồng với Hư Không Tạng Bồ tát. Quán như vậy xong , liền tụng Đại Xả Tam Ma Địa. Chân ngôn là:
“ÁN – Ma hô bế yết sái sa phả la” OM MAHÀ UPEKSA SPHARA
Người tu chân ngôn , do tập 4 vô lượng Tâm định tụng Chân ngôn , cho nên bao nhiêu tội chướng, ách nạn về mọi loại Ma, người, trời thảy đều diệt trừ . Tích tập vô lượng Phước trí . Thân tâm : điều nhu ( nhu hòa ) , kham nhẫn , tự tại .
- Tiếp, kết Luân Đàn Ấn Hai tay đều nắm Kim Cương quyền, Tiến Lực, Đàn Tuệ ( 2 ngón trỏ, 2 ngón út) trợ nhau móc cột. Ấn ở miệng, tụng Chân ngôn, liền thành, nhập vào tất cả Man Noa La. Tiếp, đặt ở đỉnh đầu ở chốn đã xây dựng Đạo Trường đều thành Đại Man Noa La như Bản Tôn tự dựng Luân Đàn. Chân ngôn là :
“ ÁN- Phộc nhật la Tác ngật la Hồng nhược hồng noan hộc “ OM – VAJRA CAKRA HÙM JAH HÙM VAM HOH
Do kết Ấn này tụng chân ngôn gia trì cho nên người tu hành giả sử có vượt Pháp, sai lầm mất 3 nghiệp, phá Tam Ma Gia giới, thì cũng hay trừ các lỗi lầm đều được viên mãn.
- trái co vào lòng tay. Đem ngón cái tay phải hướng vào thân triệu mời. Chân ngôn là:
“ ÁN –A lô lễ ca y tứ y tứ Sa phộc hạ” OM  AROLIK EHYEHI SVÀHÀ
Do Chân ngôn Ấn này gia trì cho nên Bản Tôn Bồ Tát vượt Bản Thệ cùng các Thánh
Chúng đi đến Đạo Trường gia trì cho người tu hành mau mãn Bản nguyện.
- Tiếp, kết Mã Đầu Minh Vương Ấn tịch trừ kiết giới Chắp 2 tay lại, co ngón trỏ, ngón vô danh ở hai trong bàn tay cùng tựa lưng nhau, mở cứng 2 ngón cái, liền thành. Đem ấn xoay 3 vòng bên trái; Tâm tướng tịch trừ các loài gây chướng, Ma, Quỷ, Thần, Tỳ Na Dạ Ca lui ra chạy xa. Đem ấn xoay 3 vòng bên phải và đưa lên trên đưa xuống dưới. Liền thành Đại giới vững chắc. Chân ngôn là :
“ ÁN- A mật lật đổ nạp bà phộc Hồng phán tra Sa phộc hạ” OM AMRTA UDBHAVA HÙM PHAT SVÀ HÀ
- Tiếp, hiến Ứ Già Hương Thủy Ấn Hai tay bưng bình chứa nuớc Ứ già tràn đầy nước hương thơm với hoa từng mùa, đưa lên vầng trán dâng hiến. Chân ngôn là :
“ ÁN- Ma sa ma Sa phộc hạ” OM GAGANA SAMA ASAMA SVÀHÀ
Do hiến nước hương Ứ Già cúng dường khiến cho hành giả được 3 nghiệp thanh tĩnh, tẩy trừ tất cả tội cấu phiền não. Từ Thắng giải hành điạ đến Thập Điạ và Như Lai điạ sẽ chứng Ba La Mật của Điạ Như Thế, thời được tất cả Như Lai ban cho nước Pháp Cam Lộ rưới lên đầu.
- Tiếp, kết Hiến Tòa Ấn Hai tay tác Liên Hoa hợp chưởng, mở duỗi 2 ngón vô danh, co đầu ngón như hình hoa sen mới nở. Chân ngôn là :
“ ÁN – Ca ma lã Sa phộc hạ” OM KAMALA SVÀHÀ
- Tiếp, kết Phổ Cúng Dường Ấn. Chắp 2 tay lại hơi giao nhau, bên phải đè lên bên trái, đặt ấn ở trên trái tim. Tụng Chân ngôn 5 biến Từ Ấn tuôn ra mọi loại mây hiển cúng dường: Hương bột, hoa man, hương đốt, thức ăn , đèn sáng, Hiền bình, Kỹ nhạc tuyệt diệu của cõi trời… cúng dường khắp cả Chư Phật Bồ Tát, Bản Tôn, Thánh Chúng . Chân ngôn là:
“ Nẵng mô tát phộc đát tha nghiệt đế tỳ dụ vĩ thấp phộc mẫu khế tỳ dược. Tát phộc tha khiếm ổn ná nga đế sa phả la tứ hàm nga nga nẵng kiếm Sa phộc hạ.”
NAMAH SARVA TATHÀGATEBHYAH – VI’SVA MUKHEBHYAH – SARVATHÀ KHAM UDGATE SPHARA HÌMAM GAGANAKAM SVÀHÀ.
Do Ấn Chân ngôn này Gia trì cho nên Chư Phật, Bồ Tát, Bản Tôn, Thánh Chúng đều được sự cúng dường rộng lớn chân thật. Pháp Nhĩ Thành. Tiếp , tụng Tán Thán:
Ca ma lã mục khê (KAMALA MUKHE)
Ca ma lã lỗ tả nẵng (KAMALA LOCANA)
Ca ma lã Tát nẵng (KAMALA SANA)
Ca ma lã hạ sa đá (KAMALA HASTA)
Ca ma lã bà mẫu nãnh (KAMALA SUMANA)
Ca ma lã ca ma lã tam bà phộc (KAMALA KAMALA SAMBHAVA)
Sa ca lã ma lã khất xoa lã (SUKALA MALA KSARA)
Nẵng mô nẵng mô sa đỗ đế (NAMO NAMO STUTE)
- Tiếp, kết Bản Tôn Tâm Mật Ấn
Theo giáo tương ứng làm niệm tụng Đế quán thân Bản tôn: tướng đẹp Phóng khắp vô lượng ánh sáng lớn Bao nhiêu khổ loại chúng sinh. Mong soi chiếu đến đều an lạc. Tụng bản Chân ngôn bảy biến xong. Buông ấn trên đỉnh như rũ xuống.
TÂM ẤN là : Hai tay chắp lại giữa trống rỗng. Hợp cổ tay , 2 ngón cái đi qua đi lại.
Thánh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (Chân ngôn như văn)
- Tiếp, lấy tràng hạt phụng trì đội trên đỉnh đầu gia trì 7 biến. Chân ngôn là:
“ ÁN – Vĩ lộ tả nẵng ma lã Sa phộc hạ” OM VAIROCANA MÀLA SVÀHÀ.
- Tiếp, dùng Thiên Chuyển Chân ngôn gia trì 7 biến. Chân ngôn là:
“ ÁN- Phộc nhật la ngu tứ dã nhạ phá tam ma duệ Hồng” OM VAJRA GUHYA JÀPA SAMAYE HÙM
Gia trì xong liền phát nguyện là:
“Nguyện cho sự mong cầu con với tất cả Hữu tình, về Thế gian, Xuất thế gian, Đại nguyện Thù Thắng mau được thành tựu”
Hai tay cầm tràng hạt đặt ở trái tim, tụng Chân ngôn 1 biến. Cứ đếm tiếng của chữ cuối cùng thì lần một hạt. Chẳng gấp chẳng chậm chẳng cao chẳng thấp xưng hô chữ của Chân ngôn mỗi mỗi rõ ràng. Hoặc tác Kim Cương tụng: đầu lưỡi hơi lay động ngậm môi răng lại. Lìa các sự tán loạn, nhất tâm chuyên chú vào Bản Tôn đừng duyên theo tướng khác. Hoặc 1000, hoặc 100 thường xác định biến số. Sau khi niệm tụng xong, dâng tràng hạt đỉnh lễ chí thành phát nguyện. Đặt tràng hạt vào chỗ cũ (bản xứ) lại kết Bản Tôn Tâm Mật Ấn niệm tụng. Xả ấn như trước.
Ca ngợi, cúng dường thật ân cần
Dâng hiến Ứ Già xưng Bản nguyện
Lại dùng Mã Đầu Minh Vương Ấn
Tâm chuyển Chân ngôn thành Giải giới
Như trước thỉnh Tôn giáng nhập ấn Ngón cái bật ra (ngoài) thành Phụng tống.
Chân ngôn là:
“ÁN A lỗ lực ca nga lạc nga lạc Sa phộc hạ” OM AROLIK GACCHA GACCHA SVÀHÀ.
Hành giả phụng tống Thánh Chúng xong. Lại kết Định Ấn khởi Từ bi:
Gia hộ gia trì mặc Giáp trụ
Lễ xong, lui thoái lại kinh hành
Y Pháp như vậy mà tu hành
Mau gom phước trí được thần thông
Đời này được vào Hoan Hỷ địa
Mười sáu kiếp sau thành Chính Giác.
* * *
Hán dịch: Đời Đường. Nước Bắc Thiên Trúc.
 
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.22/6/2014.

No comments:

Post a Comment