Sunday 15 June 2014

BỘ MẬT TÔNG – TẬP 3.

 
BMT05a
BỘ MẬT TÔNG
(Bốn Tập)
 
C. TẬP BA
KINH CHUẨN ÐỀ ÐÀ LA NI HỘI THÍCH
Quyển Thượng
1. Lời tựa của ngài Hoằng Tán
2. Phần kinh văn
3. Nghi quỹ niệm tụng
THẤT CÂU CHI PHẬT MẪU
SỞ THUYẾT ÐÀ LA NI KINH HỘI THÍCH 
Quyển Thượng 
Ðời Thiên Trúc, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Quảng Trí Bất Không
phụng chiếu dịch Phạn ra Hán văn.
Thanh Việt Ðông, Ðảnh Hổ Sơn, Ngài Ca Môn Hoằng Tán
phát Bồ Ðề  tâm hội thích (gồm thâu các bộ mà giải thích).
 
 * * *
LỜI TỰA
Một đời thuyết pháp của đức Như Lai, giáo lý của Ngài chia ra làm ba tạng: Gọi Tu đa la (Sutra), Tỳ nại gia (vinaya), Tô đạt lãm (Sastra); tức là Kinh, Luật, Luận. Tạng giáo tuy phân ra làm ba, nhưng không ngoài hai môn: Hiển giáo và Mật giáo.
Hiển giáo nói rộng tánh tướng để hiểu ngộ lý mầu tu chứng Pháp thân.
Mật giáo chỉ khiến tụng trì được thầm lên Thánh vị và vượt ra ngoài sự hiểu biết.
Tuy nhiên ngộ có đốn, có tiệm. Ðịa vị có cạn có sâu. Tiệm phải trải qua các tầng bực a tăng kỳ kiếp. Ðốn tức liền vượt lên hàng Thập Ðịa. Cạn thì có các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Sâu tức hiện chứng Phật quả Ðại Thừa.
Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này tức là kinh tạng Mật giáo, thầm chứng thập thân của Phật qu Ðại Thừa. Ngoài tam tạng ra còn lập một tạp tạng gồm thâu các bộ Ðà Ra Ni. Hoặc ngoài tam thừa riêng một Tối Thượng Kim Cang thừa, tức là Ðà Ra Ni tạng. Nếu căn cứ Thần Biến Sớ thì chia Ðà Ra Ni làm Ðại Bất Tư Nghì Thành Phật Thần Thông Thừa. Cho nên kinh này lấy Ðại bí Mật làm Tông, pháp giới Chơn như làm Thể, Bất tư nghì làm Dụng, Tam Mật môn tối thượng thừa làm Giáo tướng, bởi vì  tất cả pháp đều từ trong thừa Kim Cang Ðà Ra Ni mà phát sinh ra, như ngàn dòng muôn phái phát nguồn từ núi Tích Thạch Côn Lôn. Mười hai phần giáo trong Tam tạng cũng phát xuất từ Tạng Tổng Trì Bí Mật, cho đến Lục độ Vạn hạnh cũng đều từ Ðà Ra Ni mà ra. Kinh có chỗ giải rằng: Chơn ngôn mỗi một chữ toàn là vô tướng pháp giới, thế thì Lục độ Vạn hạnh đâu không từ trong pháp giới ấy lưu xuất ra ư?  Cho nên nói rằng chữ ÚM (Án) nghĩa là ba thân cũng có nghĩa tất cả các pháp vốn không sanh, do tất cả pháp vốn không sanh ấy nên tức được bất sanh diệt, do bất sanh diệt nên tức được tướng vô sở đắc. Tướng vô sở đắc tức là Vô tướng Pháp giới; chính là chứng Pháp giới Chơn như đó vậy!
Bạch Tán Cái tụng rằng: “Tụng mãn một vạn tám ngàn biến, mỗi biến nhập vào vô tướng định gọi thành tràng kiên cố Kim Cang, tự tại được Phật trong loài người.
Lại nữa Ngũ Bí Mật Tu Hành Nghi Quỹ nói rằng: “Kim Cang Tát Ðoả là Phổ Hiền Bồ Tát, tức là tất cả trưởng tử của Như Lai, là tâm Bồ đề của chư Phật.”
Như kinh đã nói: Kim Cang Tát Ðỏa Tam Ma địa, gọi là pháp của chư Phật. Pháp này hay thành đạo của chư Phật. Pháp này hay thành đạo của các chư Phật, nếu lìa pháp này không có pháp riêng để thành Phật, Kim Cang ấy tên là Bát Nhã ba la Mật, hay thông đạt tất cả Phật, không ngăn, không ngại cũng như Kim Cang xuất sanh chư Phật.
Nếu người đối với Hiển giáo tu hành, phải trải qua thời gian lâu ba đại vô số kiếp, nhiên hậu mới chứng thành Vô thượng Bồ đề, trong thời gian đó mười tiến mà chín lui. Hoặc chứng Thất Trụ mà vì đã tu tập phước đức trí huệ hồi hướng Thanh Văn, Duyên Giác đạo quả nên không thể chứng Vô thượng Bồ đề. Còn y Tỳ Lô Giá Na Phật tự thọ dụng thân đã nói bên trong chứng được tự giác Thánh Trí pháp và địa vị thọ dụng thân trí Ðại Phổ Hiền Kim Cang Tát Ðỏa. Cho đến ứng thời tu tập pháp thân, trong một đại a tăng kỳ kiếp tu tập phước đức trí tuệ mới sanh vào được nhà của Phật. Người đó từ tất cả Như Lai tâm sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ Pháp hóa sanh, đắc Phật Pháp tài. Từ đây về sau thọ được pháp rộng lớn thâm sâu không thể nghĩ bàn, vượt lên hàng Nhị thừa Thập Ðịa. Vây cho nên biết yếu chỉ của Chơn ngôn bí Mật Thần chú còn chẳng phải chỗ hiểu biết của nhơn vị Bồ Tát, huống nữa kẻ quê mùa phàm phu tiểu trí đâu có thể so sánh thấu rõ trí ư?
Các nhà dịch và các sớ giải tóm tắt, là để nương nhau chỉ rõ cho kẻ sơ học trì tụng có chỗ nương tâm chứ chẳng dám nói giải thích.
Như Thần Biến Sớ nói rằng: Chỉ có tay Kim Cang mới rờ thấu chỗ kín đáo, chỉ có mắt Liên Hoa mới nhìn thông chỗ u minh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: Pháp bí Mật của chư Phật, duy chỉ Phật với Phật mới hiểu rõ nhau, chẳng phải các bậc Thánh có thể thông đạt. Chỉ trì tụng hay diệt được lỗi lớn, mau lên Thánh vị.
Thiên Trúc Chỉ Quán nói: Bậc Thượng Thánh mới có thể Hiển Mật cả hai đều truyền nói, kẻ phàm nhơn chỉ tay tuyên truyền Hiển giáo, không  thể tuyên truyền về Mật giáo. Vậy cho nên chẳng phải kẻ hạ phàm dám bàn nghĩ chỗ khả tri của sư tâm.
Nay xét Chuẩn Ðề Chơn ngôn này trước sau vài nhà dịch so ra thì Ngài Bất Không Tam Tạng được thâm đắc sự thừa truyền của Mật giáo, bởi xưa kia Ngài Kim Cang Tát Ðoả gần gũi bên đức Tỳ Lô Giá Na Mâu Ni Như Lai trước đã lãnh thọ nghĩa Du Dà Tối Thượng Thừa. Sau hơn trăm năm truyền đến Ngài Long Thọ Bồ Tát, Long Thọ lại hơn trăm năm truyền đến Long Trí A Xà Lê, Long Trí truyền đến Ngài Kim Cang Trí Pháp sư. Ngài Kim Cang Trí truyền qua Trung Hoa đem ngũ bộ Du Già và Tỳ Lô Giá Na Kinh, Tô Tất Quỹ Phạm, trao cho Ngài Bất Không  Tam tạng và sau khi Ngài Long Trí diệt độ, Ngài Tam Tạng Bất Không phụng lời di giáo dạo qua các nước Thiên Trúc, tại nơi Sư Tử Quốc, từ đó sự truyền bá tu học càng tăng thêm rộng lớn. Từ Ngài Long Trí A Xà Lê cầu khai mười tám hội Kim Cang quán đảnh và pháp Ðại bi Thai Tạng. Pháp hóa nối nhau từ đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, đến Ngài Bất Không Tam tạng đã trải qua sáu đời truyền cũng như sáu phen phiên dịch. Ngài Bất Không đi khắp xứ Thiên Trúc, lại được thâm truyền yếu chỉ nên bổn dịch Chơn ngôn Nghi Quỹ của Ngài rất rõ ràng đầy đủ.
Ngay sợ kẻ sơ học chưa rõ ấn khế và Phạn âm, do đây nên đối với trong các bản dịch phần nhiều lấy bản dịch của Ngài Kim Cang Trí mà hội rõ, nương đó các Ngài nối nhau truyền thọ không thôi nghỉ.
PHẦN KINH VĂN
Như thị ngã văn: Tôi nghe như vầy:
Giải thích: Như nghĩa là Như Lai, nói lý thật tướng của pháp Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni, cho nên nói như vậy (như thị). Tôn giả A Nan theo gần bên Phật nghe pháp như vậy, cho nên nói là tôi nghe (ngã văn).
Nhứt thời: Một khi
Giải: Ðây là thời gian nói kinh này vậy.
Bạt Già Phạm:
Giải: Ðây là tên các đức của Như Lai, còn xưng đủ sáu nghĩa: 1- Tự tại, 2- Rực rỡ, 3- Ðoan nghiêm, 4- Danh xứng, 5- Cát tường (Tốt đẹp), 6- Tôn quý. Rộng như các kinh đã giải thích.
Tại danh xưng Ðại Thành:
Giải: Tiếng Phạn nói Xá Vệ.
Thệ Ða Lâm:
Giải: Tên cũ thì nói rằng: Kỳ Thọ là vườn cây của ông Kỳ Ðà thái tử cúng thí vậy.
Cấp Cô Ðộc Viên: Vườn ông Cấp Cô Ðộc.
Giải: Cấp Cô Ðộc là Tu Ðạt Trưởng giả, riêng gọi vườn đó  là Trưởng giả đã rải vàng  khắp đất mua, hai người cùng chung cúng thí nên hiệp lại mà xưng.
Cùng đại Tỳ Khưu chúng, các chư Bồ Tát và chư Thiên, Long, Bát bộ trước sau đoanh vây chung quanh.
Giải: Ðây là thính chúng nghe pháp.
Nghĩ thương chúng sanh đời vị lai bạc phước ác nghiệp, liền nhập Chuẩn Ðề Tam Ma Ðịa, nói quá khứ Thất Cu Chi Phật đã nói Ðà Ra Ni rằng.
Giải: Nghĩ thướng nghĩa là đức Như Lai lân mẫn thương xót chúng sanh đời mạt pháp. Phạn ngữ Tam Ma Ðịa, Trung Hoa dịch là Ðẳng trì, nghĩa là giữ gìn Ðịnh Huệ bình đẳng. Cu Chi: Trung Hoa dịch là trăm ức. Ðà Ra Ni: Trung Hoa dịch là Tổng Trì nghĩa là tổng trì tất cả các pháp môn, hàm nhiếp vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Lại trì giữ các thiện không mất, trì giữ không cho ác sanh; cũng dịch là giá trị là ngàn cái ác nhị biên, giữ gìn các thiện trung đạo. Biệt danh là Thần chú, nguyên không  thể phiên dịch chính xác, bởi hàm có nhiều nghĩa, nên không  thể dùng văn tự lời nói mà có thể giải thích rốt ráo. Chính đó là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, là Tâm ấn bí Mật đại bất tư nghì của chư Phật vậy.
1 – Nẵng mồ táp đa (dẫn) nẫm. 2 – Tam miệu tam một đà (dẫn) cu (dẫn) chi nẫm (dẫn) 3 – Ðát nễ dã (nhị hiệp) tha (dẫn). 4 – Úm (án). 5 – Giả lễ. 6 – Chủ lễ. 7 – Chuẩn nê. 8 – Ta phạ (nhị hiệp) hạ (dẫn).
Giải: Phàm tụng Chơn ngôn chữ Úm (Án) phải kéo dài ra, câu cần phải rõ ràng phân minh, tiếng giọng không chậm không mau, sau đây sẽ giải thích rõ.
Chơn ngôn này có tám câu: Ba câu trên là  lời quy y chư Phật đã nói, năm câu dưới mới chính là Thể của Thần chú.
Trên đây nói chữ (dẫn) nghĩa là kéo dài ra, còn tiếng (nhị hiệp) là hai chữ hợp lại thành một âm. Ngài Kim Cang Trí dịch thành Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Phạ Ha. Chữ Ða chữ Nẫm trên là đều đưa giọng tiếng nương miệng. Chữ Lệ là khứ thinh. Ngài Ðịa Bà Ha La dịch  thành Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha. Ngài Xà Na Cấp Ða dịch thành: Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Tóa Ha. Ngài Thiên Tức Tai dịch thành: Nẵng Mồ Táp Bát Ða Nẫm, Tam Miệu Ngật Tam Một Ðà Câu Trí Nẫm, Ðã Nễ Dã Tha. Úm (án) Tả Lệ Tổ Lệ Tôn Nễ Ta Phạ Hạ. Chữ Mồ là nhập thinh, chữ Bát Ða là nhị hiệp, chữ Tha là khứ thinh, chữ Úm (án) và hai chữ Lệ đều là dẫn thinh, chữ Tôn là thượng thinh, chữ Nễ là dẫn thinh, còn các chữ khác đều đồng như trên. Ngài Pháp Hiền dịch cũng đại đồng như thế, chỉ có Ngài Thiên Tức Tai câu đầu thì đồng, câu sau hai chữ lại nhị hiệp, chữ Tổ chữ Tôn hơi liền trong miệng. Sở dĩ các Ngài dịch không đồng, đều do Phạn âm chuyển có nặng nhẹ, cho nên chữ cũng bất nhứt. Song đã Phạn âm tức lấy âm của chữ chứ không lấy nghĩa của chữ. Nếu người rành giỏi Phạn âm, tụng những bản dịch của các Ngài trên đều không có khác nhau. Hãy nên lấy một bản dịch mà tụng, chỉ cần nơi Phạn âm không lầm là được. Phàm là chữ đưa nương bên miệng ấy, là cần phải cái lưỡi chun lại rồi dui ra, tức được cái âm thinh kia vậy.
Nẵng Mồ hoặc là Noa Ma, hoặc là Nạp Mồ hoặc là Nam Mô, Trung Hoa dịch là Quy Mạng cũng nói là Quy Y Ðát Nễ Giả Tha: Trung Hoa dịch Sở Vị: nghĩa là cũng nói Tức thuyết: (Liền nói). Ta Phạ Hạ dịch nghĩa là: Thành Tựu cũng nói rằng: Cát Tường, Viên Tịch, Tiêu Tai, Tăng Ích, cũng nói là nghĩa Vô Trụ, tức là Vô Trụ Niết Bàn Tận Vị Lai Tế Lợi Ích Hữu Tình Vô  Tận Kỳ Hạn vậy.
Nếu có người tu hạnh Chơn ngôn, xuất gia hay tại gia Bồ Tát. Tụng trì Ðà Ra Ni này mãn chín mươi vạn biến, những tội ác đã tạo trong vô lượng kiếp như: thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, ngũ vô gián thảy đều tiêu diệt. Sanh chỗ nào thường gặp chư Phật, Bồ Tát, giàu có nhiều của báu, thường được xuất gia.
Giải: Thập ác nghĩa là: giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, tham, giận, tà kiến. Tứ trọng phái bốn cấm giới: Sát, trộm, dối, dâm. Ngũ nghịch: 1- Giết cha, 2- Giết mẹ, 3- Làm thân Phật chảy máu, 4- Giết A La Hán, 5- Phá sự hòa hợp của chúng Tăng. Nếu tạo một nghịch tội tức đọa A Tỳ địa ngục thọ khổ một kiếp, đủ năm tội nghịch thì gọi là ngũ vô gián tội. Phạn ngữ A Tỳ, Trung Hoa dịch là Vô Gián, nghĩa là  đọa trong địa ngục này một đại kiếp thọ khổ không xen hở một chút gảy móng tay.
Nếu có tại gia Bồ Tát tu trì giới hạnh kiên cố không lui, tụng Ðà Ra Ni này thường sanh cõi trời, hoặc trong cõi người, thường làm bậc quốc vương, không đọa ác thú gần gũi hiền Thánh, chư Thiên kính ái ủng hộ gia trì, nếu có việc kinh doanh trong đời, không  bị các tai hoạch. Nghi dung đoan chánh, lời nói nghiêm oai, tâm không  phiền não. Nếu tại gia Bồ Tát, đầy đủ các cấm giới, ba thời niệm tụng y giáo tu hành. Hiện đời sở cầu xuất thế gian tất địa, định huệ hiện tiền, chứng địa vị ba la Mật viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Giải: Tại gia Bồ Tát tuân giữ năm giới, mười điều thiện và đại giới của Bồ Tát cho nên nói rằng: Tu hành giới hạnh. Xuất gia Bồ Tát giữ gìn đầy đủ giới Sa Di, giới Tỳ Khưu, và giới Bồ Tát cho nên nói rằng: Ðủ các cấm giới. Xuất thế gian Tất Ðịa, tức là Ðịnh Huệ hiện tiền, cho đến chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Tất Ðịa: Ðây nói là thành ý, nghĩa là thành tựu đại nguyện sở cầu thế, xuất thế gian. Do hàm nhiều nghĩa nên không  phiên dịch chính xác. Nói chứng Ðịa ấy, Ðà Ra Ni giải thích rằng: Trong Du Dà từ phàm đến Thánh, tổng là bốn ngôi vị:
1 – Thắng Giải Hạnh Ðịa, thường gọi là Hiện Tiền Ðịa.
2 – Phổ Hiền Hạnh Nguyện Ðịa, thông thường gọi là Thập Ðịa.
3 – Ðại Phổ Hiền Ðịa tức là Ðẳng Giác Ðịa.
4 – Phổ Chiếu Diệu Ðịa tức thành Chánh Giác Ðịa, cũng nói rằng: Thành Tỳ Lô Giá Na Tam Thân Phổ Quang Ðịa.
Ba la Mật: Có sáu món Ba la Mật và mười món Ba la Mật. Kinh Ðại Thừa Bảo Vương Ðẳng nói: Người hành giả trì tụng Chơn ngôn, hằng ngày được đầy đủ sáu món ba la Mật viên mãn công đức, cho nên trong các kinh Ðà Ra Ni nói: Hành giả tu Chơn ngôn hiện đời hay thành Vô thượng Bồ đề. Ngũ tự Ðà Ra Ni tụng rằng:
Chư Phật sức bổn thệ,
Hiện thành các việc Thánh.
Tức nơi trong một tòa,
Liền thành Tối Chánh Giác.
Nếu tụng mãn một vạn biến (Ngài Kim Cang Trí dịch mười vạn biến) tức nơi trong mộng thấy Phật, Bồ Tát, liền thổ ra vật đen (vật đen tiêu biểu cho ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh nên tự thấy trong miệng mửa ra vật đen, hoặc cơm đen.)
Người kia nếu tội rất nặng, tụng hai vạn biến (Các bản dịch khác nói hai mươi vạn biến) cũng thấy tự trong miệng mửa ra cơm đen.
Tức trong mộng thấy chư Thiên, đường, tự xá; hoặc lên núi cao hoặc thấy trên cây cao (không bị hệ lụy về tội nghiệp, nên nhẹ bước đi lên, thành tựu thiên nhơn, nên thấy thiên, đường, tự xá)
Hoặc nơi trong ao lớn tắm rửa (rửa trừ tội cấu được thanh tịnh)
Hoặc thấy bay bổng trên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc, nên thân khinh cử nhẹ nhàng)
Hoặc thấy cùng các thiên nữ an vui khoái lạc (nghĩa là do sức thiện căn giữ gìn tương ưng, nên thấy cùng vui khoái lạc)
Hoặc thấy thuyết pháp (được thị giáo lợi hỷ): dạy dỗ lợi ích vui mừng.
Hoặc thấy nhổ tóc cạo tóc (nhổ tóc là phép của Tây quốc ngoại đạo, nhổ tóc cạo tóc đều là tiêu biểu đoạn trừ căn gốc phiền não. Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc thấy nhổ tóc hay tự mình cạo tóc)
Hoặc ăn sữa cơm, uống bạch cam lồ (ăn sữa cơm là thành tựu thế gian phước thiện, uống cam lồ là được pháp vị xuất thế)
Hoặc vượt qua sông lớn, biển lớn  (được vượt qua biển khổ).
Hoặc thăng lên tòa Sư Tử (Ðắc được tòa Pháp Vương).
Hoặc thấy cây bồ đề (là kiến đạo tướng).
Hoặc thừa thuyền ( là thừa nương thuyền Bát Nhã, được tướng lên bờ giải thoát. Kinh Tôn Tất Ðịa nói: Hoặc thâý sư tử, voi, trâu, nai, ngỗng v.v… đều là tướng Tất Ðịa thành tựu).
Hoặc thấy Sa Môn (Ðược xa lìa nhiễm ô ở đời mà ra khỏi tam giới)
Hoặc thấy cư sĩ lấy áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu cho chánh, trắng là tiêu biểu cho tịnh, lấy bạch tịnh Chánh pháp mà phú hộ. Ngài Kim Cang Trí dịch: Lấy y che phủ nơi đầu)
Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng (Tiêu biểu phá vô minh phiền não tối tăm)
Hoặc thấy kẻ đồng nam, đồng nữ (Không bị tham dục phiền não nhiễm ô)
Hoặc trên cây có trái nhũ quả (Nhũ nghĩa là trắng, trắng đó là thiện nghiệp, nghĩa là được xuất thế, xuất thế gian thiện nghiệp quả báo)
Hoặc thấy người hắc tượng phu trong miệng phun ra lửa hừng hẫy, cùng đấu chiến với họ mà được thắng (Nghĩa là cùng với sân phiền não ma, cộng chiến cộng thắng)
Hoặc thấy trâu nước, ngựa dữ, đến chạm húc người trì tụng, hoặc đánh, hoặc nạt sợ mà bỏ chạy (Nghĩa là si phiền não ma, mình được thắng)
Hoặc ăn sữa tươi, cháo, sữa chín, cơm (Nghĩa là được thượng vị phước thiện thành tựu.)
Hoặc thấy Tô ma na hoa (Trung Hoa nói: Xứng ý hoa, sắc vàng trắng rất thơm, cây cao độ ba bốn thước che rủ xuống như lọng tàn, tiêu biểu chỗ mong cầu thiện pháp quyết chắc được xứng ý. Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Hoặc thấy mùi thơm hoa trắng, mùi hương thơm là tiêu biểu cho hương của Ngũ phần Pháp thân, nghĩa là được Ngũ phần thiện nghiệp)
Hoặc thấy bậc quốc vương (Ðược Ðại nhơn hộ niệm, được nghiệp tôn quý thù thắng)
Nếu không thấy những cảnh giới như vậy đó, phải biết người này đời trước đã tạo tội ngũ nghịch vô gián, nên trở lại tụng mãn bảy mươi vạn biến, liền thấy cảnh giới như trên, tức biết tội diệt thành tiên hạnh.
GIẢI: Ðây là khiến tụng bảy mươi vạn biến, trên nói một vạn, hai vạn sợ nghi lầm, nên như các Ngài dịch rằng: Mười vạn, hai  mươi vạn, sẽ được mộng thấy những cảnh giới như trên, đó đều là cái tướng chứng nghiệm thành tựu của người hành giả. Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ở trong mộng kia thấy người chủ Chơn ngôn xoay mặt mà đi, hoặc không cùng nói chuyện, nên phải lại cần khởi thủ công phu niệm tụng, như vậy trải qua ba phen. Nếu trong mộng thấy chủ Chơn ngôn cùng nói chuyện, phải biết người này không lâu sẽ thành tựu. Nếu không có cảnh giới, không nên tụng trì, nếu cưỡng niệm trì, sợ cùng người bị tai vạ (Vì người này không có căn cơ với pháp này, nên chọn pháp khác mà tu trì, ý riêng của dịch giả) khi mới bắt đầu tụng trì, nên ở chỗ tịnh thất kín đáo mà hạ thủ công phu.
1-Nhiên hậu y pháp họa vẽ bổn tượng (Chuẩn Ðê bổn tôn tượng) hoặc ba thời, hoặc bốn thời, hoặc sáu thời, y pháp cúng  dường cầu thế gian, xuất thế gian Tất địa, cho đến Vô thượng Bồ đề , tất cả đều được, nếu có tu trì Ðà Ra Ni này, phải biết vị lai thành tựu, xứ sở  có nạn hay không  nạn, tất địa chậm mau nên ở nơi tịnh thất, lấy Cù ma di thoa đắp một tiểu đàn, tùy sức cúng dường. Lấy kiết giới Chơn ngôn, kiết mười phương giới. (Bốn phương, bốn phương bàn, trên dưới). Lấy một bình nước hương thơm để tại trong đàn, nhứt tâm niệm tụng bình kia động chuyển, nên biết chỗ đã làm, việc sở cầu thành tựu, nếu không động chuyển việc kia không thành.
GIẢI: Kiết giới Chơn ngôn, kiết dưới đất làm giới hạn, tường vách làm giới hạn v.v… Trích ra trong Kim Cang Trí dịch rằng: Nếu nơi trước tượng Phật, hoặc trước tháp, chỗ thanh tịnh, lấy Cù Ma Di (phân trâu sạch) trộn với đất đắp làm cái đàn vuông bốn thước, lại lấy hương hoa, tràng phan, bảo cái, đồ ăn, đồ uống, đèn, nến, tùy sức mà bày biện trang nghiêm, y pháp cúng dường. Nếu muốn cầu nguyện, trước cần niệm tụng Thần chú gia trì trong nước hương thơm mà tán rải bốn phương, trên, dưới, mà kiết giới. Ðã kiết giới rồi, nơi đàn tứ giác mà chính giữa trung ương để một bình nước hương thơm. Người hành giả mặt hướng về Ðông phương, quì gối tụng 1080 biến, bình kia tức liền tự chuyển động, tùy ý Ðông Tây nhậm vận trên dưới. Ngài Ha La dịch rằng: Niệm chú trong nước hương thơm tán rải tám phương, trên, dưới, để làm kiết giới, nơi đàn tứ giác chính giữa trung ương, để một bình nước hương thơm, người trì chú ở trong đàn kia, mặt hướng Ðông phương, quỳ gối chú 1080 biến. Nói là gia trì hương thơm ấy, là phải tụng Căn bản Chơn ngôn (Chú Chuẩn Ðề) 21 biến sái vẩy nước khắp mười phương.
2-Lại phép nữa: Dùng một cái bát sành mới, thoa đắp hương thơm để nơi trong đàn, chuyên tâm niệm tụng, nếu cái bát kia chuyển động, việc tức thành tựu, nếu không chuyển động việc tức không thành.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Lấy một bình bát mới đem đốt hương thơm xông khắp trong ngoài, đựng bột hương thơm đầy bát, nước hương thơm và hoa thơm tốt, để trong đàn y như phép để bình trước mà làm, niệm tụng bát kia liền chuyển, cùng như bình không khác. Nếu muốn được biết tất cả việc thành tựu hay không thành tựu, tức thắp hương tác bạch rõ ràng trước Thánh tượng Chuẩn Ðề, những bổn nguyện bí quyết nghi tâm của mình. Nếu chuyển bên hữu tức thành tựu, còn tả chuyển thì không thành tựu.
3-Lại phép nữa: Muốn biết việc vị lai, trước thoa đắp một đàn nhỏ, khiến một đồng tử có đủ tướng phước đức, tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới thanh tịnh, dùng Thất Cu Chi Chơn ngôn gia trì, hương thơm thoa vào tay đồng tử, lại gia trì nơi cành hoa 7 biến, để trong tay đồng tử, khiến đồng tử che mặt đứng nơi trong đàn, lại lấy một cành hoa khác tụng Chơn ngôn gia trì một biến đánh lưng tay đồng tử việc lành dữ, đồng tử đều nói.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Khiến lấy một cành hoa đẹp, niệm tụng 108 biến, lấy bột hương thoa, đồng tử tay cầm hoa che mặt, lại tự tay lấy một cành hoa riêng niệm tụng đánh nơi thân đồng tử.
4-Lại phép nữa: Lấy một kính soi sáng để trong đàn, trước tụng Chơn ngôn gia trì cành hoa 108 biến, vậy sau lại tụng Chơn ngôn một biến đánh vào mặt gương một cái, nơi trên mặt gương liền có văn tự hiện nói việc thiện ác.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc sứ giả liền hiện thân trong gương, sứ giả ấy là sứ giả của Phật Mẫu Chuẩn Ðề.
5-Lại phép nữa: Muốn biết việc lành hay không lành, thành tựu hay không thành tựu. Lấy dầu thơm Tô ma na hoa, tụng Chơn ngôn gia trì 108 biến, thoa mặt ngón tay cái bên hữu, tụng Chơn ngôn âm thinh không đoạn dứt, khiến đồng tử xem trên mặt ngón tay, hiện hình tượng chư Phật, Bồ Tát, hoặc hiện văn tự nói đủ thiện ác.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc lấy châu sa, hoặc lấy Tô ma na hoa tẩm trong dầu mè thoa nơi ngón tay cái, niệm tụng 108 biến, tức hiện Thiên thần và hình tượng Tăng, Bồ Tát, Phật v.v… nếu tâm có chỗ nghi ngờ việc trong ba đời, mỗi mỗi hỏi đều biết, tức trên ngón tay cái tự hiện.
6-Lại phép nữa: Nếu có người bị quỷ mị làm bịnh, lấy nhánh dương liễu hoặc nắm cỏ tranh, tụng Chơn ngôn đập phủi trên thân người bịnh, tức được trừ lành.
GIẢI: Ngài Ha La dịch rằng: Dùng Thần chú, chú vào trong cỏ tranh, phủi nơi người bịnh, nếu được cỏ tranh thơm là đệ nhứt, không gặp cỏ tranh thơm cũng được. Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Lấy nhánh thạch lựu hay các loại cỏ tranh trắng thơm niệm tụng Thần chú đập phủi đó.
7-Lại phép nữa: Nếu người mắc trọng bịnh tụng Chơn ngôn 108 biến xưng tên người bịnh, lấy sữa bò tươi hộ ma tức lành bịnh.
GIẢI: Nghĩa là lấy các loại cỏ tranh thơm, trộn sữa tụng Chơn ngôn chú vào làm phép, bỏ vào trong lư lửa đốt gọi là Hộ Ma. Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Lấy cỏ tranh để trong sữa bơ niệm tụng 7 biến Thần chú bỏ vào trong lửa thiêu đốt, khiến cho bay khói xông  lên người bịnh, tức người bịnh được lành. Nói Tô ấy là bơ, nghĩa là lấy sữa bò nấu luyện thành lạc tức sữa chín, lấy lạc sữa chín nấu luyện thành lạc tức sữa chín, lấy lạc sữa chín nấu luyện thành sanh tô tức bơ, lấy sanh tô nấu luyện thành thục tô tức tô ma, lấy thục tô nấu luyện thành đề hồ.
8-Lại phép nữa: Nếu có trẻ hài nhi khóc dạ đề (khóc ban đêm) khiến đứa gái nhỏ bên mặt xe chỉ, tụng Chơn ngôn gia trì gút 21 gút, đeo nơi cổ trẻ hài nhi tức không khác dạ đề nữa.
GIẢI: Các bộ khác dịch rằng: Khiến đứa gái nhỏ xe chỉ ngũ sắc, tụng một Thần chú lại một gút, mãn 21 gút, cho bệnh nhơn, trẻ nam hay nữ v.v… đeo nơi cổ, các ác ma quỷ mị bệnh tức được trừ khỏi.
9-Lại phép nữa: Trước gia trì nơi bạch giới tử (hạt cải trắng) 108 biến, nhiên hậu lấy giới tử tụng Chơn ngôn một biến ném vào người bị bệnh quỷ mị. Mãn 21 biến quỷ mị kia chạy trốn, người bệnh trừ khỏi.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Hoặc lấy bạch giới tử để trong sữa bơ, lấy một ít giới tử tụng Thần chú một biến ném vào trong lửa một lần, như vậy trải qua 21 lần bệnh liền trừ khỏi.
10-Lại phép nữa: Hoặc có bệnh quỷ mị, lấy Cù ma di thoa một tiểu đàn, lấy than trấu vẽ nơi đất làm thành hình quỷ mị, tụng Chơn ngôn, lấy thạch lựu làm các roi gậy, quỷ kia khóc la trốn bỏ chạy mà đi.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Ðồng với pháp này. Ngài Ha La dịch: Bảo người bịnh đứng trước, lấy mực vẽ hình người bịnh kia, tụng Thần chú trong nhánh dương liễu đánh nơi hình vẽ đó cũng được trừ lành. Cù ma di đây nói là ngưu phẩn, phân trâu ở Tuyết sơn ăn toàn loại cỏ thơm, nên phân của nó dùng để đắp các đàn tràng tu Mật tông.
11-Lại phép nữa: Hoặc người bị quỷ mị làm đau ốm, mà người bệnh ở viễn xứ xa xôi, không thể tự đến được, hoặc người trì tụng không đến nơi bệnh nhơn, lấy nhánh dương liễu hay nhánh đào hoặc cành hoa, gia trì Thần chú 108 biên, sai người đem đến chỗ bệnh nhơn, hoặc lấy hoa bảo người bệnh ngửi, hoặc lấy hoa đánh bệnh nhơn, quỷ mị tức đi, người bệnh liền khỏi.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Bảo người đem đi nói người kia rằng: Ngươi đi. Ngài tên … sai ta đem roi về đánh ngươi đây, ngươi nếu không đi bị tổn đó, ngươi không được lảng vảng, nếu không đi roi đánh, tức đi.
12-Lại phép nữa: Nếu bị rắn mổ, hoặc bị quỷ nữ Noa kiết nễ bắt giữ, đi xung quanh bệnh nhơn tụng Chơn ngôn, bệnh kia liền khỏi.
GIẢI: Ði quanh bệnh nhơn tụng Thần chú vài vòng, tức khỏi.
13-Lại phép nữa: Nếu người mắc bệnh ung nhọt sưng  v.v… và bị các độc trùng cắn, lầy đàn hương nhồi dẻo hòa với đất làm bùn, tụng Chơn ngôn 7 biến thoa lên mụt ghẻ, tức lành.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Bảo lấy huân lục hương hòa với đất nước tịnh thủy, thoa nơi mụt, ung nhọt, ghẻ lở, tức lành.
14-Lại phép nữa: Nếu người đi đường tụng Chơn ngôn này, không bị giặc cướp làm thương tổn, cũng xa lìa các nạn ác cầm thú.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu đi đường hiểm trở trong ban đêm thường niệm chú Chuẩn Ðề, không bị giặc cướp, cọp beo, ác quỷ, các chỗ nạn sợ sệt, trì tâm niệm tụng để làm hộ thân, thì các nạn kia liền được tự diệt, nếu khi đi khất thực, thường trì chú này, không bị người ác, các loài chó dữ xâm hại, khất thực được dễ dàng.
15-Lại phép nữa: Nếu có sự lý luận tranh tụng đấu tranh và đàm luận cầu hơn, tụng Chơn ngôn này là thắng mạnh hơn hết.
GIẢI: Chuẩn Ðề Chơn ngôn cứng như chày Kim Cang, vật chi cũng đều đập nát không dám đương đầu, cho nên tranh tụng, lý luận, đàm thuyết, danh ngôn, pháp nghĩa, thảy đều được thắng.
16-Lại phép nữa: Nếu đi trong sông sâu biển lớn, tụng Chơn ngôn này không bị trôi chìm, và trong nước có các loài ác long, ma yết, cá sấu, cá mập làm tổn hại.
GIẢI: Ma yết đây nói rằng cá kình dài hơn mười mét, hoặc vài trăm mét, có thể nuốt các loại thuyền ghe lớn, nghĩa là các loại trùng rắn độc. Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc bị rắn cắn, liền bảo người kia đi quanh niệm tụng vài vòng liền khỏi.
17-Lại phép nữa: Nếu bị giam cầm tù tội, người ấy trì tụng Thần chú Chuẩn Ðề này mau được giải thoát.
GIẢI: Thể của Bồ đề tâm tự tánh vốn không, xa lìa tất cả vật, cũng như hoa sen, tánh không bị nhiễm bùn dơ. Nay Thần chú này từ nơi tâm Bồ đề của chư Phật lưu xuất ra, cho nên trì tụng ấy, tự nhiên mau được giải thoát.
18-Lại phép nữa: Nếu trong nước có tật bệnh, mười đêm lấy dầu mè, bột gạo thơm, hoà với bơ, mật, làm phép hộ ma tức được tai diệt, quốc độ an ninh.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc quốc độ mưa nắng không hòa, các loài lục súc, trâu, ngựa, bị dịch độc lưu hành; nên lấy dầu mè, bột gạo, đại mạch, gạo tẻ, đậu, bơ, mật, sữa tươi, sữa chưng chín, bạch nhũ mộc, các loại hương thơm đều để một bên. Thắp hương phát nguyện vì tất cả chúng sanh trừ khử tai nạn, tức tay thủ khế hộ thân tụng niệm, lấy các vật trước niệm tụng gia trì , bỏ vào trong lư lửa mà thiêu đó, như vậy bảy ngày, mỗi ngày ba thời, khi làm phép mỗi thời riêng tụng Thần chú đủ 1080 biến, tức được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam-Bảo thảy đều hộ niệm, cũng hay thành tựu tất cả đại nguyện. Ngài Ha La dịch: Nên lấy bơ hòa với mè, dầu mè, bột gạo, dùng ba ngón tay lấy vật kia một nhúm, đọc Thần chú một biến, bỏ vào trong lửa thiêu, hoặc trải qua bảy ngày bảy đêm sáu thời như vậy nối nhau không dứt, tất cả tai dịch đều tiêu diệt. Nói thủ khế ấy là tay kiết ấn vậy.
19-Lại phép nữa: Nếu cầu giàu có nhiều của báu, mỗi ngày lấy các món ăn làm phép hộ ma tức được tiền tài của báu giàu có.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu muốn cầu giàu có, lấy bột gạo dầu mè để trong bơ, sữa chưng chín, trong tay cầm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến bỏ vào trong lư lửa thiêu, tùy sức 7 ngày cho đến 49 ngày, tức được như nguyện. Ngài Ha La dịch: Lấy bơ hòa với gạo nếp tụng (chú 108 biến bỏ vào lửa thiêu đó, tùy tâm dã nguyện đều thành chắc chắn tài bảo tăng ích vậy.
Nói là Hộ ma ấy: Là các vật trước bỏ vào trong lư lửa thiêu để cúng dường. Kinh Tô Tất Ðịa nói: Nơi trước tôn tượng làm phép hộ ma, lư đảnh vuông một tấc tư, mặt bằng bề lượng sâu nửa tấc, bề cao bốn ngón tay. Lấy phân trâu và nước tiểu trâu ăn cỏ thơm ở núi Tuyết sơn để thoa dùng nước hương thơm sái vẩy. Hoặc làm cái lư tròn để chỗ niệm tụng kia, nếu ở trong phòng thất nên đem ra nơi ngoài có thể trông thấy tôn tượng mà xuyên ra cái lư, tùy sự nghiệp kia, y pháp mà làm các vật nhũ mộc v.v…và lấy hương hoa để bên hữu, đồ đựng hộ ma thiêu để bên tả, ngồi tòa cỏ mao (cỏ tranh). Nhiếp tâm lắng tịnh, trước tụng Bổn Tôn Chơn ngôn một biến (Thần chú Chuẩn Ðề), thỉnh an bổn tòa, y pháp cúng dường, nguyện đức Bổn Tôn thùy nạp phép thực hộ ma. Cây hộ ma có mười hai thứ, phương này không có, có thể dùng tử đàn hương (cây đàn hương tím), hoặc cây kiên thật nhũ mà thay đó, lấy nhánh ngay thẳng, dài hai ngón tay, hoặc mười ngón tay, đều chọn thứ mới tươi nhuận, xem trên dưới một mặt, để trong hương thủy rửa sạch, dầu bằng hướng bên ngoài, đầu thô hướng nơi thân, lấy sữa tươi, sữa chưng chín, bơ, mật, trộn hai đầu bỏ nơi trong lư lửa, như khi niệm tụng, để hai tay lại giữa hai đầu gối khi hộ ma thiên cũng nên như vậy. Hộ ma rồi, dụng bổn Chơn ngôn tịnh thủy, lấy tay đưa đi khắp nơi vẩy nước tán sái trong lư như vậy ba lần, hộ ma xong rồi như pháp đưa đi. Nếu lấy bơ mật dầu làm phép, phải dùng cái thìa đến chữ Ta Phạ Hạ, các tiếng chưa dứt liền rót vào trong lư, ban đầu lấy một thìa đầy bơ hộ ma (thiêu) một lần trong đó, thìa nhỏ thiêu (hộ ma) xong, trở ra lại lấy một thìa đầy bơ thiêu (hộ ma) một lần, trở lại hiến cúng ứ già cho đến cúng dường chuẩn theo như trước, trở ra lại kiết các ấn hộ thân, cho đến giải mới có thể đưa các Ngài đi, như sau sẽ rõ.
20-Lại phép nữa: Nếu muốn khiến người kính thương vui mừng ấy, trong câu Chơn ngôn xưng tên người kia, tức được hoan hỷ thuận phục.
GIẢI: Ngài Ha La dịch: Xưng danh tự người trước kia, đọc một câu Thần chú xưng tên một lần. Mãn 108 biến tức liền kính niệm.
21-Lại phép nữa: Nếu không có y áo niệm tụng tức được y áo.
22-Lại phép nữa: Trong ý mong cầu, niệm tụng đều được như ý.
GIẢI: Chuẩn Ðề Thần chú là tâm bảo của chư Phật, như ma ni châu ngọc, tùy niệm chúng sanh. Cho nên đều được như ý.
23-Lại phép nữa: Nếu người thân thể chi tiết đau nhức, gia trì trong tay 21 biến Thần chú, xoa bóp chỗ đau tức khỏi.
GIẢI: Nếu tự mình làm hoặc vì người khác làm đều được.
14-Lại phép nữa: Nếu mắc bịnh sốt rét và đau đầu, niệm Thần chú gia trì nơi  tay 21 biến xoa bóp cũng được trừ lành.
GIẢI: Các việc này đều được thành là nhờ sự tu hành trước hết, hoặc người tu hành trong thời gian dài, đã trì tụng Chuẩn Ðề Thần chú. Cho nên được tùy thủ ứng vật, thảy đều linh nghiệm, nếu ban đầu người mới trì tụng tu hành, Phạn âm chưa thuần thục, tâm không chuyên nhứt, chê bai không linh nghiệm, đắc tội rất nặng.
25-Lại phép nữa: Thoa đắp một đàn nhỏ, lấy một cái bát đồng đựng đầy tro củi thơm thanh tịnh, bảo đồng tử hai tay đè lên bát tro, người trì tụng nên tụng Thần chú, sứ giả của Bổn Tôn nhập vào thân của đồng tử, bát kia liền chuyển động, tức xuống lời đồng tử, tức tự kiết tam bộ tam muội gia ấn, tức tụng tam bộ Chơn ngôn, liền lấy đá mếm trơn viên phấn đưa qua cho đồng tử, đồng tử tức nơi trên đất họa vẽ việc quá khứ, vị lai, tốt xấu, lành dữ và thất lạc kinh luận, quên mất nghĩa khó, ấn chú, tức được biết rõ.
GIẢI: Trong đây không nói biến, hay là 108 biến, hoặc trì cho đến đồng tử tự kiết. Ấn chú làm hạn định.
26-Lại phép nữa: Hai bên quân địch nhau, viết Ðà Ra Ni này trên cỏ cây hoa, trei trên sào tre, bảo người kia tay cầm tụng Chơn ngôn, địch kia tức phá tán.
GIẢI: Vài điều trên đây như các nhà dịch đều thiếu.
27-Lại phép nữa: Nếu người nữ không có con trai hay con gái, lấy ngưu huỳnh, nơi trên vỏ cây hoa viết Thần chú này, khiến đeo không lâu sẽ có con trai con gái.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nơi vỏ cây hay trên lá, viết Ðà Ra Ni này và vẽ hình đồng tử lấy vải lụa tím bọc lại, niệm tụng Thần chú 1080 biến, để trên cái búi tóc giữa đỉnh đầu, tức liền mang thai.
Có kẻ nói rằng: Bổn ý của chư Phật, khiến người đoạn các phiền não tham, sân, si. Nay cớ chi trở lại khiến người khởi tham niệm cầu các việc danh lợi ở đời ư?
Ðáp: Ðây là sức diệu dụng phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn của chư Phật. Bởi vì có những chúng sanh không chịu cầu thẳng đến đạo quả Vô thượng Bồ đề, vả lại tùy lòng ham muốn của họe, khiến họ trì Thần chú hết thảy cầu mong đều được toại lòng, do oai lực của Thần chú không thể nghĩa bàn huân vào, tội nghiệp được tiêu diệt, giống Bồ đề thành tựu. Tự nhiên siêu phàm nhập Thánh, như Chơn ngôn này là cảnh giới của chư Phật, hàng thập địa Bồ Tát còn chẳng lường được, huống kẻ phàm phu suy nghĩa sao được ư?  Nếu có đầy đủ trí nhãn, cần trọn ngày cầu, tức cùng với lý Bát Nhã tương ưng, đó chính là Phật thì đâu có chúng sanh mà khởi các phiền não tham…?
28-Lại phép nữa: Hoặc có người nữ chồng không kính trọng, lấy một cái bình mới đựng nước đầy, nơi trong bình để đồ thất bảo (vàng, bạc, ngọc v.v…) và các linh dược, ngũ cốc, bạch giới tử (hạt cải trắng) lấy dây lụa trắng cột nơi cổ bình, dùng Chơn ngôn gia trì 108 biến, bảo người nữ kiết căn bản ấn (ấn Chuẩn Ðề) để an trên đỉnh đầu, lấy nước ấy rót tưới vào đỉnh đầu, tức được yêu thương kính trọng, chẳng những kính trọng cũng được có con ở trong thai bền chắc.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Lấy tịnh bình đựng đầy nước thơm, đem để chỗ tịnh xứ, lấy ngưu phẩn (phân trâu ở Tuyết sơn ăn toàn cỏ thơm) thoa đắp Ðàn tràng niệm tụng 108 biến, như vậy bảy bình đều làm pháp này tại chỗ thanh tịnh, dùng hương hoa làm đạo tràng, lấy nước hương thơm trong bình tắm rửa, chồng liền vui vẻ thương yêu, cũng được có thai. Vợ không ưa chồng cũng làm phương pháp như trước. Bằng cứ trong một Ðại Tạng kinh, Ðà Ra Ni Thần chú gồm năm bộ:
1- Phật bộ các Thần chú của chư Phật.
2- Liên Hoa bộ các Thần chú của Quán Tự Tại Bồ Tát, chú của Trì Liên Hoa Bồ Tát.
3- Kim Cang bộ các chú của Kim Cang Thủ Bồ Tát, Chú của các vị Kim Cang thần.
4- Bảo bộ là Thần chú của chư Thiên.
5- Yết Ma bộ là các Thần chú của chư Quỷ Thần.
Năm bộ này mỗi bộ gồm có năm bộ. Tổng thành 25 bộ. Nay Chuẩn Ðề Chơn ngôn Thần chú bao gồm trì nhiếp thảy hai mươi lăm bộ. Cho nên tùy chỗ dụng đều được thành tựu.
29-Lại phép nữa: Người hành giả mỗi khi niệm tụng, kiết đại ấn tụng Chơn ngôn in tháp, mãn sáu mươi vạn biết việc sở cầu tức được đầy đủ. Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát, Ða La Bồ Tát, tức vì hiện thân sở cầu như ý, hoặc làm vua trong cung A Tu La, hoặc được Bồ Tát Ðịa, hoặc được thuốc trường niên, hoặc được kính ái pháp thành tựu.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nơi bên bờ biển lớn, hoặc trên bãi cát mé sông, lấy bản in hình tượng tháp, in trên bãi cát mé sông, làm hình tượng tháp. Niệm tụng một biến in thành một tháp. Như vậy mãn số sáu mươi vạn biến, tức được thấy Thánh giả Quán Tự Tại Bồ Tát v.v… tùy theo tâm nguyện đều được đầy đủ, hoặc thấy trao cho Thần tiên diệu dược, hoặc thấy thọ ký Bồ Tát, hoặc hiện tiền đến hỏi tùy nguyện mong cầu đều được các địa vị Bồ Tát. Nếu muốn cầu thông minh, lấy thạch xương hồ, ngưu huỳnh, mỗi thứ nửa lượng giã nhỏ làm bột hoà với bơ, nơi trước Phật làm đàn tụng niệm 5000 biến uống đó, tức được thông minh. Kinh Trì Minh Tạng nói: Nếu có người tu hành, muốn làm phép tối thượng thù thắng được thành tựu ấy. Nhứt tâm chuyên chú tinh cần tu tập, trước ở nơi bên bờ biển lớn tụng Chuẩn Ðề căn bản Chơn ngôn, tạo sa tháp (tháp cát) lục lạc xoa (60 vạn) rồi thì việc sở cầu quyết được thành tựu. Kim Cang Thủ cũng gọi Kim Cang Tạng.
30-Lại phép nữa: Nơi Bồ đề đạo tràng, ở trước Ðại Chế Ðể, tụng Ðà Ra Ni này, được thấy Thánh Tăng chung nói chuyện và Tất Ðịa thành tựu được chung kia đồng hành, tức đồng bực Thánh Tăng kia vậy.
GIẢI: Bồ đề đạo tràng tại Trung Thiên Trúc, nước Ma Kiệt Ðà. Phật ngồi nơi đó thành Ðẳng Chánh Giác, chọ nên gọi Chế Ðể, là tháp Phật vậy. Tháp này ở trong Bồ Ðề đạo tràng. Ngài Kim Cang Trí dịch: Nhiễu quanh bên hữu hình tượng cây Bồ đề, hành đạo niệm tụng 100 vạn biến, tức thấy Phật, Bồ Tát, La Hán, vì đó nói pháp, muốn theo Bồ Tát liền được tùy tùng, sở cầu như nguyện cho đến hiện thân thành đại chú Tiên, liền được đi đến mười phương Tịnh độ hầu hạ chư Phật, được nghe Chánh pháp. Lại muốn được thấy tất cả quỷ thần, lấy ngưu huỳnh niệm tụng Thần chú cho được pháp ra khỏi lửa, tức lấy thoa nơi đôi mắt và uống vào liền thấy. Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: Tụng mãn số một Câu chi (100 ức) được A La Hán hiện thân và được lợi ích lớn, từ đó về sau đồng hành với A La Hán, cũng đồng oai đức với các Ngài.
31-Lại phép nữa: Nơi trên đảnh núi cao, niệm tụng một Câu chi biến (100 ức biến) Kim Cang Thủ Bồ Tát tức đem người này, lãnh 560 người đồng vào cung điện A Tô La, thọ mạng một kiếp, được thấy đức Di Lặc Bồ Tát, Thinh Văn Chánh pháp, nghe pháp rồi chứng được địa vị Bồ Tát không thoái chuyển.
GIẢI: Nói một kiếp đây là một tiểu kiếp có 1680 vạn năm, vào A Tô La cung là để chờ đức Di Lặc hạ sanh. Kinh Thượng Sanh nói: Ðức Bồ Tát Di Lặc ra đời nhằm lúc tuổi thọ con người là 56 vạn ức năm.
Chỗ cung A Tô La không phải là một, vả lại như chỗ Ngài Thanh Biện Luận sư đã vào, cung này ở Nam Thiên Trúc, cách thành phía nam nước An Ðạt La không xa, tại hang núi lớn, vách đá bao kín, Ngài Luận sư niệm Thần chú trong hạt cải trắng ném vào vách đá tự nhiên mở rộng, đón Ngài vào trong, đợi thấy đức Di Lặc giáng sanh.
31-Lại phép nữa: Trên núi Tỳ Bổ La (Núi đây ở Ma Kiệt quốc. Lại nói rằng: Chỉ có núi cao cũng được). Trước tượng tháp xá lợi niệm tụng, tùy sức dùng hương hoa cúng dường, xin vật để nuôi thân mạng, theo tháng ngày mùng một đến ngày rằm, tụng Ðà Ra Ni mãn 30 vạn biến, lấy ngày mãn đó, một ngày một đêm không ăn, bội thêm sự cúng dường, đến cuối đêm tức thấy Kim Cang Thủ Bồ Tát, đem người tu hành đến tự trong cung, vì hành giả chỉ bày cửa hang A Tu La, vào trong hang được cam lồ của trời, sống lâu bằng mặt trời, mặt trăng.
GIẢI: Ngài Kim Cang Thủ ấy, tay cầm Kim Cang xử, tiêu biểu nội tâm đầy đủ đại Bồ đề, ngoài đập nát các ma phiền não, lại tự thể bền chắc thành trí Kim Cang, đập phá núi tà kiến, chứng Kim Cang định, thường trong tay cầm cái bảo xử, cho nên gọi là Kim Cang Thủ Bồ Tát, nói đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa, Bồ đề nghĩa là Năng giác ngộ, Tát Ðỏa là Hữu tình. Nghĩa là tự mình hay giác ngộ, lại trụ ở trong sanh tử để giác ngộ tất cả các loài hữu tình vậy.
Ngài Kim Cang Trí dịch: Không nói trên núi, chỉ nói ở trước tháp, hoặc đứng trước tượng Phật, hoặc trước tháp Xá lợi. Ban đầu nói ở trước tháp ấy, hoặc Như Lai Bát Ðại Linh Tháp, hoặc Tháp Thân Kệ Tháp chứ chẳng những Xá lợi tháp vậy.
33-Lại phép nữa: Nơi Tam đạo Bảo Giai, chỗ Bảo Tháp từ trên trời xuống. Hành gaỉ xin ăn, nhiễu quanh tụng câu chi biến 100 ức biến, tức thấy Vô Năng Thắng Bồ Tát cùng nguyện vì nói diệu pháp, chỉ bày đạo Vô thượng Bồ đề, hoặc thấy A Lợi Ðể Mẫu, đem người này vào trong cung mình cho uống thuốc trường niên, hoàn đồng niên thiếu, đoan chánh đáng mừng. Lại được phục tàng của báu giấu kín, đại nhơn hứa khả, nên rộng làm lợi ích Tam-Bảo. Ðược tất cả Bồ Tát an ủi, chỉ bày chánh đạo cho đến Bồ đề đạo tràng.
GIẢI: Nếu người trì tụng Ðà Ra Ni này, cho đến chưa ngồi đạo tràng mà tất cả Bồ Tát đã làm bạn thắng hữu. Cho nên thường an ủi chỉ bày 37 món trợ đạo Bồ đề, khiến tinh tấn tu hành cho đến ngồi dưới cây Bồ đề thành Ðẳng Chánh Giác, cho nên nói rằng ngồi Ðạo tràng.
A Lợi Ðể Mẫu tức Quỷ tử mẫu, vốn gọi Hoan hỷ mẫu. Phục tàng nghĩa là của báu giấu kín trong lòng đất, chư Phật, Bồ Tát cho người kia đem về rộng làm lợi ích quần sanh, cúng dường ngôi Tam-Bảo, không được bỏn xẻn giấu cất tư dùng. Tam Ðạo Bảo Giai ở Trung Thiên Trúc nước Tăng Già Xá, xưa Phật lên cung trời Ðao Lợi vì mẹ nói pháp ba tháng xong, từ trên xuống, Thiên Ðế Thích hóa làm ba đường báu, đường chính giữa là vàng ròng, bên tả ngọc lưu ly, bên hữu ngọc mã não, Phật từ chính giữa đi xuống. Sau vua A Dục đến chỗ đó kiến lập một Bảo Tháp vậy.
Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu ở trước Chuyển pháp luân tháp, hoặc trước tháp chỗ Phật giáng sanh, hoặc trước Bảo Giai tháp, hoặc trước tháp Xá lợi, nhiễu quanh bên hữu niệm tụng đủ 49 ngày, tức thấy hai vị Bồ Tát kia, tùy theo chỗ nguyện mong, thảy đều đầy đủ v.v…
Trì Minh Tạng nói: Bồ Tát cho Thánh dược biến thân người tu hành đầy đủ tướng tốt đẹp thù thắng, lại được tất cả Bồ Tát tiếp dẫn chứng đạo, cho đến mau ngồi Bồ đề đạo tràng.
34-Lại phép nữa: Nếu người không có túc căn lành, không có giống Bồ đề, không tu Bồ đề hạnh, vừa tụng một biến thì sanh mầm Bồ đề pháp, huống gì thường hay niệm tụng thọ trì.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí: Nếu đọc một biến tức được phần căn khí sanh mầm Bồ đề, huống thường tụng trì mà không biếng trễ, do đây thiện căn mau thành Phật chủng, vô lượng công đức thảy đều thành tựu.
Ngài Ha La dịch: Nếu được nghe pháp đại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này, mau chóng chứng quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Nếu người nhớ trì tụng niệm thường không trễ bỏ tâm Phật Mẫu Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này, vô lượng thiện căn đều được thành tựu.
Khi Phật nói pháp Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này, vô lượng chúng sanh xa lìa trần cấu, được Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni, Ðại Minh Chú Công Ðức, được thấy mười phương chư Phật, Bồ Tát và hết thảy các Thánh chúng làm lễ lui về.
* * *
THẤT CÂU CHI CHUẨN ÐỀ ÐÀ RA NI
NGHI QUỸ NIỆM TỤNG
* * *
Ngài Kim Cang Trí dịch: Y kinh Phạn bản có mười vạn bài kệ. Nay tôi lược nói thứ lớp, niệm tụng, quán hạnh, cúng dường. Nếu có bốn chúng đệ tử, phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, cầu mau ra khỏi sanh tử; trước phải nhập Tam ma đa quán đảnh đạo tràng, thọ trì giới cấm bền chắc không lui, ham thích Ðại Thừa giới hạnh Bồ Tát. Trong bốn oai nghi, tu bốn vô lượng tâm (từ bi hỷ xả), phát bốn hoằng thệ nguyện (chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp, phiền não không cùng tận thề nguyện đều dứt sạch, pháp môn không kể xiết thề nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thề nguyện được viên thành). Cầu ra khỏi tam đồ, đối với tất cả sự nghiệp, tâm không tán loạn mới có thể thức hạnh pháp môn bí mật này.
Nếu có người tu tập Ðà Ra Ni này cầu thành tựu, trước cần tắm rửa sạch sẽ, nên mặc y thanh tịnh.
GIẢI: Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ba thời tắm rửa, đầy đủ ba y. Cái áo trong mỗi ngày phải giặt ba lần, áo ấy phơi khô xông hương sái tịnh, phải có bộ áo riêng để mặc ngủ, còn bộ y áo giặt sạch để đó, ba thời thay đổi, áo trong thì phải mỗi ngày giặt một lần, phơi khô cũng xông hương sái tịnh. Tắm rửa tẩy tịnh và khi đại tiểu tiện đều dùng Chơn ngôn gia trì với nước mà rửa mới thật sạch. Nếu không như pháp tẩy tịnh tức không có linh nghiệm.
Ở trong Căn Bản Tạp Sự Luật, Phật có dạy: Nếu Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Sa Di, Sa Di Ni, lấy ta (Phật) làm thầy, thảy đều phải tẩy tịnh đúng như pháp; nếu không tẩy tịnh, không nên nhiễu tháp, hành đạo, lễ Phật, tụng kinh. Chư Thiên không vui, việc gì chú pháp đều không hiệu nghiệm và nếu trai tăng cúng dường, chép kinh, tạo tượng thì cũng được phước rất ít v.v… Phép tẩy tịnh đầy đủ như trong luật có chép. Kinh Tô Thất Ðịa nói phép tẩy tịnh đều đồng, nhưng chỉ dùng chú ấn và tắm rửa, tẩy tịnh, khứ uế, rửa tay mỗi mỗi đều có Thần chú đủ như trong các chỗ khác, nên biết. Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: Lại tụng Cam Lồ Quân Trà Lợi Bồ Tát Tâm Chơn ngôn gia trì trong nước ba bụm (ba gáo) dùng rửa tự trên đảnh đầu, tức thành tắm rửa.
Chơn ngôn: Úm A Mật Lị Ðế Hồng.
Lại tụng 21 biến gia trì trong nướ dùng sái tịnh và khiến đuổi ma chướng, vậy sau tùy ý tắm rửa, dùng khăn lau cũng phải sạch sẽ, lại rửa hai tay cho thật sạch, xong rồi mới vào đạo tràng gần gũi hiền Thánh; phàm kiết ấn phải dùng hương thoa nơi tay.
Nghiêm sức đạo tràng an trí Bổn Tôn (tượng Chuẩn Ðề) tùy sức bày biện, pháp kiến lập đạo tràng, nên lựa chỗ đất thù thắng, làm đàn bốn thước cuốc sâu ba tấc.
GIẢI: Phải trang nghiêm đạo tràng tùy sức bày biện, tràng phan, bảo cái, hương, hoa, ẩm thực v.v… Thắng địa như sau sẽ rõ. Ngài Kim Cang Trí dịch: Ðông, Tây, Nam, Bắc, lượng mỗi bề lấy bốn thước, làm đàn vuông cuốc sâu một thước.
Trừ bỏ gạch đá đất dơ, tóc lông và xương cốt, tro than, trùng kiến v.v… Lấy đất tốt sạch lấp đầy, đắp bằng. Cuốc bỏ đất dơ, lấy đất cũ ấy lấp nếu thấy có dư, phải biết chỗ đất ấy là đại kiết tường, mau chóng thành tựu, lấy đất tốt còn lại với Cù ma di, dùng nước hương thơm hòa với đất tốt làm bùn, tụng Vô Năng Thắng Bồ Tát Chơn ngôn gia trì 21 biến, nhiên hậu mới đắp đàn. Ðắp rồi lấy năm món tịnh hòa lại với nhau.
Năm món tịnh ấy là: Cù ma di (phân trâu thơm ở Tuyết sơn bên Ấn Ðộ), nước nhựa ngưu thỉ (nước tiểu trâu thơm), sữa chưng chín, sữa tươi, bơ. Các bộ khác bảo lấy ngưu huỳnh đó gọi là ngũ tịnh.
Dùng Vô Năng Thắng Bồ Tát Chơn ngôn gia trì 108 biến, mỗi biến quay phía hữu mà thoa đắp đàn tràng.
GIẢI: Phạn ngữ Mạn Ðà La (Ma Da La), Trung Hoa nói là Ðàn. Ðàn ấy là sanh vậy, nghĩa là xuất sanh vô tận công đức. Ðàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội. Như vậy đàn pháp chính là thần dụng không thể nghĩ bàn của chư Phật, chớ nên sanh lòng nghi hoặc, y pháp kết đàn, sở cầu quyết được như nguyện.
Nếu ở tại núi non trên hang đá kiến lập đàn, hoặc tại lầu các,  hoặc trên thuyền, được chỗ đạo xứ của tất cả hiền Thánh thì chỉ lấy năm món tịnh thoa đắp.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu ở nơi núi non và nhà thanh tịnh tốt không cần phải thoa đắp y như trước. Cần nên treo tràng phan, bảo cái bốn mặt, nếu có hình tượng Chuẩn Ðề Phật Mẫu an trí trong đàn, mặt Ngài xây hướng Tây, nếu không có tượng Bổn Tôn Chuẩn Ðề, có các tượng Phật, Xá lợi và Ðại Thừa kinh điển cúng dường cũng được.
Hành giả xây mặt về hướng Ðông, ngồi kiết Vô Năng Thắng ấn, đè đất tụng Chơn ngôn 7 biến gia trì giữa trung tâm đàn. Lại lấy các món thuốc, thất bảo và ngũ cốc, mỗi thứ một ít, cuốc đất giữa trung tâm đàn sâu một thước để các thuốc và thất bảo. Lại lấy đất cũ lấp đầy bằng phẳng, lấy tay hữu đè tụng địa thiên kệ ba biến, để cảnh giác địa thiên thần. Kệ viết:
Nhữ thiên thân hộ giả
Ư chư Phật đạo sư
Tu hành thù thắng hạnh
Tịnh địa Ba la Mật
Như phá ma quân chúng
Thích Sư Tử cứu thế
Ngã diệc hàng phục ma
Ngã họa Mạn trà la.
Dịch:
Người Trời gần hộ ta
Ở các Phật đạo sư
Tu hành hạnh thù thắng
Ðất tịnh đến bờ kia
Như phá các ma quân
Thích Sư Tử cứu đời
Ta cũng hàng phục ma
Ta họa vẽ Ðàn pháp
Tụng Thiên Ðịa Chơn ngôn rằng:
Nẵng mồ tam mãn đa một đà nẫm tất lị thể vi duệ ta phạ hạ.
GIẢI: Ðịa Thiên ấy là: Dạ xoa, La sát, A tu la, Long, Ca lầu la, Càn thát bà, Kiên na la, Ma hầu la già, Bộ đa, Ty xá giá, Cưu bàn trà v.v… Chơn ngôn cũng nói là Diệu ngôn: Nghĩa là từ trong tâm của chư Phật lưu xuất ra, là lời nói bí Mật chơn thật vi diệu. Tất cả chư Thiên, Ma, Phạm và nhơn vị Bồ Tát không thể nào nghĩ bàn được vậy.
Tụng kệ gia trì rồi, nhiên hậu lại lấy đàn hương đắp thoa thoa chín cái Thánh vị như mặt trăng tròn.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Mài đàn hương đắp thoa làm tám đàn cũng như trăng tròn, hoặc giống  như hoa sen tám cánh, bản dịch bảo đắp thoa chín Thánh vị tức là cúng dường căn bản chín chữ Chơn ngôn Thần chú Chuẩn Ðề. Kim Cang Trí dịch: Bảo đồ thoa tám đàn để cúng dường toàn chú tám câu, hay tùy ý làm cũng được.
Lấy đồ mới sạch cúng dường đầy đủ kim ngân, thục đồng, thương khư, bối ngọc thạch, đồ sành sứ, cây gỗ thơm v.v… Ðồ đựng đầy các món ăn uống và hoa tốt hương thơm, đèn nến, ứ già hương thủy (đồ đựng nước hương thơm) tùy sức đã có sắp bày cúng dường.
GIẢI: Thương khư là cái chén bằng ốc xà cừ. Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ba thời đồ địa (rưới nước hương thơm dưới đất) hiến dâng hoa; hương, nước, các món cúng dường, trừ bỏ hoa héo tiếp tục cúng hoa mới, đồ hiến cúng bát chén cũng ba thời thay rửa.
Nếu tại gia, xuất gia Bồ Tát cầu thành tựu, mỗi khi vào đạo tràng, trước nên lễ Phật, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện. Rồi nên tự thệ thọ Bồ đề tâm giới.
GIẢI: Cứ đây, nếu Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni và tại gia đã thọ  Tam quy Ngũ giới, Bát giới; khi vào đạo tràng đều cần phải tự thệ thọ Bồ đề tâm giới. Kinh Tô Thất Ðịa nói: Mỗi ngày ba thời tắm rửa thay áo, ba thời cúng dường, lễ bái, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện, ba thời tụng kinh và ba thời làm Ðàn pháp, ba thời quy y thọ giới làm phép hộ thân như vậy, quyết định được thành tựu. Ngài Kim Cang Trí dịch: Cũng ba thời thọ giới, lễ Phật, sám hối, tủy hỷ mà văn thiếu khuyến thỉnh, phát nguyện. Nay lấy lễ Phật, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện là năm pháp có phụ rõ nơi sau.
Chơn ngôn: Úm – Mạo địa chỉ đa mẫu đát bả, noa dả nhỉ.
GIẢI: Mạo địa cũng là Bồ đề, chỉ cũng là tức, lại là chất bả, hoặc là ma nhỉ cũng là di. Du Già giải rằng: Mạo địa là chỉ đa, đây nói là giác tâm, chữ mạo là chủng tử, chữ mạo ấy nghĩa đủ là tất cả  pháp không còn trói buộc. Nếu hay viết trong tự thân là Bồ đề tâm, là tự tánh thành tựu ba đời bình đẳng, như hư không xa lìa tất cả tướng, thì hay rõ biết tất cả tâm hữu tình, và tâm của chư Phật cũng như tâm mình xưa nay vốn thanh tịnh, hãy khởi lên lòng đại bi thâm sâu thương xót tất cả chúng sanh, dùng các món phương tiện, khiến các hữu tình lìa khổ, được giải thoát đến cứu cánh, không buộc cũng mở. Ðó chính là tâm Bồ đề rộng lớn vậy.
Bồ đề tâm lìa tất cả ngã chấp, xa lìa Uẩn, Xứ, Giới và ly năng thủ, sở thủ, nơi pháp bình đẳng. Tự tâm vốn có không sanh, tự tánh vốn là không, cho nên quá khứ tất cả Phật, Bồ Tát đã phát tâm Bồ đề. Ta nay cũng như vậy. Ðây gọi tự thệ thọ Bồ đề tâm giới, do tụng một biến suy nghĩ Thắng nghĩa đế (nghĩa thù thắng chắc chắn) nên được vô lượng vô biên công đức vô vi trang nghiêm tam nghiệp cho đến Bồ đề đạo tràng, phước kia không gián đoạn, mau diệt tất cả nghiệp chướng, Chơn ngôn chóng thành tựu, Bổn Tôn hiện tiền. Như kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, đức Từ Thị Bồ Tát vì Thiện Tài Ðồng Tử nói công đức tâm của tâm Bồ đề.
GIẢI:  Uẩn tức là năm uẩn, Xứ tức là mười hai nhập, Giới tức là mười tám giới, như trong các chỗ đã giải thích.
Nghi thọ Bồ đề tâm giới nói: Nay đã phát giác tâm, xa lìa các tánh, tướng, uẩn, giới và xứ v.v…năng thủ, sở thủ, chấp các pháp đều vô ngã bình đẳng. Như hư không, tự tâm vốn không sanh, không tánh viên mãn vắng lặng. Như chư Phật, Bồ Tát đã phát đại Bồ đề tâm. Con nay cũng phát như vậy (muốn xem rõ như trong Thập pháp giới phẩm).
Tự thọ Bồ đề tâm giới rồi, toàn già hay bán già tùy ý mà ngồi. Thân ngay thẳng, nhắm mắt, kiết định ấn, tượng trong hư không Chuẩn Ðề Phật Mẫu và Thất Câu Chi Phật, đoanh vây đầy khắp hư  không. Trong định lễ tất cả chư Phật và Chuẩn Ðề Phật Mẫu. Vậy sau lấy hương thoa tay mà kiết ấn pháp.
GIẢI: Trước tiên kiết định ấn, sau lại kiết ấn lễ Phật. Ðủ như sau này có chép. Ngài Kim Cang Trí dịch: An tâm ngồi định trừ tất cả vọng tưởng, quán xét chúng sanh trong sáu đường, từ vô thỉ đến giờ chìm trong biển khổ sanh tử, luân hồi nơi sáu thú. Nguyện đều phát Bồ đề tâm, tu hành Bồ Tát đạo mau ra khỏi. Tức lấy hương thoa hai tay mà kiết ấn; khi kiết ấn lấy áo y che tay lại chớ nên khiến người thấy. Trước kiết ấn Phật Bộ Tam Ma Da ấn, sau kiết các ấn.
Phật Bộ Tam Ma Da Ấn (tức là ấn Tam Muội)
GIẢI: Kinh Tô Thất Ðịa nói: Trước ở trong thất phải để tôn tượng dung nhan cân đối, hoặc Chế Ðể (tháp Xá lợi), hoặc chỉ thiết một cái tòa, khi vào mặt hướng tôn tượng, chắp tay, nép thân mình, miệng tụng Thần chú, lễ Phật cúng dường.
Thần chú: Úm – Nhập phạ lý đa lộ dả nê tra (7 biến)
Tụng rồi lại kiết ấn Tam bộ tam ma da và đọc Thần chú.
Hai tay bộng chính giữa, chấp tay lại, mở hai đầu ngón tay trỏ co vịn dưới đốt thứ nhất của hai ngón tay giữa, co hai ngón tay cái vịn đốt dưới cùng của hai ngón tay trỏ tức thành. Ðể nơi ngang ngực, tụng Thần chú 7 biến, tưởng đức Như Lai có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, tướng tốt phân minh rõ ràng như đối trước mắt.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Ngón tay thiền, trí đều ngửa ra. Ngón đàn, giới, nhẫn, huệ, tiện, nguyện co kín. Ngón tấn, lực đứng thẳng nhau vịn trên đốt thứ nhất của ngón nhẫn, nguyện; ngón thiền, trí gá một bên ngón tấn, lực tức thành ấn.
Kinh Tô Thất Ðịa nói: Ấn pháp này đồng. Ngài Kim Cang Trí dịch: Ngón đàn, giới, nhẫn, tấn, thiền, từ ngón tay út bên mặt mà khởi tính. Ngón huệ, tiện, nguyện, lực, trí, từ ngón tay út bên trái mà khởi tính. Ðó là mười ngón ba la Mật.
Thần chú: Úm – Ðát tha nghiệt đổ nạp bà phạ dả ta phạ hạ (7 biến)
Ðổ hoặc NÔ NẠP, hoặc Noa. Ngài Kim Cang Trí dịch: Úm, đát tha nghiệt đổ phạ bà da ta phạ ha. Rồi xả ấn trên đảnh. Chữ BÀ là khứ thinh,còn các chữ dưới đều đồng.
Do kiết ấn này và tụng Thần chú, tức kinh giác tất cả Như Lai thảy đều hộ niệm gia trì cho người tu hành, dùng hào quang chiếu soi, có bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt, thọ mạng lâu dài, phước huệ tăng trưởng, Phật bộ Thánh chúng ủng hộ vui mừng, đời đời kiếp kiếp xa lìa các ác thú, hóa sanh trong hoa sen, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
GIẢI: Kinh Ðại Bảo Lầu Các nói: Trên đảnh núi cao tụng Thần chú, hết thảy tầm mắt phóng đến chỗ nào, những chúng sanh ngũ nghịch, thập ác thảy đều được diệt tất cả tội, đời sau sanh các cõi tịnh độ của chư Phật, được hóa sanh trong hoa sen. Như thế huống nữa người trì chú tu hành mà không  sanh trong hoa sen, diệt tất cả tội ư?
LIÊN HOA BỘ TAM MA DA ẤN
Chấp hai tay trống chính giữa, buông thả mở ra hai ngón tay trỏ, hai  ngón tay giữa, hai ngón vô danh chỉ, cong lại như hình hoa sen. Ðể ấn chính giữa ngực, tụng Chơn ngôn 7 biến, tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát tướng tốt đầy đủ. Rồi xả ấn trên đảnh.
GIẢI: Hai ngón tay út, hai ngón tay cái dựa dính nhau, còn sáu ngón kia buông thả mở ra, hơi cong như bông sen nở. Tướng tốt của Quán Tự Tại Bồ Tát như trong kinh Quán Thánh đã nói.
Chơn ngôn: Úm (án) – Phá na mô, nạp bà, phạ dả ta phạ hạ.
GIẢI: Phá na hay Bát nạp. Ngài Kim Cang Trí dịch: Úm (án). Bát đầu mâu phạ bà da ta phạ ha.
Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên cảnh giác Quán Tự Tại Bồ Tát và hết thảy các Bồ Tát cầm hoa sen hào quang chiếu đến hành giả có các nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả Bồ Tát thường làm bạn lành.
GIẢI: Vô Lượng Thọ Như Lai Nghi Quỹ nói: Do kiết ấn này và tụng Chơn ngôn cảnh giác Ngài Quán Tự Tại và liên hoa bộ Thánh chúng đều đến gia trì hành giả đắc được ngữ nghiệp thanh tịnh, lời nói oai nghiêm khiến người ưa nghe biện tài vô ngại, thuyết pháp tự tại.
KIM CANG BỘ TAM MA DA ẤN
Lấy tay trái lật ra bên ngoài, tay bên mặt đôi lưng để an nơi lưng bàn tay trái. Lấy ngón tay cái và ngón út bên mặt và trái câu lại với nhau như hình Kim Cang Thủ Bồ Tát, tụng Chơn ngôn 7 biến. Xả ấn lên đảnh.
GIẢI: Kinh Tô Tất Ðịa nói: Trong hai tay sáu ngón khít lại, mở ra ba ngón dọc theo như hình chày Kim Cang. Ba ấn này gọi là đại ấn, chư Phật, Bồ Tát còn không thể trái huống thảy các ma loại. Chẳng những thuận giáo còn diệt các tội, trừ các nạn. Pháp sở cầu quyết được thuận nguyện. Ngài Kim Cang Trí dịch: Tay trái sấp tay phải ngửa, ngón cái ngón út giao móc nhau, vậy là thành ấn. Ấn này đồng với bổn dịch.
Chơn ngôn: Úm (án) – Phạ nhựt lô, nạp bà phạ, dả ta phạ hạ.
Kim Cang Trí dịch: Úm (án) – Phạ chiết rõ bà bàn da ta phạ hạ.
Do kiết ấn này và tụng Chơn ngôn ấy, tức cảnh giác tất cả Kim Cang Thánh chúng gia trì ủng hộ, có các tội chướng đều được trừ diệt, tất cả thống khổ trọn không dính thân, sẽ được thể Kim Cang kiên cố.
GIẢI: Cúng dường Nghi Quỹ nói: Do kiết ấn này và tụng Chơn ngôn, kỉnh giác Kim Cang Tạng Bồ Tát và Kim Cang bộ Thánh chúng đều đến gia trì người hành giả đắc được ý nghiệp thanh tịnh, chứng Bồ đề tâm, tam muội hiện tiền được giải thoát. Theo Ngài Kim Cang Tr dịch: Kiết tam bộ tam ma da ấn, sau tức kiết Phật Mẫu căn bản thân ấn, tụng Phật Mẫu Chơn ngôn 7 biến, nay bổn dịch ở đây chỉ trì châu niệm tụng, trước kiết căn bản bổn ấn, như muốn kiết ấn ấy, cứ theo lý thì không ngại, ấn kia sau sẽ chép ra trong Ứ già ấn.
THỨ ÐẾN ÐỆ NHỊ CĂN BẢN ẤN (Dùng hộ thân)
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Vì ấn này ở sau trì số châu niệm tụng, trước dùng riêng ấn chú là để toái trừ tất cả thiên ma ác quỷ … bổn dịch dùng ấn này và tâm Chơn ngôn hộ thân, sao lại dùng “Vô Năng Thắng ấn chú” để toái trừ chướng ngại nữa.
Hai ngón ngoài tréo nhau, hai ngón tay trỏ, hai ngón tay cái đứng thẳng tức thành Tụng Phật Mẫu Tâm Chơn ngôn. Ấn vào năm chỗ: Nơi trán, vai bên mặt, vai bên trái, nơi yết hầu, nơi tại ngực. Xả ấn lên đảnh.
Chơn ngôn: Úm (án) – ca ma lê vĩ ma lê chuẩn nê ta phạ hạ.
Khi kiết ấn hộ thân, nên phát lòng đại từ, duyên khắp lục đạo tứ sanh, nguyện tất cả hữu tình mặc mũ giáp đại thệ Kim Cang trang nghiêm bền chắc. Mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bổ đề.
GIẢI: Ðại thệ Kim Cang mũ giáp trang nghiêm kiên cố ấy nghĩa là Bồ Tát lấy Tứ hoằng thệ nguyện làm trang nghiêm, không bị tà ma làm trở ngại, gặp duyên nghịch thuận tâm không thoái chuyển. Cho nên nguyện các hữu tình đều mặc mũ giáp Kim Cang kiên cố bền chắc như thế để xa lìa các chướng nạn, mau chứng Vô thượng Bồ đề. Tưởng như vậy rồi, tức thành mặc Kim Cang mũ giáp, tất cả các ma không dám chướng ngại.
THỨ ÐẾN KIẾT ÐỊA GIỚI QUYẾT ẤN
Hai tay tréo nhau bên trong, đứng thẳng hai ngón tay cái, hai ngón tay trỏ, hai ngón tay út, các ngón hiệp nhau, co ngón tay trỏ bên tả như hình móc câu kéo ba lần, ngón tay cái chỉ nơi đất tức thành. Kéo một cái tụng một biến Chơn ngôn.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Lấy tay mặt và tay trái, hai ngón tay giữa, hai ngón tay áp út tréo vào bàn tay hữu áp chặt bàn tay tả, ngón tay trỏ bên mặt cong như hình móc câu, ngón tay trỏ bên tả đứng thẳng, hai ngón tay cái, hai ngón tay út khiến đối diện sát nhau.
Chơn ngôn: Úm (án) – Chuẩn nễ nễ chỉ, lã dả ta phạ hạ.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Ấn chuẩn nễ nễ chỉ lã dả ta phạ hạ. Tụng một biến, dùng ấn ngón tay cái chạm nơi đất một lần, trở lại đứng thẳng dường như cây trụ cao, làm hai lần tức xong.
Do kiết ấn này, tụng Chơn ngôn gia trì địa giới, cho nên thẳng đến dưới thủy tế như Kim Cang tòa, thiên ma và các kẻ chướng ngại không dám làm não hại, ít gia công lực mau được thành tựu.
GIẢI: Trong đất có các vật dơ xấu, do sức ấn chú này gia trì, hết thảy được thanh tịnh.
Trì tụng ấy rồi thứ đến nên ở trong đàn, tâm tưởng hoa sen lớn tám cánh. Trên hoa sen có tòa sư tử. Trên tòa có lầu các báu treo rủ xuống các món anh lạc, tràng phan, bảo cái, bảy hàng cây báu treo các thiên y đẹp đẽ, các món ăn uống nhiệm mầu, ma ni làm đèn. Như không có đàn pháp, chỉ nơi trong hư không mà quán tưởng tức thành tựu. Quán tưởng rồi, nên tụng bài kệ này:
Dĩ ngã công đức lực.
Như Lai gia trì lực
Cập dĩ pháp giới lực
Phổ cúng dường nhi trụ.
Dịch:
Bởi con sức công đức
Gia trì sức Như Lai
Cùng do sức pháp giới
Khắp cúng dường mà trụ.
Tụng kệ này rồi, liền tụng Ðại Hư Không Tạng Bồ Tát Chơn ngôn: Úm (án) – Nga nga nẵng tam bà phạ, phạ nhựt ra hộc.
GIẢI: Chữ Tam Khứ thinh, chữ bà khứ thinh, chữ nga hoặc là chữ dà, nhẹ kêu (đọc nhẹ).
Do tụng Chơn ngôn này gia trì và đã quán tưởng cúng dường chơn thật đầy đủ không khác, nên tất cả Thánh chúng đều được thọ dụng.
GIẢI: Căn cứ theo Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ: Tụng Ðại Hư Không Tạng Chơn ngôn, trước nên kiế: 1- Hư Không Tạng Ấn. Lấy hai tay chấp lại, hai ngón giữa bên mặt và trái áp bên ngoài tréo ra lưng tay, hai ngón tay trỏ cong dính nhau như bảo hình. Tưởng từ ấn xuất lưu ra đủ vô lượng các món cúng dường, y phục, ấm thực, cung điện, lầu các v.v… người hành giả túng sử quán tưởng niệm lực có kém, do sức ấn chú này gia trì mà các đồ cúng dường đều thành chân thật, cúng dường một cách rộng lớn.
Lại cứ riêng bộ khác, có chép ra: 2- Thân Cúng Dường Ấn. Hai ngón tay để ngang ngực chấp lại, lấy mười ngón tay bên hữu ép đầu ngón tay tả giao nhau lại, để lên trên đảnh, tụng xuất sanh cúng dường Chơn ngôn 21 biến: tức chữ ÚM (ÁN) vậy. Do chữ úm (án) Chơn ngôn và ấn lực bất tư nghì, tự nhiên biến khắp pháp giới, xuất sanh vô tận hương, hoa, đèn, nến, tràng phan, bảo cái, y phục, ngọa cụ, lầu các cung điện, âm nhạc bái tán v.v. Ðủ các thứ cúng dường, cúng dường khắp pháp giới, vô biên Phật Pháp Tăng Tam-Bảo v.v. Nếu không có đồ ẩm thực hương hoa thảy, chỉ đối trước tượng kiết ấn tụng (Úm) Án tự Chơn ngôn, tự nhiên có vô lượng cúng dường, khắp cùng pháp giới vô tận Tam-Bảo. Vậy biết một chữ Úm (Án) như ma ni châu tùy tâm sở hiện, cũng như bổn kinh đã tưởng thảy đều thành tựu. Tại chữ Úm (Án) này là tự mẫu của tất cả Chơn ngôn, năng sanh tự nghĩa của tất cả Chơn ngôn nên đều đứng đầu tất cả Chơn ngôn vậy.
THỨ ÐẾN KIẾT BẢO XA LỘ ẤN (Xa nói giá hay xả là bình thinh, lộ hay lỗ nên âm lộ)
Hai tay tréo nhau bên trong ngửa bàn tay ra, hai  ngón tay trỏ ngang bằng nhau đầu ngón dính nhau, lấy hai  ngón tay cái cầm vịn vào tiết dưới cùng của hai ngón tay trỏ. Tưởng xe lớn bảy báu Phật bộ và Sứ giả, giá ngự trên xe bảy báu, thừa nương hư không mà đi đến. Nơi tại đảnh của cõi Trời Sắc giới, A Ca Ni Tra Thiên, Tỳ Lô Giá Na Phật ở trong cung điện ấy, tụng Chơn ngôn 7 biến.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Trước lấy hai ngón tay bên trong tréo nhau, ngón giữa đè ngón tả, lại mở hai ngón trỏ ra, đầu ngón giáp nhau thẳng đứng, lấy hai ngón cái xoay đầu qua lại nơi hai ngón tay giữa tức thành. Tâm tưởng trong cung trời A Ca Ni Tra Thiên, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai và Thập Ðịa Bồ Tát vi nhiễu tập hội trong ấy, thỉnh đức Chuẩn Ðề Phật Mẫu Thánh giả, nương cỡi đại xa thất bảo trang nghiêm, trên ấy có tòa liên hoa trắng, trên tòa có các hóa hình tượng. Trong tâm tưởng niệm như ở trước mắt, trời A Ca Ni Tra Thiên, đây nói là Sắc Cứu Cánh Thiên, là cõi trời tối cao của Sắc giới cũng gọi Hữu Ðảnh Thiên.
Chơn ngôn: Úm (Án) – Ðổ rô đổ rô hồng
(Chữ rô hô chuyển trong lưỡi, Kim Cang Trí dịch không có chữ Hồng, mà có chữ Ta phạ ha).
Do tụng Chơn ngôn kiết ấn gia trì cho nên thất bảo xa lộ đến sắc giới đảnh, đức Chuẩn Ðề Phật Mẫu và tám vị đại Bồ Tát cùng chư Thánh chúng quyến thuộc vi nhiễu, nương cỡi thất bảo xa lộ.
GIẢI: Tám vị đại Bồ Tát ấy: 1- Quán Tự Tại, 2- Di Lặc, 3- Hư Không Tạng, 4- Phổ Hiền, 5- Kim Cang Thủ, 6- Văn Thù Sư Lợi, 7- Trừ Cái Chướng, 8- Ðịa Tạng Bồ Tát. Nếu Tỳ Lô Giá Na Phật nội tâm chứng được Tam Ma Ðịa Trí, thì lưu xuất ra mười sáu vị Bồ Tát: 1. Kim Cang Tát Ðỏa, 2. Kim Cang vương, 3. Kim Cang Ái, 4. Kim Cang Thiện Tai, 5. Kim Cang Bảo, 6. Kim Cang Oai Quang, 7. Kim Cang Tràng, 8. Kim Cang Tiếu, 9. Kim Cang Pháp, 10. Kim Cang Kiếm, 11. Kim Cang Nhơn, 12. Kim Cang Ngữ, 13. Kim Cang Nghiệp, 14. Kim Cang Hộ, 15. Kim Cang Dược Xoa, 16. Kim Cang Quyến Bồ Tát.
Du Già Phân Biệt Tu Chứng Pháp Môn nói: Ðây là luận về tông  Chơn ngôn Ðà Ra Ni, là bí Mật giáo của tất cả Như Lai, là pháp môn tự giác Thánh trí tu chứng, cũng là Bồ Tát thọ đủ tịnh giới vô lượng oai nghi, vào hải hội đàn của tất cả Như Lai để thọ chức vị Bồ Tát, vượt qua ba cõi thọ Phật giáo sắc tam ma địa môn, đầy đủ nhân duyên đốn tập công đức, rộng lớn, trí tuệ, nơi Vô thượng Bồ đề đều không thoái chuyển. Xa lìa các thiên ma, tất cả các phiền não cùng các tội chướng. Mỗi niệm dung chứng bốn món Phật thân. Nghĩ là Tự tánh thân, Thọ dụng thân, Biến hóa thân, Ðẳng lưu thân. Ðầy đủ năm trí ba mươi bảy món trợ đạo, các món bất cộng Phật pháp. Song Biến hóa thân của đức Như Lai, ở Diêm Phù Ðề nước Ma Kiệt Ðà, nơi Bồ đề đạo tràng thành Chánh đẳng chánh giác, vì hàng tiền địa Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, phàm phu mà nói ra giáo pháp của ba thừa, hoặc tùy nơi ý kẻ khác mà nói đến,  hoặc tự ý nói đến, các căn cơ, các phương tiện như pháp tu hành đắc quả báo nhơn thiên. Hoặc đắc quả giải thoát của tam thừa. Hoặc tiến, hoặc thoái hóa nơi Vô thượng Bồ đề, trải qua ba vô số đại kiếp, tu hành siêng năng khổ nhọc mới thành được Phật quả. Sanh ở nơi Vương cung, diệt nơi Song thọ, lưu thân Xá lợi, dựng tháp cúng dường. Cảm thọ đến trời người, được quả báo thắng diệu, làm nhơn cho Niết Bàn. Không đồng với Báo thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nơi Sắc giới đảnh đệ tứ thiền, nơi cung trời A Ca Ni Tra, vân tập tận hư không, khắp pháp giới tất cả chư Phật, Thập Ðịa đầy đủ, các đại Bồ Tát chứng minh kỉnh giác, thân tâm đốn chứng Vô thượng Bồ đề. Tự thọ dụng Phật từ tâm lưu xuất vô lượng Bồ Tát đều đồng một tánh. Nghĩa là Kim Cang tánh đối với Tỳ Lô Giá Na Như Lai, thọ quán đảnh chức vị, được các vị Bồ Tát kia nói môn Tam Mật, để dâng hiến Tỳ Lô Giá Na Phật và tất cả Như Lai, xin thỉnh gia trì dạy bảo. Ðức Tỳ Lô Giá Na Phật dạy: Các ông tương lai nơi vô lượng thế giới là kẻ tối thượng thừa, được hiện đời thành tưụ thế gian, xuất thế gian Tất Ðịa. Nếu y cứ vị thứ ma nói có sai khác, còn căn cứ báo thân Phật liền chứng ba món tịnh nghiệp thân, khẩu, ý biến khắp pháp giới nơi mỗi một pháp môn, mỗi một lý thú, mỗi một lỗ lông, mỗi tướng tốt của thân phần, hết cõi hư không, không chướng ngại nhau, đều an trụ nơi bản vị để thành hào quang chiếu khắp. Tỳ Lô Giá Na, Tự thọ dụng thân, Tha thọ dụng thân, nếu y nhị thừa thứ lớp mà nói: không tu đầy đủ ba mươi bảy món Bồ đề phần pháp mà chứng đắc đạo quả, điều đó không có lý. Còn nếu chứng Tự thọ dụng Phật thân, quyết tu ba mươi bảy món Tam ma địa trí để thành Phật quả. Phạn bổn nhập Lăng Già kệ tụng nói: Tự tánh và thọ dụng biến hóa với đẳng lưu Phật đức, ba mươi sáu đều đồng tự tánh thân và pháp giới, thân tổng thành ba mươi bảy vậy. Bởi vì ba mươi bảy là bên trong trí phần chứng Vô thượng Kim Cang giới, nhờ oai lực gia trì liền chứng Tỳ Lô Giá Na thân. Từ vô kiến đảnh tướng lưu xuất ra vô lượng Phật đảnh pháp thân, vân tập trong hư không để thành pháp hội, quang minh che khắp như Tháp tướng luân, Thập Ðịa đầy đủ, thường hay soi xét, thầm gia hộ thân tâm hữu tình, các tội chướng thảy được tiêu diệt mà không thể tự biết. Tuy không thể biết mà hay dứt các khổ, sanh các cõi thiện. Từ ánh hào quang ấy lưu xuất ra mười sáu vị Bồ Tát và tám phương trong ngoài đại hộ triển chuyển, phát xuất ánh hào quang, chiếu soi đến các ác thú. Ðể thành Suất Ðổ Ba (tầng bậc tháp Phật) giai cấp, hộ vệ chư Phật. Suất Ðổ Ba pháp giới cung điện, thành là toàn thân hiện chứng Kim Cang giới, Như Lai thân Tỳ Lô Giá Na biến chiếu vậy.
Vậy nên biết Phật Mẫu Chuẩn Ðề, từ Tỳ Lô Giá Na thân lưu xuất ra mà Chuẩn Ðề Chơn ngôn tức là pháp tự chứng nội tâm của chư Phật. Cho nên Thất cu chi (700 ức) Như Lai đã nói: Bởi hay xuất sanh chư Phật, nên nói rằng Phật Mẫu vậy.
THỨ ÐẾN THỈNH XA LỘ ẤN
Theo như ấn trước, lấy hai ngón tay cái hướng về thân, xoay lại hai đầu ngón tay giữa, tức thành. Tụng Chơn ngôn 7 biến.
Chơn ngôn: Nẵng ma tất để lị dả địa vĩ ca nẫm, đát tha nghiệt đa nẫm. Úm (án) – Phạ nhựt lãng nghĩ nễ dã, yết lị dã, ta phạ hạ.
GIẢI: Nẫm cũng nói là nan, lãn cũng nói lãng, lại lãng nghĩ cũng nói kỳ nghiệt đa, nên nói nghiệt dá, nễ dã cũng nói là chữ nương thượng thinh, yết lị cũng nói ca ra.
Do tụng Chơn ngôn gia trì, cho nên Thánh chúng từ bổn độ, lại đến trong hư không mà an trụ nơi đạo tràng.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Không có Chơn ngôn ấn khế này, chỉ dùng sau ấn khế Chơn ngôn thỉnh đó. Hành giả tu Chơn ngôn tùy theo một pháp đều thành.
Thứ đến kiết ấn Bổn Tôn (Chuẩn Ðề Phật Mẫu) thỉnh, từ xa lộ hạ giáng nơi đạo tràng theo như đệ nhất căn bản ấn ở trước, lấy hai  ngón tay cái hướng vào thân chiêu mời, tụng Chơn ngôn ba biến.
GIẢI: Ðệ nhất căn bản ấn tức Phật bộ ấn ở trước, sau nói theo căn bản ấn trước tức đồng ở đây. Kim Cang Trí dịch: Lấy hai ngón tay cái đưa qua lại chiêu mời ba lần. Tưởng Thánh giả từ trên xe báu hạ lại đến trong đạo tràng, trên tòa hoa sen trắng.
Kinh Tô Thất Ðịa  dạy thỉnh rằng: Nay có đệ tử tên … việc là … Phụng thỉnh ngưỡng duy Tôn giả, vì bổn nguyện giáng phó đạo tràng, nguyện thùy ai mẫn thọ món ứ già này và các món cúng dường. Khi thỉnh thành tâm làm lễ tác bạch ba lần, nếu không thành tâm phải luôn nhiều sự niệm tụng, cho đến Chơn ngôn cũng đều ân cần gia thêm chữ Ế Ê này, lại là bí Mật, sự cầu nguyện mau được viên mãn.
Chơn ngôn: Úm (án) – Giả lễ chủ lễ chuẩn nê ế ê duệ hê bà chiến phạ để ta phạ hạ.
GIẢI: Chữ bà khứ thinh mà hô đó. Kim Cang Trí dịch: Án, Chiết lệ chủ lệ Chuẩn đề ế hê duệ hê bạt dà, phạ đế ta phạ ha. Dà nga yết nghiệt bốn chữ là đồng âm, chữ chiến nghi là kích, chữ dà phải hô nhẹ. Kinh Tô Thất Ðịa dạy rằng: phụng thỉnh rồi lại tác bạch như vầy: Thiện lai Tôn giả, thương xót chúng con, giáng lâm đạo tràng, thủy từ ai mẫn. Ðến nơi tòa này, an tọa thọ món cúng dường. Lại hết lòng thành tâm luôn luôn làm lễ, bạch rằng: Tôn ngôn đại bi thùy mẫn thừa bổn nguyện giáng lâm cho con được thấy chẳng những con đã bày biện các món cúng dường, trước hiến đồ hương, sau hiến các hoa lại hiếu thiêu hương, lại hiến các món ẩm thực và các món nhiên đăng đèn sáng, thứ lớp như vậy cúng dường.
VI KHIỂN ẤN HAY KẾT VÔ NĂNG THẮNG BỒ TÁT, ẤN TỊCH TRỪ CHƯỚNG NGẠI
Hai tay, tay hữu đè lên tay tả tréo nhau bên trong, nắm tay lại, đứng thẳng hai  ngón tay giữa, đầu hai ngón tay hiệp lại, tức thành vòng quanh thân bên mặt ba lần, khởi lên suy nghĩ, chỗ có chướng ấy, Tỳ Na Dạ Ca, các ác quỷ thần hãy chạy xa đi, chỗ đến của các Thánh chúng, chẳng vượt bổn tam ma da đại bi mà an trụ, nguyện thùy gia hộ.
GIẢI: Hành giả phàm tu Chơn ngôn và người tọa thiền cần trước phải dùng ấn chú trừ các ma chướng. Cho nên kinh Kim Cang Quang Minh nói: Hàng Thập Ðịa Bồ Tát còn lấy chú hộ trì, huống nữa kẻ phàm phu ư! Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: Nếu không trì chú mà ngồi đạo tràng, khiến thân tâm được xa lìa các việc ma là điều không có lý.
Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Nếu muốn thành tựu các việc nên phải khiển trừ các ma chướng ngại, nếu không khiển trừ sau sợ có sự tổn thương. Bởi vậy nên trước cần làm phương pháp khiển trừ.
Chơn ngôn: Nẵng mồ tam mãn đa một đà nẫm, úm (án) – Hộ rô hộ rô chiến noa lị mạ đắng kỳ ta phạ hạ.
GIẢI: Chiến hoặc tán kỳ, hoặc nghĩ li hoặc lị. Trì Minh Tạng dạy: Chú này hay thành tựu tất cả việc.
THỨ KIẾT TƯỜNG GIỚI ẤN
Theo như ấn địa giới ở trước, co đầu ngón tay hữu, mở đầu ngón tay tả ra, xoay bên hữu ba vòng, tùy tâm gần xa, tức thành cái thành Kim Cang kiên cố. Chư Phật, Bồ Tát còn không dám trái vượt huống gì các kẻ khó điều phục, Tỳ Na Dạ Ca và loại nha, trảo, độc trùng, không thể gần gũi được.
GIẢI: Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ dạy rằng: Tưởng từ ấn ấy lưu xuất ra ánh lửa rực rỡ, dùng ấn ấy nhiễu thân ba vòng, tùy tâm lớn nhỏ, thành Kim Cang sáng chói vuông vức bốn phí tường vách làm giới hạn, các ác ma nhơn, cọp, beo, sư tử, và các độc trùng không thể gần gũi.
Thần Biến Sớ dạy rằng: Người hành giả trì chú, được chư Phật quy mạng, cho nên Phật đảnh kệ dạy: Mười phương thế giới các Như Lai, hộ niệm quy mạng người thọ trì. Như vậy chư Phật còn trở lại quy mạng người trì chú, mà đâu dám có sự trái vượt ấy ư! Tỳ na dạ ca đây nói rằng: Trư đầu tượng tỳ (đầu heo mũi voi)
Chơn ngôn: Án – Chuẩn nễ nĩnh bát ra, ca ra da ta phạ hạ. Kim Cang Trí dịch: Chữ nĩnh nói nê, tụng ba biến lấy ấn diêu động ba vòng.
THỨ KIẾT THƯỢNG PHƯƠNG VÕNG GIỚI ẤN
Theo như Tường giới ấn ở trước, mở ngón tay trỏ bên trái, ngón tay mặt đè ngón trái giữa trung tiết giao với nhau lại tức thành. Tụng chú này ba biến.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Theo như tưởng giới ấn, mở ngửa ra, ngón tay bên mặt nắm đầu ngón trỏ bên trái, đầu ngón cái bên trái nắm đầu ngón trỏ bên mặt, đầu ngón út đứng thẳng như cũ tức thành.
Chơn ngôn: Úm (án) – Chuẩn nể nĩnh bán nhạ ra ta phạ hạ.
(Chữ nhạ đọc ra. Kim Cang Trí dịch: Chữ nĩnh đọc nê, chữ ra đọc chữ lạ, tụng ba biến. Lấy ấn tùy theo đó mà dung động qua ba lượt. Riêng có bộ lấy ấn để nơi đảnh xoay quanh bên hữu rồi xả ấn.
Do tụng Chơn ngôn kiết ấn gia trì, tức thành lưới Kim Cang kiên cố bất hoại.
(Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ nói: Do sức ấn chú gia trì nên phương trên che lưới Kim Cang kiên cố, cho đến các cõi trời Tha hóa Tự Tại không thể chướng nạn, người hành giả thân tâm an vui, Tam ma địa dễ thành tựu.)
THỨ KIẾT HỎA VIỆN MẬT PHÙNG ẤN
Lấy tay tả đậy lên lưng tay hữu trùng nhau (linh vô phùng) thẳng đứng hai đầu ngón tay cái, tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến xoay quanh bên hữu ba vòng. Tưởng ngoài vách tường Kim Cang có đại Kim Cang hỏa diệm đoanh vây chung quanh.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Lấy tay trái che kín lên lưng tay mặt trùng nhau, đứng thẳng hai ngón tay cái, cách nhau hai lóng nhỏ.
Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ dạy: Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng ánh quang rực rỡ. Lấy ấn nhiễu quanh bên mặt ba vòng, nơi ngoài tường Kim Cang lại có ánh sáng rực rỡ đoanh vây chung quanh, tức thành hỏa giới kiên cố thanh tịnh.
Chơn ngôn: Úm (án) – A tam mãn nghĩ nễ hồng phấn tra (chữ Hồng bán thinh)
GIẢI: Chữ tam khứ thinh, chữ mãn thượng thinh cũng nói ma, hoặc xã, hay là mang, kéo dài âm thinh ra, nghĩ. Hoặc nghĩ, Tô Tất kinh nói tiếng niệm trong cổ họng. Kim Cang Trí dịch: Úm (án) – A tam ma kỳ nễ hộc ta phạ ha.
Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn, thành đại Mật bộ bủa giăng kín đáo. Không bị các ma nhập vào.
THỨ KIẾT Ứ GIÀ ẤN
GIẢI: Ứ già hoặc Át già, lại nói A già. Ðây là nói rằng khí, đồ đựng. Phàm đồ đựng cúng dường đều xưng là Ứ già nghĩa là lấy uất kim, long não, bạch đàn hương v.v…để nước đầy trong Ứ già diệu khí mà phụng hiến đó. Ðồ đựng này làm bằng vàng, bạc, bảo ngọc, đồng đá, gỗ, sành, chén loa và chuyết liên diệp, nhũ thọ diệp, đều được.
Làm đồ Ứ già cúng dường phải làm thứ đồng tốt làm đồ đựng Ứ già là hơn hết. Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Làm Ế Ðể Ca pháp phải dùng đồ đựng màu trắng, để chút ít gạo nếp và sữa. Làm Bố Sắt Vi Ca pháp phải dùng đồ đựng màu vàng, nên để hộ ma và sữa chín. Làm Tỳ Giá Rô Ca pháp phải dùng đồ đựng màu đen, để gạo tẻ và ngưu thỉ, hoặc lấy chút huyết của mình ( sau này sẽ giải thích.)
Hai tay tréo nhau bên trong, dựng hai ngón tay giữa đầu ngón dính sát nhau, lấy hai ngón tay trỏ vịn lưng hai ngón tay giữa, hai ngón tay cái vịn sát dưới lóng cuối cùng của hai ngón tay trỏ tức thành căn bản ấn. Theo như ấn căn bản trước. Co sát hai ngón tay cái vào bàn tay, tức thành Ứ già ấn, tụng Chơn ngôn ba biến.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Theo như căn bản ấn trước, lấy hai ngón tay cái mỗi ngón nắm vịnh đốt thứ nhất cuối cùng của ngón tay trỏ, tức thành.
Chơn ngôn: Úm (án) – Giả lễ chủ lễ chuẩn nê hát kìm bát ra để, tha bà nga phạ để ta phạ hạ.
GIẢI:  Kim Cang Trí dịch: Úm (án) – Chiết lệ chủ lệ Chuẩn Ðề hát kìm bạt già phạ đế bát ra để ta sa phạ hạ.
Xét Chơn ngôn này với bổn dịch đồng, chỉ sau hai câu đảo nhau không đồng vậy. Bản dịch lấy bát ra để tha, để nơi trước, bà nga phạ để, lại nơi sau. Ngài lấy bạt già phạ đế, để nơi trước, bát ra để ta, để nơi sau. Bởi vì riêng bản Trì Minh trong kinh tạng cũng đồng với Ngài Kim Cang Trí.
Hành giả tư duy Thánh chúng rõ ràng phân minh, tưởng tự thân mình ở dưới chân chư Phật, Thánh chúng, tay cầm bát bảy báu đồ ứ già, đựng đầy nước thơm rửa chân Thánh chúng, do dâng hiến nước thơm hương ứ già cho nên hành giả ba nghiệp được thanh tịnh, tẩy sạch phiền não cấu trược, nghiệp chướng tiêu trừ.
GIẢI: Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ dạy: Do hiến cúng ứ già hương thủy, rửa hai chân Thánh chúng khiến hành giả ba nghiệp thanh tịnh, tẩy trừ tất cả phiền não tội cấu. Từ Thắng Giải Hạnh Ðịa đến Thập Ðịa và Như Lai Ðịa, sẽ chứng như vậy cho đến đạt địa vị Ba la Mật, các đức Như Lai trao nước cam lồ pháp thủy để quán đảnh. Lại Ngũ Tự Tâm Ðà Ra Ni nói: Uống nước này trừ các tai hoạn.
THỨ KẾT LIÊN HOA TÒA ẤN
Theo như căn bản ấn trước, hai ngón tay cái hướng thân đứng thẳng, vận tởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng sư tử tòa phụng hiến tất cả Thánh chúng, các vị Thánh chúng ấy mỗi mỗi đều ngồi.
Kim Cang Trí dịch ấn chú đều đồng, mà ấn nói rằng: Hai ngón tay cái hướng thân mở ra đứng thẳng tức thành. Tâm tưởng ở trong đạo tràng có các bảo điền (như đài sen, như hoa bèo) sư tử tòa, trên tòa có có hoa sen trắng nở, an trí Thánh giả. Tức tụng Chơn ngôn ba biến.
Chơn ngôn: Úm (án) – Ca ma lạ ta phạ hạ (Mạ cũng nói ma thượng thinh, chữ lạ cũng nói la hoặc ra).
Do kiết ấn tụng Chơn ngôn, phụng hiến Thánh chúng cho nên người hành giả sẽ được Thập Ðịa đầy đủ và được tòa Kim Cang.
GIẢI: Người tu hành cũng được ba nghiệp bền chắc, cũng như Kim Cang. Nói Kim Cang tòa ấy nghĩa là ngồi trên tòa Kim Cang mà thành Ðẳng Chánh Giác. Nay đây Thần chú là cảnh giới của chư Phật đã có, nên thần lực không thể nghĩ bàn, chỉ nên sinh lòng tin thọ đọc tụng tự nhiên diệt chướng thành đức, vượt phàm lên Thánh. Cho nên nói rằng: Sẽ được Thập Ðịa mãn túc, được tòa Kim Cang. Kinh Minh Trì Tạng dạy: Người tu hành tụng Chơn ngôn rồi, liền nói: xin nguyện Thánh chúng, chỗ tòa này đã xong, quý Ngài an trụ nơi đạo tràng, thọ sự cúng dường của con.
THỨ KẾT THÁO DỤC ẤN
Theo như căn bản ấn trước, lấy hai đầu ngón tay cái nắm đốt giữa của hai ngón tay giữa tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Lấy hai ngón tay cái nắm đốt dưới cùng của hai ngón tay giữa.
Chơn ngôn: Úm (án) – Giả ta phạ hạ (hay Án – Chiết ta phạ hạ).
Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh (hào quang sáng), mỗi một đường hào quang sáng có vô lượng hiền bình bảy báu, tưởng đầy nước thiên diệu hương thủy, rót tưới tắm rửa tất cả Thánh chúng. Lại tưởng trong hư không có vô lượng thiên nhạc cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và hết thảy Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn, người tu hành không lâu sẽ chứng được Pháp Vân Ðịa.
GIẢI: Pháp Vân Ðịa là đệ Thập Ðịa, nghĩa là Bồ Tát tu thành công đã đầy đủ, làm các việc giáo hóa lợi ích chúng sanh, lòng đại từ như mây che khắp cả. Thần Biến Sớ nói: Như các Bồ Tát khác vì cầu Bồ đề, tuy tu nhiều khổ hạnh khó làm, như cứu lửa cháy đầu, trải qua vô lượng kiếp còn không thể đắc. Nay người tu hành Chơn ngôn không thiếu phép tắc, chỉ nội trong đời này được quả Bồ đề. Kinh Ðại Giáo Vương nói: Nếu không  y bí Mật khóa tụng tu hành, trọn không thể thành Vô thượng Bồ đề.
THỨ KẾT ÐỒ HƯƠNG ẤN
Theo như căn bản ấn trước, lấy hai ngón tay cái đưa qua bên mặt, ngón tay trỏ dưới đốt cuối cùng một bên, tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (Kim Cang Trí dịch ấn chú đều đồng)
Chơn ngôn: Úm (án) – lễ ta phạ hạ (án lệ ta phạ ha.)
Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi mỗi đường hào quang sáng có vô lượng thiên diệu đồ hương (hương thoa), mạt hương (hương bột nhiều như mây trời nước biển), vân hải. Cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và hết thảy Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên sẽ được chứng tất cả Như Lai giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hương.
GIẢI: Hương nghĩa là huân văn, cho nên đều chứng hương của ngũ phần pháp thân. Như các Bồ Tát khác, do trì giới thanh tịnh nên giới thể được thành tựu, đắc được vô trì vô phạm. Nếu tu tập vô lậu thiền định, được căn trần hết sạch, xa lìa các tán loạn. Nếu tu tập vô lậu trí huệ, đoạn ba cõi phiền não mà ra khỏi sanh tử, không còn tạo các nghiệp, được thoát các lụy ràng buộc mà giải thoát tự tại. Tri tức vô sanh trí. Nhãn tức là chiếu soi rõ ràng phân biệt hư vọng của thức tâm, mà trí vô sanh, nhãn tự tại sáng suốt. Nay hành giả trì Chơn ngôn, không nương các món tu ấy mà do sức của Chơn ngôn cho nên vượt hẳn các giai cấp, chứng đắc được ngũ phần pháp thân.
Lý Thú Sớ nói: Sức lớn tánh đức, Mật chú công mạnh, giải hạnh tuy kém, giải thoát thì mau.
Cho nên Thành Phật Tâm Yếu nói: Hiển giáo viên tông cần yếu trước ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y ngộ tu mãn Phổ Hiền Hạnh Hải, được lìa sanh tử chứng thành mười thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc hay, cần yếu phải tự biết phân lượng, phép tắc bào chế hiệp thành mới uống, được trừ bịnh thân an. Nay Thần chú này là Mật giáo viên tông, tất cả chúng sanh và nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu được chỉ trì tụng liền đầy đủ Tỳ Lô pháp giới, Phổ Hiền Hạnh Hải, tự nhiên lìa được sanh tử, thành tựu mười thân, vô ngại Phật quả, như người bịnh được viên thuốc hay đã chế thành, tuy không biết phân lượng phép tắc hòa hợp, chỉ uống đó tự nhiên trự bịnh thân an. Cho nên kinh Ðại Bát Nhã dạy: Tổng trì như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời, có công năng trị lành các mê lầm, uống đó thường an vui.
THỨ KIẾT HOA ẤN
Theo như căn bản ấn trước, lấy hai ngón tay cái đưa qua đốt cuối cùng của hai ngón tay trỏ một bên tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (dưới chữ tiết (đốt) nên có chữ trắc (bên). Kim Cang Trí dịch, ấn này đồng.
Chơn ngôn: Úm (án) chủ ta phạ hạ.
Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minh có vô lượng các món thủy lục thiên diệu hoa vân hải, cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và hết thảy Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên sẽ được thành tựu đại từ Tam ma địa, có thể lợi lạc vô biên chúng sanh, các tai nạn không dính đến thân.
GIẢI: Ðại từ tức là Vô Duyên từ. Nói Vân Hải: Vân nghĩa là tùy duyên, nghĩa là các món cúng này đầy đủ sắc tướng hiển bày rõ ràng mà trí chiếu soi nơi vô tánh, tứ pháp tánh không, vô sanh pháp phát khởi ra năng hiện và sở hiện. Năng hiện tức sức hạnh nguyện, sở hiện tức nổi lên sự cúng dường đầy đủ, không có chỗ y cứ chỉ ứng dụng mà đến, đến không chỗ từng dụng, tạ rồi mà đi, đi không chỗ để đến mà hay năng xả bi mẫn, rưới mưa pháp vũ cứu giúp lợi ích vạn vật, trùng trùng vô tận, giống như mây che khắp. Nói Hải ấy là để tiêu biểu cúng dường xứng lý cho nên thâm sâu. Xứng sự cho nên rộng lớn. Lấy sâu rộng mà thí dụ như biển. Như vậy mỗi một món cúng dường đầy đủ xứng nơi chân lý bình đẳng khắp hư không giới. Tức lấy toàn pháp thân dạo các cõi Phật. Vật xứng chơn cúng dường chư Phật, Thánh chúng. Người tu hành an tâm quán hạnh nơi các món cúng dường đầy đủ xứng lý mà thành tựu. Bởi vậy nên pháp thí cúng dường Phật đều gọi là Chơn cúng dường vậy.
THỨ KIẾT THIÊU HƯƠNG ẤN
Theo như căn bản ấn trước, co ngón tay trỏ bên hữu nắm hai đầu ngón tay cái, tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (Kim Cang Trí ấn chú đều đồng).
Chơn ngôn: Úm (án) – Lễ ta phạ hạ.
Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minh có vô lượng hòa hợp câu sanh thiên diệu hương đốt thắp khói, hương như mây che, như biển lớn hải vân, cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát và tất cả Thánh chúng. Do kiết ấn này tụng Chơn ngôn cho nên khắp biến pháp giới, Tam ma địa thành tựu.
THỨ KIẾT ẨM THỰC ẤN
Theo như căn bản ấn trước, lấy ngón tay trỏ bên tả nắm hai đầu ngón tay cái tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến (Kim Cang Trí ấn chú đều đồng.)
Chơn ngôn: Úm (án) – Chuẩn ta phạ hạ.
Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minh có vô lượng thiên diệu các món đồ ăn uống. Vân hải, cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thánh chúng. Sẽ được pháp hỷ thiền duyệt thực, ba giải thoát tối thắng vị, Tam ma địa thành tựu.
GIẢI: Bởi ham muốn Ðại thừa pháp nên được pháp nuôi lớn hột giống đạo, tâm sanh vui mừng. Không ham thích mùi vị ở đời, mà thường giữ gìn chánh niệm ấy là pháp hỷ thực. Do đắc được thiền định tự nuôi dưỡng tăng trưởng huệ mạng. Ðạo phẩm tròn sáng chánh niệm hiện tiền. Tâm thường vui vẻ, không tham vị đời ấy là thiền duyệt thực.
Tô Tất Ðịa cúng dường pháp dạy rằng: Nếu không sắp bảy đồ hương cho đến đèn sáng cúng dường, chỉ tụng như trên phụng đồ hương v.v… Chơn ngôn và tay kiết ấn cũng thành viên mãn cúng dường. Sau vận tâm cúng dường, đem tâm vận tưởng thủy lục các hoa vô chủ sở nhiếp, biến mãn hư không tận mười phương giới và cùng trời người, mây diệu đồ hương, hương thắp, đèn sáng, tràng phan, tàn lọng, các món cổ nhạc, ca vũ xướng hát, chơn châu lưới báu, treo các linh báu, các tràng hoa, phất trần trắng, các tiếng vi diệu như khánh, chuông rung, linh như ý, bảo thọ, y phục như mây trời và các thứ bếp trời, món ăn thượng diệu, hương thơm mỹ vị các món bảo trụ lầu các, chư Thiên nghiêm thân, đầu mão anh lạc, như mây bay khắp v.v… Người hành giả vận tâm biến khắp không. Lấy chí thành tâm như vậy cúng dường rất là hơn hết. Như trên phát hạnh ấy, vì quyết định nơi tâm mà làm pháp này. Vận tâm cúng dường tụng Chơn ngôn và tay kiết ấn, như trên đã tưởng cúng dường thảy đều thành tựu.
Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Nếu hương hoa ẩm thực không thể có để hiến cúng, chỉ tụng bốn sắc Chơn ngôn và tay quyết ấn mà hiến cúng. Những vật cúng dường tiêu biểu ấy không thể cầu mà được mà chỉ nạp Chơn ngôn, bởi vì Chơn tâm nên mau được mãn nguyện.
Ngoài đây ra, có bốn thứ cúng dường, khắp thông các bộ, tất cả chỗ dùng. 1- Chắp tay. 2- Lấy ứ già. 3- Dụng Chơn ngôn và mộ nại la. 4- Chỉ vận tâm. Trong hiện phẩm này, tùy sức mà làm, hoặc thời gian dài, trong khi cúng dường ấy không qua sự vận tâm. Như đức Thế Tôn nói: Trong các pháp hạnh, lấy tâm làm đầu. Nếu năng đem tâm mà cúng dường, được mãn nguyện tất cả nguyện.
Lại nên biết, không nên vừa nghe vận tâm liền lại tiếc tiền xan tham không sắm sửa đồ cúng dường thì Tất Tô Ðịa khó thành. Nếu năng bày biện các đồ cúng dường, lại gia trì Chơn ngôn thêm tâm vận tưởng rất là thù thắng. Cho nên các kinh kia dạy rằng: Người trì tụng không hiến dâng các món cúng dường ẩm thực, đó là trái với bổn bộ, người đó đắm trước nơi ma chướng, thân không có tinh quang sáng sạch, phong độ xem như đói khát, thường có ác tư tưởng, không thể thành tựu, Bổn Tôn Chơn ngôn không hiến dâng. Thì Bổn Tôn quả thực nơi sáu ngày trai, phải rộng bày các món cúng dường phụng hiến đức Bổn Tôn và các quyến thuộc. Nên rửa tay, súc miệng, nuốt nước xong, sau mới trưng bày các món cúng dường ẩm thực. Theo bổn bộ Chơn ngôn, vận tưởng hương hoa v.v cúng dường đều từ trong ấn lưu xuất ra rất là thù thắng. bởi thủy lục vô chủ, hương hoa do vận tưởng. Hoặc sợ người sơ học quán tâm chưa thuần thục, dùng đây để trợ giúp mau thành rất là nhiệm mầu. Nói ba giải thoát ấy: 1- Không giải thoát, 2- Vô tướng giải thoát, 3- Vô nguyện giải thoát. Cũng gọi tam muội, ba món này tức Niết Bàn môn, là chỗ hiền Thánh ưa thích, trong hết thảy pháp giải thoát không qua đây, nên nói rằng tối thắng vị.
THỨ KIẾT ÐĂNG ẤN
Theo như căn bản ấn, lấy hai đầu ngón tay trỏ mỗi ngón nắm hai đầu ngón tay cái tức thành. Tụng Chơn ngôn ba biến.
Chơn ngôn: Úm (án) – nê ta phạ hạ.
Ngài Kim Cang Trí dịch ấn chú đều đồng. Như các bộ kia nói rằng: Như trước đồ hương ấn v.v… mỗi ấn chạm nơi sắc vật trên để cúng dường. Xét riêng các bộ Ðà Ra Ni có hương hoa ẩm thực cúng dường v.v… ấn chú mà chữu câu rườm rà. Nay bộ Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này chỉ cải bổn ấn lấy gốc sáu chữ Chơn ngôn mà thành sáu món cúng dường, thật là diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Tưởng từ ấn này lưu xuất ra vô lượng quang minh, mỗi một đường quang minh có vô lượng các thứ bảy báu, đèn đuốc vân hải như mây bay, như biển lớn cúng dường Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thánh chúng. Sẽ được Bát Nhã ba la Mật quang minh, ngũ nhãn thanh tịnh.
GIẢI:  1- Nhục nhãn, 2- Thiên nhãn, 3- Huệ nhãn, 4- Pháp nhãn, 5- Phật nhãn. Bát Nhã đây nói trí huệ. Ba la mật nghĩa là đến bờ bên kia (bờ giải thoát). Do hiến cúng đèn sáng nên cảm được trí huệ sáng suốt, được ngũ nhãn thanh tịnh, được đến bờ kia vậy.
Trên đây tác pháp, làm phép kiết giới, cúng dường Chơn ngôn, cùng với Trì Minh Tạng Nghi Quỹ kinh đồng. Chỉ kiết ấn có khác. Kinh kia nói rằng: Các ấn tướng như vậy, người tu hành cứ tâm ghi nhớ luyện tập, khiến tinh thông thuần thục để khi làm phép tác pháp không còn sai lầm. Nếu có chút ít sai lầm tức không thành ấn khế. Ấn khế không thành tức Hiền Thánh không vui thì việc mong cầu sẽ không thu hoạch kết quả thành tựu.
* * *
BỘ MẬT TÔNG
(Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức
C. TẬP BA
KINH CHUẨN ÐỀ ÐÀ LA NI HỘI THÍCH
Quyển Trung
4. Văn tán thán
5. Bổn tôn Ðà La Ni bố tự pháp
6. Tư duy tự mẫu chủng tử nghĩa quán tưởng Phạn tự
7. Phiến để ca pháp. Dứt tai ương pháp môn
8. Bố sắc trí ca pháp. Tăng ích pháp môn
9. Phạt thi ca ra noa pháp. Kính ái pháp môn
10. A tỳ giá lỗ ca pháp. Hàng phục pháp môn
THẤT CÂU CHI PHẬT MẪU
SỞ THUYẾT ÐÀ LA NI KINH HỘI THÍCH 
Quyển Trung
* * *
THỨ ÐẾN TỤNG BÀI PHẠN VĂN TÁN THÁN
A Phạ đát ra tả đổ ra na xá, ra đà ta ma ra lị bổ cú trí bát ra noa ma bạt na vĩ hế đế a giả lễ đát lai ta lị tố nễ tổ lễ, tất dạ tư chuẩn nê tát ra muộn để nẫm, bà phạ xá ma nễ ta phạ, hãn, đế tát bát ra noa phệ đát nễ dã đà, ngật lệ ra, noa nghiệt đế a vĩ đa tát đát phạ na ma nể bát ra tỉ, na lộ, ca đát dả, ra đà ca rị ra ngật đa, ra vĩ dựng, na thú, tỉ nể bá, đát ra ca ra na ngật sử nĩnh ta phổ châm tất thể đát phạ tấn để đa ma ra tham bát ra sắt châm lý khư nhạ nẵng nễ nhĩ na, nễ tát đế nẵng bát ra khố vũ địa lệ lã thỉ khư lê dả tát đát phạm, ra ni diễm nhạ bế đát mẫu nể mạo, nĩ phạ nhựt lị đởm chỉ lã đà di diễm tố ra lị bổ bà phạ nẫm bát ra phệ xa dả để a dẫn lị dả phạ lộ, chỉ đế  bá tất dạ để nặc tăng xả diêm tát đát đa nhạ bá, đá đán nẵng, tất đế ngạ nghiệt để kiên chỉ nễ dã tất đát phạm, nẵng na na, tất bạt yết để tỳ dược nhất để ta ca la bá, bả nẵng, xá nể bà nga phạ để bả sỉ đa ma, đát ra tất địa ca lị bố ra dả ma nỗ, ra tham minh tỉ, na để nẵng đát phạm, ta ma lãm ca thất tử đá bà nga phạ để chuẩn nê đà, ra ni tát nô đát ra tát ma bả đa.
Tán thán: Nghĩa là xưng dương khen ngợi sự tốt đẹp của Thánh đức đầy đủ vô biên phước trí, hay thành tựu việc mong cầu của chúng sanh tất cả cái vui thế gian, xuất thế gian, nhưng Ngài Kim Cang Trí dịch thiếu pháp tán thán này. Trong Trì Minh Tạng tuy đủ mà văn lại quá phiền phức. Người tu hành nếu không thể tán thán Phạn âm này, nên lấy bài kệ trong Tô Tất Ðịa kinh mà tán thán. Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Văn tán thán nên dùng những kệ tán của chư Phật và Bồ Tát đã nói, không nên tự làm. Kinh kia không có văn tán Chuẩn Ðề. Nay chép trong bản kinh, thuật lại một bài kệ để tán thán công đức Bổn Tôn.
Kệ rằng:
Ðại từ cứu Thế Tôn, thiện đạo nhứt thiết chúng.
Phước trì công đức hải, ngã kim khế thủ lễ.
Chơn như xá ma pháp, năng tịnh tham sân độc.
Thiện trừ chư ác thú, ngã kim khế thủ lễ.
Ðắc pháp giải thoát Tăng, thiện trụ chư học địa.
Thắng thiện phước đức nhơn, ngã kim khế thủ lễ.
Ðại bi Quán Tự Tại, nhứt thiết Phật tán thán.
Năng sanh chủng chủng phước, ngã kim khế thủ lễ.
Ðại Lực phẫn nộ thân, thiện tai trì Minh Vương.
Hàng phục nan phục giả, ngã kim khế thủ lễ.
(Phẫn nộ tức Minh Vương Ðại Oai Kim Cang.)
GIẢI:
Ðại từ cứu Thế Tôn, khéo dẫn tất cả chúng.
Phước trì biển công đức, con nay cúi đầu lễ.
Chơn như pháp xa ma, năng sạch tham sân độc.
Khéo trừ các ác thú, con nay cúi đầu lễ.
Ðược pháp giải thoát Tăng, khéo trụ các học địa.
Hơn trên phước đức nhơn, con nay cúi đầu lễ.
Ðại Thánh Chuẩn Ðề Tôn, thương xót nơi thế gian.
Thành tựu các Tất Ðịa, con nay cúi đầu lễ.
Ðại Bi Quán Tự Tại, hết thảy Phật ngợi khen.
Năng sanh các món phước, con nay cúi đầu lễ.
Ðại Lực thân phẫn nộ, lành thay trì Minh Vương.
Hàng phục kẻ khó phục, con nay cúi đầu lễ.
(Phẫn nộ thân tức là Minh Vương Ðại Oai Kim Cang.)
KẾ NÓI BỔN TÔN ÐÀ RA NI BỐ TỰ PHÁP
Quán tưởng từ đầu đến chân, mỗi một chữ Chơn ngôn co quẹo phân minh rõ ràng, phát ra ánh sáng, chiếu soi nơi sáu đường luân hồi của bốn loài hữu tình, phát khởi lên lòng bi mẫn thâm sâu ban mọi an vui cho họ. Dùng Ðà Ra Ni chính chữ bố liệt khắp nơi thân của người hành giả tức thành. Lấy Như Lai ấn mà tám vị Bồ Tát lớn đã gia trì nơi thân. Hoặc làm bốn pháp Tức tai, Tăng ích, Hàng phục, Kính ái, Nghĩa là màu trắng, màu vàng, màu đen, màu đỏ, thành xong Tất Ðịa rồi liền kiết Bố Tự ấn. Hai  tay tréo nhau bên trong, hai ngón cái, hai ngón trỏ, hai  ngón út hiệp nhau đứng thẳng tức thành.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Tay kiết ấn này thành, liền tưởng tự thân mình cũng như đức Như Lai, có 32 tướng và 80 món tốt đẹp, sắc màu vàng tía nơi thân hào quang sáng suốt tròn đầy. Tưởng rồi lấy tay khế ấn ấy, chạm xúc nơi trên đầu bố chữ ÁN chạm xúc nơi bố chữu CHIẾT mỗi mỗi y chữ, thứ lớp cho đến hai chân, đều lấy khế ấn chạm xúc mà an bố.
Tưởng chữ Án an để nơi đảnh, lấy ngón tay cái chạm vẽ trên đầu (chữ Phạn ÁN) Lại tưởng chữ CHIẾT đầy đủ nơi hai tròng con mắt, tưởng chữ LỆ lấy ngón tay cái chạm vẽ trên đôi mắt trái và mặt. Tưởng chữ CHỦ an nơi trên cổ chỗ yết hầu, lấy ngón tay cái chạm vẽ vào. Tưởng chữ LỆ để nơi tâm giữa ngực, lấy ngón tay cái chạm vẽ vào. Tưởng chữ CHUẨN an để nơi hai vai trái mặt, lấy ngón tay cái chạm vẽ vào . Tưởng chữ ÐỀ an đển nơi trên rún, lấy ngón tay cái chạm vẽ vào. Tưởng chữ TA BÀ an nơi hai bắp vế mặt và trái, lấy ngón tay út chạm vẽ vào. Tưởng chữ HA an trên hai cổ chân mặt và trái, lấy ngón tay út chạm vẽ vào.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Mỗi chữ đều có một bài kệ giải thích và khiến quán chữ sắc tướng rõ ràng. Song sự an bố kia cùng bản dịch này thì tóm lược, nên có khác chút ít không chép ra đây, như muốn biết, sau pháp trì minh sẽ tóm tắt chép ra.
Ðiều nên biết là tưởng chín chữ Phạn Chơn ngôn ấy là chữ Phạn nước Thiên Trúc, chứ không phải văn tự ở phương này. Nhứt Tự Ðảnh Luân Vương Nghi Quỹ nói: Quán các chữ, chỉ là quan chiêm Phạn tự chẳng phải văn tự theo địa phương mà có sức đại thần dụng.
Hỏi: Vì sao chữ Phạn đều có sức thần dụng không thể nghĩ bàn như thế?
Ðáp: Nghĩa là mỗi một chữ đương thể tức là tâm của chư Phật cho nên đương thể tức là ly tướng pháp giới, đương thể cũng là Giáo, Lý, Hạnh, Quả vì thế nên có sự thần dụng không thể nghĩ bàn vậy.
Hỏi: Chữ Phạn ở Thiên Trúc là pháp nhĩ bổn hữu. Vì sao vậy? Bởi vì khi thế giới mới sơ thành, do trời Phạm Thiên truyền nói, không đồng văn tự phương này là do Thương Hiệt chế tao ra. Nếu vậy phàm là chữ Phạn Thiên Trúc đều có thần dụng không thể nghĩ bàn, sao lại được khen riêng những chữ trong Chơn ngôn ư?
Ðáp: Vì những chữ trong Chơn ngôn do thần lực gia trì của chư Phật không thể nghĩ bàn. Thể gồm nhiều nghĩa, pháp tánh như vậy, nên có thần dụng đặc biệt. Như văn tự ngôn ngữ phương pháp tuy nhiều, duy chỉ một câu chú ngữ “CẤP CẤP NHƯ LUẬT LỊNH” v.v… chú vào lửa không thiêu đốt được, chú vào nước sôi không làm nóng bỏng, chú vào dao không chém thương, chú vào độc không trúng. Do đã làm chú ngữ nên riêng có sự thần dụng  ấy không phải hết thảy văn ngôn khác đều có công lực đó. Thiên Trúc cũng thế, văn tự tuy một, duy chữ trong Chơn ngôn riêng có thần dụng oai lực không phải tất cả chữ khác đều có thần dụng như vậy.
Hỏi rằng: Thần chú là pháp bí mật của chư Phật, còn chẳng phải biết chỗ biết của nhơn vị. vì sao nay giải thích nghĩa chín chữ Thánh Chuẩn Ðề.
Ðáp: Căn cứ Hiền Thủ Tâm Kinh Sớ và Thần Biến Sớ, cùng các kinh trong Mật Tạng giải thích chữ trong Ðà Ra Ni. Ý có hai môn:
1-Bất khả thuyết môn, nghĩa là chú pháp bí mật của chư Phật chỉ Phật với Phật truyền nhau, kẻ khác không thông hiểu. Chỉ nên trì tụng không cần phải gượng giải thích.
2-Cưỡng thuyết môn, nghĩa là trong Chơn ngôn tùy nêu cử lên một chữ, hoặc làm nhơn, hoặc tác pháp, bao gồm cả thời gian và không gian tự tại giải nói. Nói tóm lược nơi trong một chữ vô tận pháp môn, giải nói cho hết mới là chữ nghĩa của Ðà Ra Ni. Nói đến đây, giả sử mười phương chư Phật, trải qua hằng sa kiếp chung nói một chữ nghĩa trong Chơn ngôn cũng không thể hết. Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương nói: Sáu chữ Ðà Ra Ni là bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát mà vô lượng Như Lai còn khó biết thay huống nữa ở nhơn vị Bồ Tát làm sao hiểu được ư?  Phải biết, biết đó còn khó huống là thọ nhận ấy ư! Nay trong một chữ tóm lại mà giải thích tức là cưỡng thuyết môn, trong một phần nhỏ ấy  chỉ giải nghĩa một mặt. Nghĩa là nơi một chữ trong Chơn ngôn, hoặc hai nghĩa, năm nghĩa, mười nghĩa cho đến trăm nghĩa v.v… giải thích chỉ là thiếu phần nghĩa. Nếu giải thích một nghĩa, gọi là nghĩa một mặt. Như trên đã nói rằng: Còn chẳng phải nhơn vị có thể hiểu, đó là căan cứ Mật giáo Viên tông Bất khả thuyết môn mà nói, nghĩa bất khả thuyết môn kia phải là Mật giáo Viên tông, ly ngôn quá hải. Còn nghĩa Cưỡng thuyết môn kia là Hiển giáo Viên tông nên đem lời nói mà phân giải vậy.
Do quán tưởng an bố Chơn ngôn, kiết Ấn gia trì nên thân người tu hành tức thành thân Chuẩn Ðề Phật Mẫu, diệt trừ hết thảy nghiệp chướng, chứa nhóm vô lượng phước đức tốt, thân ấy thành thể Kim Cang bất hoại. Nếu thường chuyên chú quán tưởng tu hạnh, hết thảy Tất Ðịa đều được hiện tiền, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Tưởng niệm an bố các chữ như vậy rồi, liền thành Chuẩn Ðề thù thắng pháp môn, cũng gọi Bổn Tôn chơn thật tướng, hay diệt các tội được mọi cát tường, cũng như chứa nhóm Kim Cang kiên cố, đó gọi là pháp Chuẩn Ðề thắng thượng. Nếu thường như vậy tu hành, phải biết người đó mau đến Tất Ðịa. Cho nên kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: Nếu như trong pháp Chuẩn Ðề Bồ Tát cầu được thành tựu, trước nên quán tưởng những chữ tự luân căn bản vi diệu của Chuẩn Ðề Bồ Tát, an trí nơi thân phần của mình, mỗi mỗi chữ phân minh rõ ràng, người ấy nếu thân đời trước có tạo tất cả tội nghiệp thảy được trừ diệt, phàm có mong cầu quyết định thành tựu. Thần Biến Sớ nói: Chơn ngôn người tu hành hay khiến ba nghiệp đồng với ba nghiệp của Bổn Tôn. Lại trong Chơn ngôn mỗi một chữ đều là toàn thân của chư Phật. Cho nên nói: Thân người hành giả tức thành thân Chuẩn Ðề Phật Mẫu. Phải biết Thần chú Chuẩn Ðề này là “Thể”, tức là pháp thân viên viên quả hải. “Dụng” tức không thể nghĩ bàn, sở dĩ nên được mau chứng Bồ đề Vô thượng.
THỨ KIẾT CĂN BẢN ẤN
(Như ứ già ấn ở trước, chép ra trong Trì Minh Tạng kinh nói: Người tu hành kiết căn bản ấn tụng căn bản Chơn ngôn thì Bổn Tôn Bồ Tát vui mừng ngó đến người tu hành.)
Tụng căn bản Chơn ngôn bảy biến rồi xả ấn lên đảnh. (Kim Cang Trí dịch dùng đệ nhị căn bản ấn, tụng căn bản Chơn ngôn.)
Tức lấy hạt Bồ đề đếm đủ 108 hột, y như pháp xâu lại thành tràng chuỗi, lấy hương thơm, thoa vào hạt châu kia, bưng châu trong hai lòng bàn tay, để ngang ngực tụng 7 biến Chơn ngôn gia trì vào tràng chuỗi.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Khi bưng chuỗi cúi đầu tâm chí thành đảnh lễ Tam-Bảo chư Phật, Bồ Tát. Nếu làm phép A Tỳ Giá Rô Ca nên dùng các hột đầu mà xâu làm tràng chuỗi, việc cầu nguyện mau thành tựu.
Chơn ngôn: Án – Phệ lô, giá na, ma la ta phạ hạ.
GIẢI: Chơn ngôn trì châu này, chữ phệ hoặc âm là phái. Kim Cang Trí dịch là Vi, nơi trên chữ ma có chữ A, còn các chữ khác đều đồng. Phệ Lô Giá Na, Tàu dịch là Biến Chiếu, cũng nói Ðại Nhựt như mặt trời trong thế gian chỉ chiếu sáng ban ngày, không chiếu được ban đêm, chiếu một thế giới, không chiếu khắp các thế giới khác nên không được gọi là Ðại Nhựt. Ðấng Ðại Nhựt Như Lai pháp thân cùng khắp pháp giới, mười phương thế giới đều chiếu diệu hết thảy. Nếu có người xưng danh quy y lễ bái sẽ được pháp  giới tất cả chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh cho đến Bát Bộ hộ vệ gia trì.
Gia trì đảnh đới xong, tâm miệng bạch lời nguyện rằng: Con nay muốn niệm tụng niệm tụng, xin nguyện Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát gia trì hộ niệm, khiến nguyện con mau được tùy ý, sở cầu Tất Ðịa viên mãn, nhiên hậu lấy tay trái ngón vô danh và ngón cái nương thừa hạt chuỗi, bên tay mặt lấy ngón cái và ngón vô danh lần đưa hạt chuỗi, tay như tướng thuyết pháp.
GIẢI: Trước lấy chuỗi gia trì đảnh đới, sau mới kiết ấn trì châu: Tay bên mặt, ngón cái nắm ngón vô danh, ngón trỏ mở thẳng ngón giữa, ngón út, hơi cong, ngón trỏ sát một bên lóng đầu của ngón giữa. Ðây là Phật bộ chấp số châu ấn. Kim Cang Trí dịch: Hai tay cách nhau một tấc, các ngón mở ra hơi cong .
Ðể nơi trước giữa ngực trì châu niệm tụng, tiếng giọng không chậm không mau.
GIẢI:  Ðây nói giọng tiếng trì tụng căn bản Chơn ngôn. Kim Cang Trí dịch: Không được cao giọng, cần phải xưng chữ cho rõ ràng phân minh, khiến mình tự nghe tên tiếng ấy. Nhứt Tự Phật Ðảnh Luân Vương Nghi Quỹ nói: Chữ câu phân minh mà tụng niệm, không chậm không mau, không được cổ họng ọe ho và khạc nhổ cùng các nhiễm tâm tương ưng, cho đến tâm duyên khổ thọ, nếu có các lỗi lầm ấy thì không được thành tựu.
Tâm chuyên chú không được duyên cái gì khác, quán tưởng thân mình đồng với thân của Bổn Tôn, đầy đủ tướng tốt. Nơi trước thân ở trong đàn quán tưởng Thất Cu Chi Phật Mẫu cùng quyến thuộc đoanh vây chung quanh rõ ràng, phân minh đối diện chỗ ngồi của mình.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Ðã quán tưởng đức Bổn Tôn và trên thân bố trí các chữ, niệm tụng ghi số từng mỗi một niệm. Một khi quán kiến, không  được cho thiếu sót, đừng để tâm phải tán loạn. Kinh Tô Tất Ðịa dạy: Khi niệm tụng không được khởi dị ngữ, tưởng Chơn ngôn như trước mắt mình liên tục như vậy, không được tâm tán loạn, duyên cảnh nơi khác, thân tuy mỏi mệt, không được buông lung, ngăn các ác khí, những chuyện thế gian không nên nghĩ tưởng đến. Không quên đức Bổn Tôn, dù thấy tướng lạ cũng chẳng cho là kỳ quái.
Mỗi khi xưng chữ Ta Phạ Hạ đồng thời lần một hạt chuỗi.
GIẢI: Kim Cang Trí dịch: Tụng Bổn Tôn Ðà Ra Ni một biến lấy tay mặt ngón vô minh chỉ lần qua một hạt châu, hết vòng rồi trở lại.
Một trăm lẻ tám hoặc 1080 là biến số niệm tụng, thường cần phải hạn định, nếu không mãn 108 tức không thành biến số Tất Ðịa mong cầu.
GIẢI: Kinh Tô Tất Ðịa nói: Y pháp niệm tụng rồi, nên khởi tâm cầu thỉnh: con y bổn pháp niệm tụng số mãn, xin nguyện Tôn giả lãnh thọ làm chứng cho, ở nơi trong mộng dạy dỗ con. Khi chánh thời niệm tụng, nếu có ho sặc buồn ngủ ợ ngáp, phải kiêng dè cung kính chữ Chơn ngôn. Khi ấy liền đứng dậy đi rửa mặt rửa tay sạch sẽ. Y như pháp rửa xong, trở lại từ trước mà niệm, chỗ bị cách ngại ấy cần phải bỏ mà niệm lại từ trước. Khi lần qua hết một tràng châu xong, phải lễ bái một lễ. Xong rồi trở lại niệm như trước, niệm một vòng khi thấy dung nhan đức Bổn Tôn thì liền đảnh lễ. Nếu khi chánh niệm tụng thoạt nhiên sai lầm, phải thành tâm sám hối lỗi lầm ấy, bởi do buông lung nên để vọng khởi lầm lỗi vậy. Nguyện đức Bổn Tôn bỏ lỗi cho, thân liền đảnh lễ, rồi trở lại như trước mà niệm tụng.
Niệm tụng xong rồi, nắm chuỗi nơi hai tay đảnh đới phát nguyện, nguyện công đức niệm tụng của con và tất cả chúng sanh đã tu chơn hạnh, cầu thượng, trung, hạ phẩm, Tất Ðịa mau được thành tựu. Rồi để chuỗi nơi trong hộp (bỏ ít bột hương vào)
GIẢI: Nói thượng, trung, hạ Tất Ðịa ấy, mỗi địa gồm có ba phẩm, cộng thành chín phẩm.
Hạ phẩm có ba:
1-Hạ phẩm thành tựu: Hay nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu cử ý tùng tâm, tất cả Thiên Long thường đến thăm hỏi. Lại hay hàng phục tất cả trùng thú và quỷ mị v.v…
2-Trung phẩm thành tựu: Hay sai khiến tất cả Thiên Long Bát Bộ, hay khai tất cả phục tàng, hoặc muốn vào A Tu La cung, Long cung thì liền được vào đó, đi đến tùy lòng.
3-Thượng phẩm thành tựu: Khiến được Tiên đạo thừa nương hư không bay đi qua lại khắp nơi trên trời dưới đất đều được tự tại, những việc thế gian và xuất thế gian hết thảy thông đạt.
Trung phẩm có ba:
1-Hạ phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các Tiên chú, trụ thọ vô số tuổi, phước đức trí tuệ ba cõi không ai sánh kịp.
2- Trung phẩm thành tựu: Liền được thần thông dạo khắp thế giới, làm Chuyển luân Vương trụ thọ một kiếp.
3-Thượng phẩm thành tựu: Hiện chứng Sơ Ðịa Bồ Tát vị trở lên.
Thượng phẩm có ba:
1-Hạ phẩm thành tựu: Ðược đệ Ngũ Ðịa Bồ Tát vị trở lên.
2-Trung phẩm thành tựu: Ðược đệ Bát Ðịa Bồ Tát vị trở lên.
3-Thượng phẩm thành tựu: Tam Mật biến thành ba thân, chỉ nơi đời này chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ðây là chín phẩm thành tựu của người trì chú, nên cầu thẳng đến thành Phật chứ không cầu trung, hạ, ba phẩm v.v… tức cầu ba phẩm thành tựu ở trên, còn các việc khác sau pháp Tăng ích sẽ rõ.
Ngồi nay thẳng, kết định ấn, nhắm mắt, lắng lòng, tịnh ý. Trong thân nơi giữa ngực ánh chói hiện ra như mặt trăng tròn sáng rực rỡ, khởi đại tinh tấn, quyết định thủ chứng. Nếu không biếng trễ chuyên công tu tập quyết sẽ được thấy tâm bổn nguyên thanh tịnh, nơi trong viên minh ấy, tưởng chữ ÁN, còn tám chữ kia xoay vòng bên hữu trên viên minh ấy, trong định cần phải bố liệt thấy các chữ Chơn ngôn cho phân minh rõ ràng, không tán động được đắc định, tức cùng Bát Nhã ba la mật tương ưng, tức họa vẽ viên minh luân.
GIẢI: Kiết định ấn ấy, lấy hai tay tréo nhau bên ngoài để nơi dưới rún. Hoặc lấy hai tay để ngửa đem tay mặt để lên bàn tay trái, hai ngón tay cái giáp móng lại với nhau, để ngang nơi rún. Trong Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ nói: Hai tay tréo nhau bên ngoài, hai ngón tay trỏ đôi lưng nhau, từ đốt giữa đứng thẳng, hai ngón tay cái nắm hai đầu ngón tay trỏ tức thành. Trong ba ấn này tùy kiết một ấn đều được. Ðây là Viên minh quán pháp, cũng gọi Du Già niệm tụng. Cho nên Ngài Kim Cang Trí nói: Nếu cầu giải thoát mau ra khỏi sanh tử, tu pháp Tam ma địa Du Già quán hạnh, vô ký vô số niệm tụng, tức tưởng tự tâm như mặt trăng tròn sáng vắng lặng thanh tịnh, trong ngoài phân minh. Lấy chữ ÁN an trong Tâm Nguyệt luân ấy. Lấy chữ CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ÐỀ TA PHẠ HA, từ trước xoay vòng bên hữu lần lượt liên tục nối nhau thành vòng tròn, quán xét nghĩa của mỗi chữ, tâm luôn luôn tương ưng không được sai khác.
TRÌ MINH TẠNG NGHI QUỸ nói: Chữ ÁN là Tỳ Lô Giá Na Phật căn bản. Chữ CHIẾT là Ðại Luân Minh Vương căn bản. Chữ LỆ là Ðại Phẫn Nộ Bất Ðộng Tôn Minh Vương căn bản. Chữ Chủ là Tứ Tý Phật Thân căn bản. Chữ LỆ là Bất Không Quyến Bồ Tát căn bản cũng là Quán Tự Tại Bồ Tát căn bản. Chữ CHUẨN là Ðại Tôn Na Bồ Tát căn bản. Chữ ÐỀ là Kim Cang Tát Ðỏa Bồ Tát căn bản. Chữ TA PHẠ là Y Ca Nặc Tra Bồ Tát căn bản. Chữ HẠ là Phạ Nhựt Ra Nẵng Khư Minh Vương căn bản.
PHIẾN ÐỂ CA PHÁP
Phiến Ðể Ca pháp ấy, cầu diệt tội chuyển chướng, trừ tai nạn, quỷ mị, tật bịnh, tù đày, giam cầm, bịnh dịch, quốc nạn, mưa nắng không đều, trùng tổn lúa nếp, năm thứ sao tinh ép ngặp bổn mạng, thảy đều trừ diệt, phiền não giải thoát, gọi là Tức tai pháp.
GIẢI: Phiến Ca Ðể dịch nghĩa là dứt tai ương. Trên lại gồm có nhiều nghĩa cho nên còn để nguyên Phạn âm không phiên dịch thẳng tiếng Trung Hoa. Ba pháp sau cứ theo đây mà biết.
Khi tu phép này phải mặc áo trắng, mặt hướng về phương Bắc, ngồi cát tường tọa tréo hai cổ chân đầu gối thẳng đứng, quán tưởng đức Bổn Tôn sắc trắng, cúng dường ẩm thực, quả trái, hương hoa, đèn nến các món thảy đều sắc trắng.
GIẢI: Tréo hai gót chân đầu gối thẳng, gọi là ngồi cát tường, hương hoa dùng bạch đàn, hương đốt dùng trầm thủy, đèn dùng bơ thắp, như không có bơ, dùng dầu trà trắng. Bản dịch nói: Quán tưởng sắc trắng. Ngài Kim Cang Trí dịch: Cũng đồng là sắc trắng. Ba pháp sau cũng vậy.
Theo tháng từ ngày mùng một đến ngày mùng tám, mỗi ngày ba thời niệm tụng, đêm làm phép hộ ma.
Dứt tai Chơn ngôn rằng: Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Nê … linh đệ tử … (nếu niệm tụng cho người khác thì xưng tên người kia) Phiến Ðể Cự Lỗ Ta Phạ Hạ.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Muốn làm Phiến Ðể Ca các phương pháp, hoặc tự thân mình làm, hoặc vì người khác làm, tức y theo pháp đây mà niệm tụng. Nếu muốn cầu dứt tai ương, trừ tất cả quỷ thần, và cầu thông minh, sống lâu, cầu giải thoát. Tức ở trong đạo tràng, mặt hướng về phương Bắc, tréo gót chân đầu gối thẳng đứng mà ngồi, cho đến mỗi ngày ba thời niệm tụng và làm phép hộ ma, nếu khi niệm tụng, trước tụng căn bản Ðà Ra Ni 21 biến, rồi nhiên hậu: Chỉ từ chữ Án mà tụng đó.
Diệu Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề gia hộ đệ tử … trừ tai nạn Ta Bà Ha.
Khi làm pháp này đều cần phải ở trong đạo tràng, như không có đàn tràng. Hoặc trước tượng Chuẩn Ðề an để Kính đàn, lại tưởng một cái đàn tròn sắc trắng, trong đàn tròn ấy, tưởng khắp chữ Phạ hoặc chữ Vãm. Tôn trọng cúng dường đầy đủ và tự thân đều tưởng ở trong đàn tròn ấy. Hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tròn cũng được, đem từ tâm tương ưng, khởi công cho đến ngày mồng tám, mỗi ngày ba thời tắm rửa, ba thời thay áo, đến ngày lúc mãn, hoặc không ăn, hoặc ăn ba thứ trắng là: sữa, sữa chín, cháo gạo gãy.
BỐ SẮC TRÍ CA PHÁP
Bố Sắc Trí Ca pháp (Tăng ích), cầu sống lâu, cầu vinh quang, phục tàng (của báu giấu kín trong lòng đất), giàu có, thông minh trí huệ nghe nhớ không quên, pháp được thành tựu, Kim Cang xử thành tựu v.v… hoặc nắn hình các loài sư tử, ngựa, voi, dùng Chơn ngôn gia trì ba tướng hiện ra, tùy theo thượng, trung, hạ, việc mong cầu được đắc quả. Như kinh Tô Tất Ðịa rộng nói: Kẻ trì minh muốn cầu tiên, nhập vào A Tu La và các hang của Tám bộ quỷ thần, muốn vào đều được, cho đến chứng địa vị thần thông, cầu hai món tư lương viên mãn, mau thành Vô thượng Bồ đề. Ðây gọi là Tăng Ích pháp, khi làm pháp này thân mặc áo vàng, mặt hướng về phương Ðông, ngồi kiết già phu, quán tưởng đức Bổn Tôn sắc vàng, các món cúng dường hương hoa, quả trái, ẩm thực, đèn nến… đều là sắc vàng.
(Hương thoa dùng huỳnh đàn, hoặc bạch đàn gia chút uất kim, hương đốt dùng bạch đàn, thắp đèn dầu mè.)
Theo tháng ngày mùng tám, đến ngày rằm, mỗi ngày ba thời niệm tụng, ban đêm làm phép hộ ma.
Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề … khiến đệ tử… Bố Sắc Trưng Cự Lỗ Ta Phạ Hạ.
GIẢI: Trưng âm chỉ, Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu muốn cầu tăng trưởng ngũ thông, Chuyển luân, các thứ bảo tàng, bố trước luân trử, hiền bình, như ý bảo an, thiện na ngược lý ca, chung và búa lớn, quyến tát, tam xoa v.v… tất cả tài bảo, cỏ thuốc. Cầu thành tựu ấy, thân mặc áo vàng, cho đến niệm tụng như trước.
Diệu Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề gia hộ đệ tử …sở cầu như ý Ta Bà Ha.
Như không có đàn tràng, để một Kính đàn trước tượng Chuẩn Ðề rồi tưởng một cái đàn vuông sắc vàng, ở trong đàn vuông ấy, tưởng khắp chữ A, hoặc chữ ÁM. Tôn trọng cúng dường đầy đủ, tự thân đều tưởng ở trong đàn vuông ấy, hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn vuông cũng được, đem tâm vui mừng tương ưng, tắm rửa thay áo như trước, đến khi ngày mãn cũng đoạn thực như trước v.v…
Ba tướng hiện ấy, nghĩa là ánh lửa xẹt, khói, hơi nóng phát ra. Nếu Chơn ngôn người tu hành khi muốn cầu thành tựu, căn cứ theo các kinh Ðà Ra Ni nên dùng bốn thứ vật. 1- Cung, tên, búa, câu liêm, bánh xe pháp luân, bảo xử, kính, hoặc số châu, bình bát, ca sa, các món vật dụng của chư Tăng. 2- Thư hoàng, hùng hoàng các món dược vật. 3- Lấy bùn đất trên bờ sông, đắp hình sư tử, ngựa, voi, ngưu, lạc đà, hoặc gà, ngỗng, công, chim kim sí v.v… các hình cầm thú. 4- Hoặc đắp vẽ điêu khắc các hình tượng Phật, Bồ Tát Minh Vương v.v… tùy tâm ưa muốn dùng làm một việc, y pháp thành rồi để trong đàn như pháp tụng chú, nếu khi được ánh lửa xẹt ra, hoặc tay cầm, hoặc thoa thân, hoặc thừa nương cùng trợ bạn tri thức bay lên hư không, hoặc có người thấy thành tựu, hoặc người được thành tựu thấy người kia thành tựu. Tóm lại bay lên hư không dạo các thế giới cúng dường chư Phật, Bồ Tát, đều thọ mạng một kiếp, chứng được sơ địa bách pháp minh môn, nếu khi khói phát ra dùng y như trước, được làm vua trong các Tiên, trụ thọ vạn vạn năm. Nên khi hơi nóng phát ra, được tất cả nhơn thiên kính ái, việc sở cầu được như ý. Ðây là ba thứ tướng hiện thành tựu. Nếu được ánh lửa xẹt ra, ấy là tướng thượng phẩm thành tựu, khói phát ra là tướng trung phẩm thành tựu, hơi nóng phát ra là tướng hạ phẩm thành tựu.
Tây phương xưa có một người được được thượng phẩm thành tựu, dẫm 500 người bay lên hư không. Lại nói rằng được ánh lửa xẹt ra, tất cả chư Thần thường đến ủng hộ. Bát bộ chúng đều đến cung kính dùng tất cả Thần chú được tối thắng linh nghiệm. Nếu tướng khói hiện ra, tùy chỗ đi đến không còn chướng nạn, việc mong cầu được toại tâm. Nếu hơi nóng hiện ra, được tất cả mọi người và quỷ thần đồng tâm kính ái.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Nếu muốn thành tựu các dược vật, có ba thứ thành tựu, ánh lửa sáng là thượng, hơi khói là trung, hơi nóng là hạ, nếu thừa nương hư không tự tại mà đi, đó là tối thượng, tàn hình ẩn tích là trung, thành tựu thế gian các việc là hạ. Ba món thành tựu tùy thượng trung hạ, lại phân biệt thượng thành tựu pháp trì minh đắc tiên nương thừa hư không du hành, thành tựu năm thần thông, hoặc đoạn dứt hết các lậu, hoặc đắc Bích Chi Phật Ðịa, hoặc chứng địa vị Bồ Tát, hoặc hiểu biết tất cả việc, hoặc biện tài đa văn, hoặc thành Phệ đa la thi, hoặc thành dược Xoa ni, hoặc đắc Chơn Ðà La Ni, hoặc được Vô tận phục tàng đầy đủ. Những việc như trên gọi là thượng trung thượng thành tựu pháp. Nếu ẩn tích tàng hình nơi thân được đại thế lực, từ trước giờ biếng nhác mà được siêng năng tinh tấn, vào cung Tu La được thuốc trường thọ. Thành Bát lệ sứ, Ca thiên sứ, hoặc hay sai khiến quỷ, hoặc hay thành tựu Ta la bộ nhĩ Ca thọ thần, hoặc thành đa văn ngộ lý nghĩa thâm sâu, hoặc hòa hiệp các thuốc, vừa thoa nơi chân nơi đảnh tức đi bộ xa ngàn dặm không mệt mỏi.
Như trên đã nói đều gọ là pháp trung thành tựu. Nếu pháp hạ thành tựu khiến mọi người  thấy được vui mừng, hoặc nhiếp phục được các người, hoặc có thể trừng phạt người ác, hàng phục các kẻ oán và các việc thấp hơn, đó gọi là pháp hạ trung hạ thành tựu. Hoặc thấy dung mạo hình tượng đẹp đẽ, Xá lợi, tháp v.v… thoạt nhiên lay động. Hoặc ánh lửa xẹt ra, phải biết không lâu sẽ chóng được thành tựu. Trong các pháp niệm tụng như trên, những pháp đã rõ có chín phẩm thượng, trung, hạ. Nếu muốn thành tựu luân tiên pháp, mà sắt tốt làm một cái vòng tròn dài hai ngón tay, một cái vòng để có sáu cạnh mặt võng nhọn bén. Nếu muốn thành thư hoàng pháp, khi được ánh sáng thư hoàng chiếu ra như sắc ánh sáng mặt trời mới vừa mọc, rự rỡ cũng như ánh sáng của kim sắc, đó là điềm tốt thượng hảo. Nếu muốn thành tựu đao pháp, lấy sắt già tốt làm lưỡi dao dài sáu tấc, bề dày một lóng ngón út, ngang bằng bốn ngón tay, không có các vết bịnh, sắc xanh biếc như cỏ thi, như lông chim linh. Nếu muốn thành tựu pháp Phật đảnh, lấy vàng làm Phật đảnh, cũng như vẽ hay in an để trên đài, cột đài kia dùng Tát phả chi ca bảo. Nếu muốn thành tựu pháp liên hoa, dùng vàng làm hoa sen tám cánh ngang hai ngón tay, đứng một khuỷu tay (3 tấc), hoặc dùng bạc, hoặc dùng đồng đỏ, gỗ bạch đàn. Nếu muốn thành tựu pháp bạt chiết la, lấy sắt tốt làm bạt chiết la dài mười sáu ngón tay, hai đầu mỗi đầu làm ba cổ nhọn. Hoặc làm gỗ đàn hương tía, vàng, bạc, đồng đỏ. Nếu muốn thành tựu pháp hùng hoàng, lấy sắc hùng hoàng lóng lánh như ngọc kim khôi chia thành từng phần, lại có ánh sáng như trên, hùng hoàng hay thành việc trên. Nếu muốn thành tựu pháp ngưu hoàng, lấy ngưu hoàng làm như trên. Nếu muốn thành tựu hộ thân tuyến (chỉ khâu) pháp, lấy chỉ tơ trắng nhỏ mịn làm ba sợi chỉ dài, ba sợi chỉ dài ấy nhờ người con gái nhỏ xe hiệp lại, hoặc chỉ vàng xe hiệp. Nếu người muốn thành tựu ngưu phấn, ở chốn lan nhã yên tĩnh, lấy ngưu phấn thiêu đốt thành tro dùng hòa với hương long não. Nếu muốn thành tựu cung tên, gươm giáo, độc cổ, xoa bội và các đồ khí tượng tùy theo vật dụng của thế gian, tùy ý mà làm. Nếu muốn thành tựu yên ngựa, xa thặng, ngưu dương tất cả chim thú và các vật khác v.v… tùy theo người đời đều làm như trên tùy ý ưa thích, những vật dã làm thành tựu để trong đồ bằng vàng bạc, đồng, loa, chén, các đồ bằng đá, gỗ, đất v.v… Hoặc trải lá nhũ hương, lá sen, lá chuối hoặc vải lụa mới, tùy đó mà bày biện. Lại lá có năm lớp, trước trải trên đất, để vật thành tựu lên, lại lấy năm lớp lá các vật kia có thể để tản ra, hoặc các áo, hoặc các tạp vật lần lượt nên biết chỗ đồ đựng đầy. Vậy sau đem tâm không tán loạn, làm phép tam ky đa, đem ánh sáng của tâm rọi vào vật kia và tán sái, tay cầm thìa thong thả đổ vào trộn với bơ để trên vật ấy, tụng bổn Chơn ngôn đến chữ Ha trở lại xúc vật kia bỏ vào đồ đựng bơ, như vậy qua lại ba lần xúc vật không được đoạn tuyệt, đó gọi là tam ky đa, hộ ma pháp. Khi tam ky đa lấy thìa thấm đầy các vật, đều khiến thấm ướt, ban đầu khi để vật ấy trước lấy nước sái, sau để yên trì tụng, nếu thành vật hữu tình, làm hình tượng thìa chạm nơi đảnh mà làm hộ ma. Nếu muốn thành tựu hộ thân lấy thìa chạm nơi đảnh mình. Nếu vì người khác mà làm chỉ xưng tên người kia. Hộ ma vật lại có ba thứ sai khác: 1- Chỉ xưng tên. 2- Lấy vật che cách. 3- Lộ hiện chỉ mắt xem thấy, như vậy đều dùng. Bơ làm hộ ma, nếu không được bơ nên dùng sữa bò, hoặc bơ hòa với sữa, hoặc dùng ba thứ ngọt, hoặc quán tưởng thành tựu sai khác nên phải dùng, hoặc lấy Chơn ngôn trì tụng nơi trước nước thơm mà sái vật kia như trước ánh sáng hiển bày vật pháp, đây cũng như vậy. Lại Tô Thất Ðịa cúng dường pháp nói: Trong Chơn ngôn có chữ Úm là chữ quy mạng nên lặng tâm mà tụng. Nếu làm phép Tức tai, Tăng ích, nên niệm tụng tiếng hơi nhỏ. Nếu Chơn ngôn có chữ Hộc, và chữ Phấn tra nên giận dữ mà tụng.
Nói hai món tư lương ấy, nghĩa là Bồ Tát muốn chứng Phật quả ắt cần phải rộng tu phước trí, hai pháp để làm tư lương, phước trí viên mãn mới chứng Phật quả Bồ đề. Nay người tu hành trì tụng Chơn ngôn, không nhờ tu các môn khác, chỉ y pháp niệm tụng, tức được viên mãn, mau thành Vô thượng Bồ đề.
PHẠT THI CA RA NOA PHÁP (Kính ái pháp)
Nếu muốn tất cả mọi người thấy phát tâm vui mừng, nhiếp phục lôi cuốn kẻ nam người nữ làm lành, Thiên Long, Bát Bộ, Dược Xoa nữ, thu nhiếp các quỷ thần khó điều phục, oán địch hữu tình làm những việc không nhiêu ích, đều khiến được hồi tâm hoan hỷ, chư Phật hộ niệm gia trì, đây gọi là nhiếp triệu ái kính pháp. Làm pháp này thân mặc áo đỏ, mặt hướng về Tây phương, đứng hai đầu gối và gót chân, gọi là hiền tọa (Có ba phép ngồi: 1- kiết già, 2- bán già, 3- ký hiền tọa, khiến thân ngay thẳng không lay động mà niệm tụng) quán tưởng Bổn Tôn và đồ cúng dường, hương hoa, ẩm thực, trái cây, đèn nến v.v… đều là sắc đỏ, (hương thoa dùng uất kim, hương đốt dùng đinh hương, tô hạp hương hòa với mật mà thiêu, thắp đèn dầu trái cây) từ ngày 16 đến 23 mỗi ngày ba thời niệm tụng, tối làm phép hộ ma.
Nhiếp triệu Chơn ngôn: Úm Giả Lệ Chủ Lệ Chuẩn Nê (khiến đệ tử …) Phạ Thí Cự Lỗ Ta Phạ Hạ.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu muốn kêu triệu tất cả Thiên Long, Quỷ Thần, người chẳng phải người v.v… nên làm pháp này cho đến diệu Chơn ngôn: Úm Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề vì kia nhiếp triệu mỗ thần (Thần tên gì) thành tựu ngã nguyện Ta Phạ Hạ. Như không có đàn tràng, nên trước tụng Chuẩn Ðề, để Kính đàn, lại tưởng sắc đỏ bán nguyệt hình đàn, ở trong bán nguyệt hình đàn, tưởng khắp chữ Hạ hoặc chữ Hàm tôn tượng cúng dường đầy đủ, tự thân mình đều tưởng ở trong bán nguyệt hình đàn ấy, hoặc ở trước tượng chỉ vẽ một bán nguyệt hình đàn cũng được, bên trong phát tâm từ bi, bên ngoài hiện tướng giận, nên tắm rửa va đoạn thực như trước.
A TỲ GIÁ LỖ CA PHÁP (Hàng phục pháp)
Phạm ngũ vô gián, bán Phương Quảng Ðại thừa, hủy diệt Phật tánh, bội nghịch quốc chủ, rối loạn Chánh pháp, đối với những người như vậy. Phát khởi lòng từ bi sâu xa thương xót, nên làm pháp hàng phục.
GIẢI:  Nếu vì vị kỷ mà cầu, và vì oán thù mà làm pháp này, căn cứ theo các kinh nói: Quyết định phải chiêu tai họa, và phản đắc suốt đời si sai (ngu si điên khùng). Người tu hành nên dè dặt. Cho nên kinh Kim Cang Bồi Ra Phạ Luân Nghi Quỹ nói: Người trì chú tâm mình không được ngu si tật đố tắng ghét đối với các hữu tình, người có đủ các điều lành, mà ỷ mình quyết đoán làm pháp này, để não hại ấy, đời sau sẽ cảm quả đọa vào trong đại địa ngục Hiều kiếu (rên la) thọ khổ trải qua vô lượng kiếp. Người trì chú nên xa lìa các ác lỗi lầm như vậy, mới có thể tu tập đàn pháp này, để cầu các việc thành tựu.
Lầy phân lừa hoặc phân lạc đà, hoặc đốt tử thi ra tro, đem dùng thoa đàn. Khi làm đàn pháp này, thân mặc áo đen, hoặc áo xanh, mặt hướng về Nam phương, bàn chân tả đè lên bàn chân hữu, tôn cư tọa (ngồi chồm hổm) quán tưởng đức Bổn Tôn sắc đen, lấy hoa thối, hoa không có mùi thơm, sắc đen, hoặc sắc xanh, đồ cúng dường ẩm thực, hương hoa, trái cây v.v… đen nến thảy đều là sắc đen hoặc sắc xanh.
GIẢI:  Ứ già là hơi đen, đồ ăn uống dùng nước thạch lựu nhuộm màu làm sắc đen, hoặc sắc xanh. Hương thoa dùng bá mộc, ứ già dùng ngưu niệu, dùng hoa sắc đen và hạt cải bá mộc, hương thoa v.v… mỗi thứ một ít phần để vào ứ già thủy, thiêu đốt an tức hương, thắp đèn dầu hạt cải.
Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: Ứ già thủy kia, nếu làm pháp Tức tai dùng sữa nước nhựa lúa đại mạch đồng làm. Nếu làm pháp Tăng ích thêm chỉ ma (mè) và gạo lúa tám kiều mạch: đồ dùng đựng ứ già cũng có sai khác. Kinh Tô Tất Ðịa nói: Trong canh hoặc có vị ngon ngọt, và sữa, cháo. Phiến để ca (dứt tai ương) dùng vị rượu ngọt, và thạch lựu, cháo, sữa, chưng chín v.v… Bố sắc trí ca (Tăng ích) dùng vị đắng cay lạt và thêm mè, gạo tẻ, hạt đậu v.v… A tỳ giá lỗ ca (Hàng phục) dùng như trước đã nói các thực vị v.v… Hoặc tùy địa phương dùng các thứ có khác, quán tưởng thượng, trung, hạ, mà phụng hiến. Phàm muốn thành tựu một cách mãnh lợi, th pháp A tỳ giá lỗ ca (hàng phục) lựa được ngày nhật thực rất là thích hợp hơn hết.
Lư tam giác dùng huyết mình mà thoa, hoặc dùng cây khổ luyện (kim linh tử), hoặc dùng củi tàn đốt tử thi còn dư dùng làm lửa hộ ma, lửa sau khi thiêu tử thi còn tro lại lấy tro ấy hòa với máu của mình mà dùng hộ ma, và độc dược, huyết mình, dầu hạt cải, màu đỏ, hạt cải hòa lại mà dùng hộ ma.
Theo tháng ngày 23 đến ngày mãn tháng, lấy giờ ngọ, hoặc nửa đêm, hai thời niệm tụng, ban đêm làm phép hộ ma.
Chơn ngôn: Hồng Giả Lệ Chủ Lệ Chuẩn Nê Linh đệ tử … Bát Ra Nẫm Gaì Ða Giả Hồng Phấn Tra.
GIẢI: Chữ Hồng ngậm miệng mà tụng như trâu kêu, chữ Tra bán thinh mà tụng. Ngài Kim Cang Trí dịch: Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ thần và thổn thương Tam-Bảo Nhơn Thiên, những chúng sanh có nhiều tội nghiệp, chướng trọng khó điều phục, khiến họ phát lòng Bồ đề tu các nghiệp lành, nên phát tâm từ bi mà làm phép này v.v… Kinh Tô Tất Ðịa nói: Hoặc Chơn ngôn đầu có chữ Hồng sau có chữ Bố tra mau chóng được thành tựu.
A tỳ giá lỗ ca pháp, phải cần hiểu rõ pháp tu Chơn ngôn, tùy theo việc sở cầu, tùy xứng với Pháp Tướng Chơn ngôn ấy, rồi tụng Chơn ngôn kia tức được thành tựu.
Trì Minh Tạng nói: Nếu khi làm phép Tức tai, Tăng ích, thì tụng chữ Hồng nhẹ nhẹ và chữ Phấn tra. Nếu làm phép Ðiều phục, phải khởi lòng phẫn nộ, mạnh tiếng mà trì tụng chữ Hồng, chữ Phấn tra.
Nếu không có đàn pháp, có thể ở trước tượng đức Chuẩn Ðề, an để Kính đàn, lại tưởng một cái đàn tam giác sắc xanh, ở trong tam giác đàn tưởng khắp chữ RA hoặc chữ LAM Tôn Tượng cúng dường đầy đủ, tự thân mình lại tưởng ở trong cái đàn tam giác ấy, hoặc trước tượng chỉ vẽ một cái đàn tam giác cũng được, đem tâm phẫn nộ (tức giận) tương ưng, tắm rửa, thay áo đoạn thực như trước đã nói rõ. Nếu những người ác thân tâm không an, hoặc mắc đại bịnh, hoặc mạng muốn chết, liền phải đến khuyên người ấy, khiến họ phát thiện tâm. Nếu họ ăn năn hối lỗi vĩnh dứt ác tâm. Liền vì người ấy làm phép dứt tai ương, niệm tụng người kia liền khỏi tai nạn.
Nếu muốn bốn pháp trên đây sở cầu được thành tựu, cần trước phải dự tu trì tụng Thần chú Chuẩn Ðề 50 vạn biến, hoặc 70 vạn biến, hoặc 100 vạn biến. Sự tu hành trước hết như vậy, mới ở trong bốn pháp, tùy tâm làm một pháp, quyết định thành tựu.
Phải y bản kinh, dùng Chơn ngôn, khế ấn, kiết giới, hộ thân, cúng dường, nghinh thỉnh đức Chuẩn Ðề Bổn Tôn, niệm tụng rồi như trước trở lại cúng dường, giải giới, phụng tống (đưa đi) đức Bổn Tôn, ấn chú v.v… Cho nên Trì Minh Tạng kinh nói: Nếu làm bốn pháp như trên cần phải triệu thỉnh đức Bổn Tôn và các chúng Hiền Thánh, khi làm phép rồi phải đưa các Ngài đi. Kinh Tô Tất Ðịa  nói: Hộ ma xong rồi dùng Bổn Tôn Chơn ngôn, Chơn ngôn tịnh thủy dùng tay đưa xa vẩy nước tán sái rải nước trong lư ba lần như vậy. Khi hộ ma xong rồi cho đến trởi lại làm pháp cúng dường v.v… như pháp mà đưa đi.
Lại trì Chơn ngôn, người tu hành không nên cùng kẻ khác với người trì tụng lại thí nghiệm nhau. Nếu có chút ít duyên lỗi lầm, không nên làm phép hàng phục. Trì Minh Tạng nói rằng: Người tu hành lấy hoa hồng nhuộm chỉ, bảo người đồng nữ xe hiệp lại, đọc Thần chú gia trì 1000 biến gút làm 7 gút rồi đeo nơi bên lưng.
Chơn ngôn: Úm Hạ Ra, Hạ Ra, Mãn Ðề Thú Ngật Ra Ðà, Lị Vĩ, Tất Ðế Ta Phạ Hạ. Chơn ngôn này cũng có công năng cấm phục “thú ngật ra” (?) và có công năng phát thiết đốt lỗ (?). Kinh Tô Tất Ðịa nói: Lấy chỉ tơ trắng và chỉ gai, bảo người con gái nhỏ nhuộm sắc màu hồng hoặc sắc màu uất kim, làm thành chỉ rồi gút lại, làm thành dây tơ, Thần chú trì tụng 7 biến làm một gút, mỗi mỗi như vậy cho đến 7 gút để trước đức Bổn Tôn Chuẩn Ðề, dùng Thần chú gia trì vào, trải qua 1000 biến. Hoặc khi trì tụng, hoặc khi hộ ma, khi muốn nằm nên lấy dây đeo bên lưng thì không bị chứng thất tinh (di tinh) uế dơ. Khi nằm phải nằm phía hông bên mặt như sư tử vương. Chơn ngôn trên thì đồng, chỉ có chữ “mãn đề” còn bộ kia  chữ “mãn đà mãn đà” là hơi khác.
Lại Tô Tất Ðịa cúng dường pháp nói: Chỉ kia đeo nơi lưng ấy, là bảo người đồng nữ bên mặt xe chỉ hiệp lại, trải qua ba lần xe hiệp, rồi trở lại xe hiệp ba lần nữa, (tức là lục hiệp) đều nhau như may mặc võng, lấy ngũ tịnh dùng để sái đó.
Phật bộ Ngũ tịnh Chơn ngôn: Na Mồ Bà Già Phạ Ðế Ô Sắc Nị Sa Dã Vi Luân (thượng thinh) Ðề Vi Ra Thệ Thi Phệ Phiến Ðể Yết Li Ta Ha.
Lại nói rằng: Lấy hoa màu nhuộm hồng, màu lam nhuộm, hoặc uất kim nhuộm, như pháp trước thành tựu rồi gút sợi chỉ Chơn ngôn lại, trì tụng 1000 biến, nơi khi niệm tụng hộ ma và khi ngủ, đeo nơi bên lưng, có công năng ngăn dứt thất tinh (xuất tinh hay di tinh). Khi niệm tụng và khi hộ ma cần phải trước sau mặc áo, trịch áo bày vai bên mặt. Nếu đại tiểu tiện nên để nơi nhánh cây, nơi Bổn Tôn và trước nhị Sư (A Xà Lê, Hòa Thượng) không nên để nơi ngủ nghỉ.
Nói hủy báng Phương Quảng Ðại Thừa ấy, nghĩa là các kinh Ðại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Lăng Già, Duy Ma, Viên Giác, Thắng Man, Niết Bàn v.v… các kinh điển ấy rộng nói, chơn như thật tướng, nghĩa là tất cả chúng sanh từ xưa đến nay đã có sẵn tánh thành Phật, đủ hằng sa phước đức diệu dụng, phỉ báng không tin tự tổn hại mình lại tổn hại kẻ khác đều đọa vào địa ngục A Tỳ, 1000 Ðức Phật ra đời không thể cứu vớt. Hủy diệt Phật tánh ấy, nghĩa là tất cả chúng sanh vốn đầy đủ Phật tánh, chỉ nhơn vọng tưởng phiền não chứa nhóm huân tập mà không chứng được. Nếu bỏ vọng về chơn, tức cùng với chư Phật đồng một nguồn giác, phàm phu tà kiến hủy mà không tin, tự tha đoạn diệt hạt giống Phật tánh, tạo một xiển đề tội, vĩnh kiếp khó cứu, cho nên đối với những người như vậy, pháp sanh lòng bi mẫn thâm sâu, làm phép hàng phục, khiến cho người kia hồi tâm hướng thiện.
Kinh Trì Minh Tạng nói: Nếu lấy chữ Úm (án) làm đầu ấy, có công năng thành tựu tất cả pháp; nếu chữ Tả (chiết) đối với ba pháp Dứt tai, Tăng ích, Hàng phục, có sức đại oai lực; chữ Lệ hay phá hoại Thiết đốt lỗ cũng nói phát khiển (xua đuổi) và pháp ủng hộ công lực rất lớn; chữ Chủ hay có công năng làm phá hoại và tha quân chạy tản, như Kim sí điểu hay ăn thịt loài rồng, chữ Lệ pháp các đại ác có một sức mạnh rất thù thắng; chữ Chuẩn hay thành tựu tất cả mà hay phá những cấm kiên cố; chữ Phạ nê hay phá ma oán và các đại ác; chữ Ta hay tự ủng hộ và hay phá oan; chữ Hạ hay trừ đại độc và tất cả bịnh. Những chữ như vậy cũng là bát chánh đạo hay khiến hữu tình giải thoát luân hồi, sau đắc quả Niết Bàn. Nếu các chơn  ngôn đã dùng thêm chữ Úm (án) có công năng làm cảnh tỉnh và hay phát khiển (xua đuổi). Nếu thêm “Úm lệ hồng” ba chữ có công lực đoạn  tuyệt. Nếu thêm “Úm la hồng phấn tra”. Năm chữ sức hay khiếp sợ và hay phá hoại cũng hay ủng hộ. Nếu thêm “Úm chủ nẵng mồ” bốn chữ hay thành tựu pháp kính ái. Nếu thêm chữ “Úm chủ hồng” ba chữ có công năng làm cho tha quân thoái lui. Nếu thêm chữ “Úm lệ phấn tra” bốn chữ có công năng dứt sự đại chiến đấu.
THỨ ÐẾN TƯ DUY TỰ MẪU CHỦNG TỬ NGHĨA
Chín chữ Thánh Phạn tự này, hay sanh tất cả chữ, cho nên nói rằng là tự mẫu. Nói là chủng tử ấy, là dẫn sanh nghĩa, nhiếp trì nghĩa. Lấy một chữ đầu làm chủng tử, sau các chữ là sở hữu quán trí, y sở dẫn sanh nhiếp vào chữ ban đầu. Nếu đắc được Án tự môn bí mật tương ưng này tức đắc được Vô tận Pháp Tạng của chư Phật, ngộ được tất cả các pháp vốn không sanh, một mà đến tất cả, lời nói khắp hết, vì lời nói do ngộ tất cả các pháp vốn không sanh, nên đạt đến các pháp vốn “không”, đem các pháp nhập vào thật tướng cho nên không sanh, không diệt, đã ngộ đến tất cả pháp thì lời nói bặt dứt, không còn ngôn thuyết, Pháp Tướng là bình đẳng, như trận mưa lớn rưới khắp cho nên nói rằng bình đẳng. Mỗi một chữ phải tư duy quán sát, thời tất cả hạnh nguyện đều được đầy đủ.
Chữ Án (Úm) là nghĩa ba thân, cũng là nghĩa tất cả pháp vốn không sanh. Ngài Kim Cang Trí dịch: Chữ Án (Úm) tự môn ấy là nghĩa lưu chú như dòng nước chảy không sanh, không diệt, là nghĩa tối thắng của tất cả pháp.
Chữ Chiết là nghĩa tất cả pháp không sanh không diệt. Ngài Kim Cang Trí dịch: La nghĩa vô hành của tất cả pháp.
Chữ Lệ là nghĩa vô sở đắc của tất cả Pháp Tướng.
Chữ Chủ là nghĩa vô sanh diệt của tất cả pháp. Ngài Kim Cang Trí dịch: Là nghĩa vô khởi trụ của tất cả pháp.
Chữ Lệ là nghĩa vô cấu của tất cả pháp.
Chữ Chuẩn là nghĩa vô đẳng giác của tất cả pháp.
Chữ Ðề là nghĩa vô thủ xả của tất cả pháp.
Chữ Ta Phạ là nghĩa vô ngôn thuyết bình đẳng của tất cả pháp.
Chữ Ha là nghĩa vô nhơn của tất cả pháp. Nghĩa là với tất cả pháp vô nhơn vắng lặng, Vô trụ Niết Bàn.
Do tất cả pháp vốn không sanh, nên tức được bất sanh bất diệt. Do bất sanh bất diệt nên được tướng vô sở đắc. Do tướng vô sở đắc nên tức được vô sanh diệt. Do vô sanh diệt nên tức được vô cấu. Do vô cấu nên tức được vô đẳng giác. Do vô đẳng giác nên tức được vô thủ xả. Do vô thủ xả nên tức được bình đẳng vô ngôn thuyết. Do bình đẳng vô ngôn thuyết nên tức được vô nhơn, vô quả, Bát Nhã tương ưng, vô sở đắc lấy làm phương tiện nhập vào thắng nghĩa, thật thời chứng pháp giới chơn như. Ðây là Tam ma địa niệm tụng vậy.
GIẢI:  Bởi ngộ tất cả pháp vốn không sanh, bình đẳng không hai, nên vô phân biệt trí cùng Bát Nhã ba la mật, vô trí vô đắc tương ưng nhau. Do vô sở đắc trí này làm phương tiện ngộ nhập tối thắng nghĩa đế, chứng pháp giới chơn như. Pháp giới chơn như hải này không thể đem lời nói trình bày vì là cảnh Thánh trí sở chứng tự giác ngộ của chư Phật, nên không thể đem hiểu biết phân biệt mà suy lường.
Ngài Kim Cang Trí dịch: Ðã nói nghĩa văn tự thì tuy lập có văn tự nhưng đều là không có nghĩa văn tự. Ðã vô văn tự thì cần phải quán xét mỗi một nghĩa đều vòng khắp nhau, rồi trở lại từ trước vô ký vô số không đoạn dứt. Không đoạn dứt nên như dòng nước mãi mãi không  sanh không diệt, đây là nghĩa tối thắng nên không còn phải hành cái nghĩa vô hành ấy, cho đến cái vô nhơn tịch tịnh, Vô trụ Niết Bàn. Vì nghĩa vô nhơn tịch tịnh, Vô trụ Niết Bàn ấy, cho nên tối thắng không sanh không diệt, châu biến vòng quanh không dứt, rồi trở lại như trước. Ðây gọi là Tam ma địa niệm tụng.
Xét các kinh Ðà Ra Ni trì tụng pháp, cũng có nhiều phương pháp nay lược ra có sáu pháp:
1) Tam ma địa trì cũng gọi Du Già trì, chỉ tưởng trong tâm như mặt trăng tròn sáng bố bày các chữ như trong bản kinh đã chỉ rõ bố tự pháp.
2) Xuất nhập tức trì, tức trong hơi thở ra vào, tưởng có chữ Phạn Chơn ngôn, nếu hơi thở ra chữ theo ra, hơi thở vào chữ theo vào, mỗi chữ phân minh rõ ràng như xâu chuỗi ngọc Minh Châu, không được gián đoạn. Như khi hơi thở ra tưởng tự tâm mình như mặt trăng tròn sáng có chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Ðề, mỗi chữ vòng tròn nối nhau, đều có ánh sáng năm sắc, từ trong miệng mình lưu nhập vào trong miệng Chuẩn Ðề Bồ Tát xoay vòng bên mặt an bố trong tâm Nguyệt luân như mặt trăng tròn sáng của Bồ Tát. Như khi thở vào tưởng trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát, chữ chữ xoay vòng nối nhau, đều có ánh sáng năm sắc từ trong miệng Bồ Tát  lưu nhập vào trong miệng mình vòng xoay bên mặt an bố chữ trong tâm Nguyệt luân, như vậy quán tưởng sau mà trở lại trước.
3) Kim Cang trì, miệng răng trì tụng lưỡi không đến cái nướu, chỉ vi động nho nhỏ trong miệng.
4) Ngôn âm trì cũng gọi vi thinh trì, chỉ khiến tự tai mình nghe, không chậm không mau chữ chữ phân minh mà xưng niệm.
5) Cao thinh trì, khiến người khác nghe được diệt tội, đây cần phải xét kỹ, khi đó nếu có người ở bên không tin nghe tiếng hủy báng đắc phải trọng tội, chỉ nên trì tụng nhỏ nhỏ.
6) Hàng ma trì, bên trong lấy bi tâm làm căn bản, ngoài hiện tướng nhăn mày oai nộ, mạnh mẽ mà niệm.
Sau đây pháp A Tỳ Giá Rô Ca, lại có hai:
1- Vô số trì tụng, nghĩa là không trì châu định số, thường niệm vô gián đoạn.
2- Hữu tướng trì tụng, nghĩa là lần chuỗi trì tụng, mỗi ngày cần phải hạn định số bao nhiêu, không được thiếu khuyết.
Như trên tám pháp trì tụng, tùy theo đó dùng một, y pháp niệm tụng không có gián đoạn, việc mong cầu quả thù thắng quyết định thành tựu. Theo như Ngài Kim Cang Trí đã dịch bản kinh cũng có chi ra nhiều phương pháp trì tụng. Bản của Ngài Kim Cang Trí dịch nói Chuẩn Ðề, cầu nguyện quán tưởng pháp rằng: Nếu cầu Vô phân biệt phải quán Vô phân biệt vô ký niệm. Nếu cầu Vô tướng vô sắc phải quán Văn tự vô văn tự niệm. Nếu cầu Bất nhị pháp môn, nên quán hai tay. Nếu cầu Bốn món vô thần thông, nên quán bốn tay; nếu cầu sáu món thần thông nên quán sáu tay; nếu cầu Bát Thánh đạo nên quán tám tay; nếu cầu thập Ba la mật viên mãn Thập Ðịa nên quán mười tay; nếu cầu địa vị Như Lai biến khắp rộng lớn, nên quán mười hai tay; nếu cầu mười tám món Bất cộng pháp nên quán mười tám tay như trong họa tượng pháp quán vậy. Nếu cầu ba mươi hai tướng nên quán ba mươi hai tay; nếu cầu tám vạn bốn ngàn pháp môn nên quán tám mươi bốn tay. Những quán tướng niệm tụng như trên phải nhập vào tất cả Như Lai Tam ma địa môn, thâm sâu rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn. Ðịa là chỗ chánh niệm, là chánh chơn như, là chánh giải thoát. Niệm tụng quán hạnh rồi muốn ra khỏi đạo tràng lại cần phải thứ đệ y như trước, lại kết thiêu hương, đăng minh, ẩm thực v.v… tay khế ấn, cúng dường sám hối, tùy hỷ, phát nguyện. Kết đệ nhứt căn bản ấn, như trước, tụng căn bản Ðà Ra Ni 7 biến rồi xả ấn lên đảnh, lại kiết xa lộ ấn như trước v.v…
Nên kiết căn bản ấn, thứ đến tháo dục ấn. Thứ đến kiết ngũ cúng dường ấn. Kế đến tụng tán thán ứ già. Kế kiết A Tam Ma Nghĩ Nễ Ấn chuyển xoay quay bên trái một vòng rồi giải giới.
GIẢI: Nghĩa là kiết hỏa viện ấn như trước, tụng A Tam Ma Nghĩ Nễ Chơn ngôn chuyển bên trái một vòng rồi giải, như trước đã kiết các giới. Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ có nói: Lại tác pháp cúng dường, tán thán sám tạ, tên … như trên đã cúng dường, tuyệt vô thù diệu, xin nguyện Bồ Tát bố thí hoan hỷ. Lại biến ứ già, rồi tác pháp đảnh lễ xong, đưa các Hiền Thánh còn lại. Lại tác pháp hộ thân, thứ đến tác pháp A Tam Ma Nghĩ Nễ ấn.
KIẾT BẢO XA LỘ ẤN
GIẢI: Trong đây các ấn cứ theo như trước nên kiết Lộ xa, tổng danh là xe lớn, phương này vua Huỳnh Ðế chế cho Thiên tử cỡi. Chỗ thừa php xa gọi là ngọc lộ. Nay Bảo lộ này là chỗ Phật Mẫu thừa nương, trên ấy có tràng phan, bảo cái rũ xuống, các hoa anh lạc, bốn phía treo linh, xung quanh lan can bảy báu, xen lộn các món trang nghiêm tốt đẹp.
Lấy ngón tay cái hướng ngoài, đưa ngón tay giữa ra, đầu ngón phụng tống Thánh giả trở về bổn cung.
PHỤNG TỐNG CHƠN NGÔN
Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn nê nghiệt xa nghiệt xa bà nga phạ để bà phạ, bà phạ nẫm bố noa ra, nga ma na, giả ta phạ hạ.
(Chữ xa phải viết là Hà, nghiệt xa nghiệt xa tức câu phụng tống, trước thỉnh lộ xa yết lị sái da tức câu nghinh thỉnh.)
Thứ đến kiết Tam Bộ Tam Ma Da ấn, mỗi lần tụng Chơn ngôn một biến, lễ Phật như trước, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện, hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tùy ý kinh hành, chuyển học Ðại thừa kinh điển: Hoa Nghiêm, Ðại Bát Nhã v.v… ấn tháp, tắm tượng, xá lợi. Nhiễu quanh bên hữu, suy nghĩ lục niệm, đem phước tụ này hồi hướng chỗ mong cầu Tất Ðịa của mình.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Tụng Ðại Bát Nhã hoặc Hoa Nghiêm hoặc Vô biên môn hoặc Pháp Hoa, Lăng Già, Niết Bàn, Ðại Kinh Luận v.v… suy nghĩ giảng thuyết. Hoặc lấy Thất Câu Chi Phật tượng tháp ấn, dùng in trên hương nê, trên cát, trên giấy. Tùy ý in nhiều hay ít,, gắng công niệm tụng như thế, những cảnh giới như trong kinh đã nói mỗi mỗi phân minh lần lượt hiện bày rõ biết.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Vì tâm tịnh ấy, thường trì lục niệm, tâm chú vào một cảnh không tán loạn. 1- Niệm Phật, 2- Niệm Pháp, 3- Niệm Tăng, 4- Niệm Thí, 5- Niệm Giới, 6- Niệm Thiên. Ba cái trước là niệm Tha, ba cái sau là niệm Tự. Bởi Thí, Giới là nhơn của mình, Thiên là quả của mình, mà quả thì có gần có xa, gần thì sanh Thiên, xa là Ðệ nhất nghĩa thiên. Lại ba cái trước cũng có thể là niệm tự, nghĩa là niệm nhất thể Tam-Bảo. Kinh Ưu Bà Tắc nói: Niệm Phật, Pháp, Tăng gọi là trí huệ trang nghiêm, niệm Thí, Giới, Thiên gọi phước đức trang nghiêm. Như trên đã tu là muốn mau được viên mãn phước trí và thập Ba la mật, đốn siêu xuất thế gian ba vô số kiếp, hiện đời một kỳ hạn Thánh quả sẽ hiện tiền. Cho nên cần phải phát Bồ đề nguyện, vận đại bi tâm, thường muốn lợi lạc tất cả hữu tình, đồng với Chuẩn Ðề Bồ Tát ; lại nhờ vô biên chư Phật, Bồ Tát vì nguyện đại bi mà các Ngài gia trì hộ trợ cho, khiến mau được thành tựu. Căn cứ theo đây quyết cần phải y như trước, lựa chọn nơi chỗ thù thắng để làm đàn tràng tu hành. Hạn định bốn tháng, bốn ngày làm một thất kỳ, dứt tuyệt việc tiếp xúc nhơn khác qua lại nói năng, luôn luôn được Tam Mật tương ưng, mặt hướng Ðông phương là cát tường vị, hoặc các phương khác cũng được. Nếu không thể y pháp như trên kết lập đàn tràng ấy.
Riêng có một pháp cũng cần chọn một tịnh xứ, nơi trước Thánh tượng Chuẩn Ðề, để một cái kính thanh tịnh làm đàn pháp, phương hướng như trên, ngồi kiết già đối trước với Thánh tượng Chuẩn Ðề, để một cái kính thanh tịnh làm đàn pháp, phương hướng như trên, ngồi kiết già đối trước với Thánh tượng. Hành giả trước tiên ở trên đảnh mình, tưởng một chữ Lam biến thành lửa ba góc vòng hỏa luân, từ đảnh đến chân thiêu cháy hết thảy tự thân hữu lậu của mình và đốt cháy luôn cả thế giới hữu vi này, đồng như hỏa kiếp, thiêu cháy sạch tận không sót, chỉ có không tịch vắng lặng mà thôi.
Lại tưởng một chữ Ám tại trong đảnh môn của mình, thể chữ này tức là quang minh pháp thủy của chư Phật, dùng quán đảnh Phật tử, đây là bí mật quán đảnh pháp môn vậy.
Lại tưởng kiến lập đàn vô vi nơi tối hạ phương, tưởng khắp chữ Khiếm tạp sắc xen lộn mà không luân. Nơi trên không luân tưởng khắp chữ Hàm sắc đen biến thành phong luân, trên phong luân tưởng khắp chữ Lam sắc đỏ biến thành hỏa luân, trên hỏa luân tưởng khắp chữ Vãm sắc trắng biến thành thủy luân, trên thủy luân tưởng khắp chữ A sắc vàng biến thành Kim Cang địa, nơi trên Kim Cang địa khắp tưởng có đại liên hoa, mỗi mỗi trên hoa sen có đức Chuẩn Ðề Bồ Tát và các món ẩm thực, tràng phan, bảo cái các món cúng dường đầy đủ. Các món cúng dường ấy đều đối trước Chuẩn Ðề Kính đàn, Tam Mật tương ưng.
Lại nữa, người hành giả không có tượng  Chuẩn Ðề và các hoa quả ẩm thực, các món cúng dường đầy đủ, chỉ làm pháp quán tưởng này cũng được cát tường thành tựu. Tưởng rồi như vậy nhứt tâm quán xét đức Chuẩn Ðề Bồ Tát, đầy đủ vô tận tướng hảo quang minh, nơi trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát, có chín chữ Phạn tự Chuẩn Ðề bố liệt xoay quanh bên hữu. Người hành giả tưởng trong tự tâm Nguyệt luân của mình ấy cũng có chín chữ bố liệt như trước, nơi thân phần của mình từ đầu đến chân cũng có chín chữ. Rồi kế tụng Án Lam tịnh pháp giới Chơn ngôn và Án Xỉ Lâm hộ thân Chơn ngôn mỗi chú 21 biến, vậy sau kiết căn bản ấn, hoặc Kim Cang Quyền ấn, tụng chú Chuẩn Ðề Chơn ngôn vô ký vô số; chuyên tinh nhứt ý cần sách thân tâm không được trễ nãi, khi muốn gần thành tựu hoặc có các món chướng khởi lên, nên như sau làm các pháp Tức tai, Hàng phục v.v… Ở trong một thời kỳ này, tùy căn tánh của mình quyết được tam muội hiện tiền, tức ở trong định thấy vô số Phật hội, nghe diệu pháp âm, chứng được Thập Ðịa Bồ Tát.
Người hành giả muốn pháp này cầu thành tự, cần y như pháp dự tụng Chuẩn Ðề Chơn ngôn, một vạn biến, 10 vạn biến, 100 vạn biến cho đến 1000 vạn biến mà tu hành trước đã.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Nếu không trước tụng biến số niệm trì đầy đủ, việc mong cầu hạ pháp còn không được, huống nữa cầu thượng phẩm Tất Ðịa thành tựu ấy ư?! Vì nghĩa đây nên phải phát thắng thượng tâm mà niệm tụng trước. Ðã là tu hành trước lại cần phải ở trong mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, mửa ra vật đen v.v… tức là tướng tội diệt phước sanh thành tựu. Như thế việc niệm cầu quyết đắc quả toại lòng, chớ sanh tâm nghi hoặc, không khởi niệm thủ xả. Lại cần siêng năng phát ra ba nghiệp  gia công trì niệm, cũng không được đem cảnh giới ấy lòe gạt với người. Chỉ có đồng đạo; không vì danh lợi kính khen mới được nói đó. Hoặc có kẻ cho rằng thấy những tướng như trên, rồi sanh tà vọng ư?! – Nay y kinh trì tụng chánh quán thành tựu thì thắng cảnh tự hiện, không đồng với các pháp tu khác, bài xích xa lìa thủ tướng, như không thấu rõ ý kinh, mỗi khi có cảnh giới ấy đồng sanh hủy báng, đó chính là hủy diệt Ðại thừa, tự mình sa vào địa ngục Nê lê. Vậy người hành giả nếu muốn trì tụng Chơn ngôn phải cần cầu các bậc minh sư khéo hiểu Phạn âm, dạy cho tác pháp, chỉ rõ chữ câu, khế ấn, không khiến sai lầm, nên không sư tâm, trì tụng không hiệu nghiệm, nơi Thần chú sanh nghi, tự chiêu lỗi lớn.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Nếu có người lâu đến thời gian trì tụng chỉ cầu hạ phẩm Chơn ngôn, cho mình không có đủ sức rồi trở lại bên đức Bổn Tôn chuyển cầu thượng phẩm tự thành. Nếu ở trong Chơn ngôn cầu thượng phẩm, mà ôm lòng do dự thì niệm trì cúng dường lại không tinh thành. Vì thế đối với thượng phẩm Chơn ngôn sự niệm tụng lòng có hơi nhẹ, nên chỉ chiêu được hạ phẩm thành tựu mà thôi. Cho nên biết trì tụng đều do tâm ý, phải thành kính niệm tụng mới thu hoạch được “Tất Ðịa”. Nếu người trì tụng Chơn ngôn lâu mà không hiệu nghiệm, không nên xả bỏ, mà phải bội phần phát nguyện rộng lớn, gia công tinh tấn, lấy sự thành quả làm hạn định. Người như thế đó mau được thành tựu, ở trong mộng kia hoặc nơi hư không có tiếng bảo rằng: Ngươi không  nên trì Chơn ngôn pháp, lúc bấy giờ không nên trễ bỏ, cũng không nên giận. Vì sao vậy? Vì đây là ma cảnh đó, chỉ cần tâm tinh tấn không thoái chuyển, không ác ý suy nghĩ, phan duyên các cảnh, buông lung các căn, thường hằng tịnh lặng mà niệm tụng đó. Kinh Hương Vương Ðà Ra Ni nói: Mỗi ngày lược nước, nấu nước hương thơm tắm rửa, mặc y riêng mới, khi đại tiểu tiện, đi lại đều phải cẩn tẩy rửa sạch sẽ, lúc vào đàn cần phải xỉa răng, súc miệng, nhiên hậu mới vào đàn nhứt tâm tụng chú, chẳng nên suy nghĩ việc ngoài. Trì chú pháp không được phá phạm giới hạnh, thân cũng không được gần gũi chạm xúc người nữ, nếu chạm xúc ấy tức không linh nghiệm.
* * *
BỘ MẬT TÔNG
(Bốn Tập)
Dịch Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức
C. TẬP BA 
KINH CHUẨN ÐỀ ÐÀ LA NI HỘI THÍCH
THẤT CÂU CHI PHẬT MẪU
SỞ THUYẾT ÐÀ RA NI KINH HỘI THÍCH
Quyển Hạ
NÓI ÐẾN PHƯƠNG PHÁP HỌA TƯỢNG PHẬT MẪU CHUẨN ÐỀ
(Cũng gọi là Tôn Na Bồ Tát)
* * *
Lấy vải lụa trắng tốt, lựa bỏ lông tóc, treo nơi vách tường thanh tịnh, trước lấy đàn hương thoa khắp, dùng ứ già ẩm thực, tùy sức cúng dường. Vị họa sư (họa sĩ) phải thọ bát quan trai giới thanh tịnh, vẽ tượng của Ngài sắc thái phải sáng suốt rực rỡ, các vật dụng và đồ đựng đều phải hoàn toàn mới, phải điều hòa các màu sắc, vẽ tượng Phật Mẫu Chuẩn Ðề, thân sắc vàng hay trắng, ngồi kiết già phu, ngồi trên hoa sen, thân có viền tròn hào quang mặc áo sa lụa mỏng, như áo Thập Ba la mật Bồ Tát, trên có hoa. Y dưới sắc trắng. Lại mỗi góc thiên y có quấn đan chuỗi ngọc anh lạc, đầu đội mão, tay cầm pháp loa, đeo vòng xuyến, ngón đàn và huệ đeo vòng ngọc báu (Hai ngón tay út).
GIẢI: Ðàn huệ tức hai ngón tay út.
Ngài Kim Cang Trí dịch: Các thứ trang nghiêm nơi thân lưng, dưới mặc y trắng, trên y có hoa. Lại thân mặc áo khinh la, tay áo thiên y rộng rãi, dây đeo quanh thân lưng màu sắc như ánh trời sáng sớm mai, cổ tay đeo vòng xuyến trắng lóng lánh như kim cương, trên mỗi mỗi tay có bảy báu trang nghiêm, mười tám tay đều có đeo vòng.
Mặt tượng Ngài có ba con mắt và mười tám tay, hai tay trên là ấn tướng thuyết pháp, bên hữu tay thứ hai là ấn thí vô úy, tay thứ ba cầm kiếm, tay thứ tư cầm bảo mạng (Xâu tràng hoa báu), tay thứ năm cầu câu duyên quả (tiếng Phạn nói vi nhã bố la ca quả). Trung Hoa dịch Tử mãn quả, (xứ Tây vức có, ở đây không có), tay thứ sáu cầm búa bén, tay thứ bảy  cầm móc câu, tay thứ tám cầm Kim Cang xử, tay thứ chín cầm tràng chuỗi. (Ngài Kim Cang trí dịch: Tay thứ tư trì niệm châu (chuỗi), tay thứ 9 cầm bảo mạng, Pháp Hiền dịch: Tay thứ tư cầm bảo cái linh (chuông lắc) mà không có bảo mạng).
Bên tả tay thứ hai  cầm như ý bảo tràng, tay thứ ba cầm hoa sen hồng vừa nở, tay thứ tư cầm bình quân trì (bình nước tắm), tay thức năm cầm dây quyến sách, tay thứ sáu cầm bánh xe pháp luân, tay thứ bảy cầm thương khư (con ốc, pháp loa), tay thứ tám cầm hiền bình (Tức cam lồ tịnh bình) tay thứ chín cầm kinh Bát Nhã Phạn.
Hai bên dưới hoa sen vẽ nước, trong nước có Nan Ðà Long Vương, Ô Ba Nan Ðà Long Vương, nâng đỡ hoa sen (Ngài Kim Cang Trí dịch: hai vị Long Vương chung phò đỡ cây hoa sen) bên tòa phía mặt vẽ người trì tụng, tay cầm lư hương chiêm ngưỡng Thánh Chuẩn Ðề Phật Mẫu xót thương người trì tụng, đôi mắt nhìn xuống, trên vẽ hai vị Tịnh Cư Thiên Tử, một gọi Cu Tố Ðà Thiên Tử tay cầm tràng hoa nương hư không bay đến rưới hoa cúng dường Thánh Chuẩn Ðề.
Tượng vẽ rồi, tùy sức Tăng thứ thỉnh bày vị Tăng cúng dường, thỉnh khai quang minh chú nguyện, tán thán. Nơi dưới tượng nên viết:
Pháp Nhân Duyên Khởi Kệ:
Chư pháp tùng duyên khởi,
Như Lai thuyết thị nhơn,
Bỉ pháp nhơn duyên tận,
Thị đại Sa Môn thuyết.
Nghĩa:
Các pháp theo duyên khởi,
Như Lai nói là nhơn,
Pháp kia nhơn duyên hết,
Là đại Sa Môn nói.
Ðem tượng vào tịnh thất bí mật cúng dường, lấy lụa trắng phủ kín tượng lại, khi trì tụng mở ra chiêm lễ cúng dường, niệm tụng rồi phủ lụa kín lại, dè dặt không cho người thấy. Vì sao vậy? Theo sư Thọ Nghi Quỹ họa tượng pháp. Nếu chuyền cho người xem tượng, bị ma dòm ngó, nên cần phải bí mật.
GIẢI: Bạch diệp (lụa trắng) nếu không có người dệt tốt nhứt, cùng vải tốt Âu Tây giống nhau, dài ngắn rộng hẹp nên khéo dùng đó, như không có vải tơ, có thể lấy vải tốt Âu Mỹ thay thế cũng được, sắc phải trong sạch, không nên dùng keo da, phải dùng keo trắng thơm, nếu thứ này không có, nên dùng keo cây đào, hoặc lựa lấy trái bồ kết lớn tốt, bỏ vỏ thô ở trên, lấy chất trắng sạch bên trong làm keo, hoặc ma huỳnh đậu trắng, bạch cập dùng làm keo đều được.
Tăng thứ ấy, nghĩa là sợ không có tài lực, không thể tổng thỉnh chúng Tăng được… Bởi vì đức Như Lai không cho lựa thỉnh, cho nên tùy theo trong Tăng chúng, thứ đệ Tăng sai mà phó thỉnh.
PHỤ NGŨ HỐI KINH (Nghi pháp sám ngũ hối)
Kinh dạy rằng: Mỗi khi vào đạo tràng, trước nên lễ Phật, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện, rồi nên thọ Bồ đề tâm giới. Năm pháp này  là của các Bồ Tát trong sáu thời tu hành.
Qui tắc trong các kinh luận rất đầy đủ. Nay lược chép ra đây rất đơn giản, để tiện cho người hành giả tu trì.
Ban đầu vào đạo tràng quỳ gối chấp tay, chuyên tâm định ý, tay bưng lư hương.
Nguyện rằng:
Nguyện mây hương hoa này,
Biến khắp mười phương cõi,
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm.
Ðầy đủ Bồ Tát đạo,
Thành tựu hương Như Lai.
(Cúng dường hương hoa rồi, đứng dậy lễ kính Tam-Bảo)
Nhứt tâm đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Mâu Ni Thế Tôn (1 lễ)
(Phân biệt Thánh vị tu chứng pháp môn nói rằng: Ðức Như Lai tối sơ nơi Vô thượng thừa, phát tâm Bồ đề, do Ðức Phật A Súc gia trì cho nên chứng được viên mãn Bồ đề tâm, do chứng Bồ đề nên ngoại cảm trong hư không, Ðức Phật Bảo Sanh quán đảnh, thọ ngôi vị Pháp Vương trong ba cõi, do Ðức Phật Quán Tự Tại Vương gia trì, nói lời chuyển pháp luân vô lượng tu đa la pháp môn, do Ðức Phật Bất Không Thành Tựu gia trì nơi các việc Phật sự và việc hữu tình, đã tu hành lợi lạc hết thảy đều thành tựu. Vậy cho nên sau đây thứ lớp lễ bái.)
Nhứt tâm đảnh lễ A Súc Thế Tôn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Bảo Sanh Thế Tôn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Vương Thế Tôn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Bất Không Thành Tựu Thế Tôn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Cực Lạc Thế Giới A Di Ðà Thế Tôn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Thập Phương Pháp Giới Chư Phật Thế Tôn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni (3 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Thập Phương Pháp Giới Tu Ða La Tạng Nhứt Thiết Ðà Ra Ni môn (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na cung điện trung Thất Cu Chi Chuẩn Ðề Phật Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Ðại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Thập Phương Pháp Giới Nhứt Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả Chư Ðại Thanh Văn Tăng (1 lễ)
Nhứt tâm đảnh lễ Thập Phương Pháp Giới Nhứt Thiết Tam Thừa Hiền Thánh Tăng (1 lễ)
GIẢI: Như trên đều lễ một lễ đến Chuẩn Ðề Phật Mẫu và Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni, mỗi câu cần ba lễ. Ðây là nhơn pháp làm chủ của đạo tràng. Cho nên lễ bái rồi tiếp đến sám hối, người tu hành nên tưởng tự thân mình đối trước ngôi Tam-Bảo chớ nghĩ tội đời trước và đời nay đã tạo. Nếu không sám hối phải đọa A Tỳ địa ngục, thọ cực đại khổ, đâu có thể thành tựu được chỗ tu hành diệu hạnh Chơn ngôn? Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói rằng: Người tu hành Du Già pháp môn. Nếu muốn tu tập cầu các Tất Ðịa, trước tự thân mình phải tu các pháp sám hối, để trừ túc nghiệp đời trước, khiến không chướng nạn, nếu không như thế, Thánh đạo khó thành. Ngài Kim Cang Trí dịch bổn kinh và ghi quỹ này, tùy chép ra năm pháp sám hối mà văn rất gọn ghẽ, sợ người tu hành xem văn trình bày khó hiểu, để muốn cho khẩn thiết tinh thành, nên ở đây trình bày thêm yếu chỉ của các kinh cho rõ. Như Vô Lượng Thọ Nghi Quỹ nói: Thân mình phải năm vóc sát đất, tưởng ở trước mỗi Ðức Phật, Bồ Tát cung kính làm lễ, rồi liền quỳ gối chấp tay, đem lòng chí thành phát lồ sám hối, tất cả tội chướng từ vô thỉ đến giờ, vui mừng tùy hỷ chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác và các phước nghiệp của tất cả hữu tình đã tu. Lại quán tưởng mười phương  thế giới, chỗ nào có các đức Như Lai mới thành chánh giác, nên thỉnh Chuyển pháp luân, nơi nào có các đức Như Lai hiện vào cõi Niết Bàn, xin thỉnh ở lại đời lâu dài không vào Niết Bàn. Lại phát nguyện rằng: con đã chứa nhóm thiện căn, lễ Phật, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, đem phước tụ này hồi thí cho tất cả hữu tình, cho đến thấy Phật nghe pháp mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, biết như vậy rồi tâm sanh tha thiết miệng tuyên sám hối:
Con đệ tử … chí tâm sám hối, những tội từ vô thỉ sanh tử đến giờ, theo ác lưu chuyển, cùng chung các chúng sanh, tạo nghiệp chướng tội, bởi tham sân si trói buộc, do thân khẩu ý tạo năm tội vô gián và mười nghiệp ác, tự làm, bảo người khác làm, thấy kẻ khác làm sanh lòng vui mừng; hoặc vật của tháp, vật của Tăng, tự tại phí dụng, đối với các người lành sanh lòng phỉ báng, thấy các bậc tu học Thanh Văn, Duyên Giác Ðại Thừa, con ưa sanh lòng mắng chửi, khiến cho các người tu hành tâm sanh buồn phiền, thấy có kẻ nào hơn mình sanh lòng ganh ghét, đối với pháp thí, tài thí thường sanh keo kiết, bị vô minh che lấp, hoặc tâm tà kiến. Không tu nhơn lành, khiến ác tăng trưởng, ở chỗ các Phật, mà khởi lên phỉ báng, những tội như vậy Phật đều thấy biết. Con nay qui mạng đối trước chư Phật, Bồ Tát, Thánh chúng thảy đều trình bày tội lỗi, không dám che giấu, tôi chưa làm con không dám gây tạo, những tội đã làm con đều xin sám hối, nghiệp chướng đã tạo đáng đọa tam đồ và ở chỗ tám nạn. Con nguyện đời này, có bao nghiệp chướng đều được tiêu diệt, đã có ác báo đời sau không thọ, cũng như quá khứ, vị lai, hiện tại, các đại Bồ Tát tu Bồ đề hạnh, đã có nghiệp chướng thảy đều sám hối. Nghiệp chướng của con nay cũng sám hối, hết thảy phát lồ không dám che giấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, tội ác vị lai không dám tạo nữa.
(Sám hối rồi qui mạng lễ Tam-Bảo)
Con đệ tử hết lòng vui mừng tùy hỷ, quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh, tu hành bố thí, trì giới, tâm huệ đã có căn lành. Con nay thảy đều thâm sanh tùy hỷ, do làm phước tùy hỷ như vậy, cho nên chắc chắc sẽ thu hoạch được quả tôn trọng thù thắng Vô thượng Vô đẳng. Lại ở quá khứ vị lai, hiện tại, tất cả chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác đã chứa nhóm vô lượng công đức. Con nay chí tâm thảy đều tùy theo mà vui mừng khen ngợi.
(Tùy hỷ rồi qui mạng lễ Tam-Bảo)
Con đệ tử … chí tâm khuyến thỉnh mười phương tất cả chư Phật Thế Tôn, hiện được Vô thượng Bồ đề, chưa Chuyển pháp luân. Con đều chí thành khuyến thỉnh chuyển đại pháp luân, an vui hữu tình. Mười phương tất cả chư Phật Thế Tôn, muốn xả báo thân vào cõi Niết Bàn. Con nay cúi đầu đảnh lễ, hết lòng khuyến thỉnh trụ ở đời lâu, độ thoát và an vui cho tất cả chúng sanh.
(Khuyến thỉnh rồi qui mạng lễ Tam-Bảo)
Con đệ tử … hết lòng hồi hướng từ vô thỉ đến ngày nay, đối với ngôi Tam-Bảo đã tu hành thành tựu các căn lành, cho đến bố thí cho tất cả  chúng sanh một vắt cơm. Lại nữa đem hết công đức trì tụng bí mật, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, các căn lành ấy thảy đều thu nhiếp đem hồi thí cho tất cả chúng sanh, không tâm hối tiếc, là phần giải thoát căn lành đã nhiếp. Như chư Phật Thế Tôn đã thấy biết, không thể tính lường vô ngại thanh tịnh. Những công đức căn lành đã có như vậy, thảy đem hồi thí tất cả chúng sanh, không trụ tâm tướng, không xả tướng tâm. Con cũng như vậy, công đức căn lành, thảy đều hồi thí tất cả chúng sanh, cùng các chúng sanh đồng chứng Vô thượng Bồ đề, được tất cả trí, nhơn căn lành này, lại còn xuất sanh vô lượng pháp lành, cũng đều hồi hướng Vô thượng bồ đề. Lại như quá khứ, vị lai, hiện tại chư đại Bồ Tát, khi tu hành các căn lành công đức, thảy đều hồi hường tất cả chủng trí. Vậy con đã có công đức căn lành, cũng đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề, các căn lành ấy nguyện cùng tất cả chúng sanh đều thành chánh giác. Như các chư Phật ngồi nơi đạo tràng dưới cội Bồ đề, không thể nghĩ bàn vô ngại thanh tịnh, an trụ nơi vô tận Pháp Tạng Ðà Ra Ni, Thủ Lăng Nghiêm định, phá ma Ba Tuần, vô lượng binh chúng, trong một sát na thảy đều thấy rõ, nơi khoảng nửa đêm được cam lồ pháp, chứng cam lồ nghĩa. Con và chúng sanh nguyện đều đồng chứng Diệu Giác như vậy, cũng như chư Phật, thị hiện ứng hóa, đắc Vô thượng Bồ đề, chuyển Diệu pháp luân, độ các chúng sanh.
(Hồi hướng rồi qui mạng lễ Tam-Bảo)
Con đệ tử … chí tâm phát nguyện, nguyện các chúng sanh hết thảy phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường nhớ nghĩ công đức trí huệ của mười phương chư Phật. Lại nguyện tất cả chúng sanh phá dứt vô minh, được thấy Phật tánh, cũng như các đại Bồ Tát, tất cả Thiên Long Bát Bộ, tăng ích oai quang, ủng hộ quốc độ và nơi đạo tràng, dẹp các oán ma, khiến con đã tu pháp yếu bí mật của chư Phật mau được thành tựu.
(Phát nguyện rồi qui mạng lễ Tam-Bảo)
GIẢI: Kế đến nên tự thọ Bồ đề tâm giới, như trên văn sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, hồi hướng, chép ra trong kinh Kim Quang Minh, năm pháp đều rõ. Sám hối có công năng trừ chướng, diệt tội. Lễ Phật hay trừ ngã mạn chướng, được thân tôn quý. Sám hối hay trừ ba chướng, được y (y báo) chánh (chánh báo) đầy đủ. Tùy hỷ hay trừ tật đố chướng, được đại quyến thuộc. Khuyến thỉnh hay trừ mạn pháp chướng, được đa văn trí huệ. Hồi hướng là tự hồi những thiện căn đã tu, hướng về ba chỗ, tức thật tướng Bồ đề và đối với chúng sanh hay trừ trước hữu, cùng tâm xan lẫn. Do hồi hướng chút căn lành, biến nhập ba cõi như giọt nước rơi vào biển lớn, như tiếng nhập vào góc loa thời âm thinh bay vang xa. Phát nguyện hay trừ chướng thoái lui, được tổng trì các hạnh, mau được diệu quả. Hồi hướng liền kiêm phát nguyện, nay ở nơi hồi hướng mở ra lời phát nguyện để đối trị tâm không quyết định và chướng hỷ thoái lui. Hoặc khi vào đạo tràng, lễ Phật cho đến hồi hướng trì tụng rồi mới kiêm phát nguyện cũng được. Niệm tụng rồi như trước, thứ lớp kiết ấn tụng Chơn ngôn một biến, lại tu ngũ hối. Nếu thời gian mau, không thể như trước tụng hết văn sám hối, có thể tụng bài kệ sau đây:
Con đệ tử … hết lòng sám hối
Ðại Thánh Chuẩn Ðề Tôn
Tất cả chúng Hiền Thánh
Thân này hoặc thân trước
Ðã tạo các nghiệp ác
Các tội đều sám hối.
Con đệ tử … hết lòng khuyến thỉnh
Tất cả mười phương Phật
Hiện được thành đạo
Con thỉnh Chuyển pháp luân
An vui các chúng sanh
Mười phương tất cả Phật
Nếu muốn vào Niết Bàn
Con nay cúi đầu lễ
Khuyến thỉnh ở lại đời.
Con đệ tử … hết lòng tùy hỷ
Ba đời các Như Lai
Bồ Tát chúng Thanh Văn
Người tu tập tam thừa
Cho đến các phàm phu
Ðã có các phước lành
Thí giới thiền định huệ
Nhẫn nhục và tinh tấn
Con nay đều tùy hỷ.
Con đệ tử … hết lòng phát nguyện
Nguyện khắp các chúng sanh
Thảy phát tâm Bồ đề
Vĩnh dứt các phiền não
Sẽ chứng nhất thiết trí
Lại nguyện con nay tu
Chuẩn Ðề hạnh bí mật
Mong cầu các Tất Ðịa
Tùy tâm chóng thành tựu.
Con đệ tử … hết lòng hồi hướng
Con đem các tu phước
Và cùng hạnh Chơn ngôn
Hồi hướng các hữu tình
Chung thành Vô thượng đạo
Lại nay đem chỗ tu
Lễ bái và sám hối
Khuyến thỉnh cùng tùy hỷ
Phát nguyện hồi hướng thiện
Hết thảy thí chúng sanh
Vĩnh dứt khổ tam đồ
Ðồng đến đại Bồ đề
Pháp giới chơn như hải.
PHỤ TRÌ TỤNG PHÁP YẾU
Nay pháp yếu này là vì người sơ cơ tu hành, y kinh tu tập tam nghiệp chưa thuần, không thể tu tập các pháp quán hạnh. Tuy nhiên nghe Ðà Ra Ni, công đức thù thắng, tâm muốn mau trì tụng; hoặc người độn căn, nghe kinh Chơn ngôn quán hạnh, lòng sanh lui sợ, mất pháp mầm Bồ đề, vô lượng công đức như kinh đã nói. Nếu có người vừa tụng một biến, liền sanh pháp mầm Bồ đề, huống gì thường hay niệm tụng thọ trì. Do căn lành này mau thành Phật chủng, vô lượng công đức thảy đều thành tựu. Cho nên Trì Minh Tạng nói: Nếu có chúng sanh làm đại ác nghiệp, không có thiện chủng, nơi tâm Bồ đề không do đâu sanh khởi, Bồ đề phần pháp vĩnh không chứng đắc. Người như vậy may gặp tri thức, tụng Chơn ngôn này, một phen tai nghe, trọng tội giảm kém, giống lành liền sanh. Huống nữa hằng thường trì tụng, chuyên chú tinh cần. Mạng Trà La sớ nói: Niệm Như Lai Thần chú, tâm khế hợp Như Lai tâm. Tụng Mật ngôn Bồ Tát, nguyện nguyện phù hợp nguyện của Bồ Tát, sanh tử nào mà không ra khỏi, Niết Bàn nào mà không đắc chứng. Có điều lợi ích như thế nên do đây làm tập pháp yếu này để tiện người tu hành thọ trì nếu muốn trì tụng trước cần dứt bặt các duyên, khởi khẩn trọng tâm tưởng điều khó gặp, đến trước Thánh tượng, hoặc đối trước Kính đàn, đứng thẳng chấp tay đảnh lễ. Ðây là Ấn tướng Tối thượng Ðảnh lễ Chuẩn Ðề Bồ Tát. Vậy sau chú tâm quán tưởng tôn dung, năm vóc sát đất, đảnh lễ mười phương Phật, Pháp, Tăng Tam-Bảo, kế đến lễ Tỳ Lô Giá Na Mâu Ni Như Lai, Chuẩn Ðề Phật Mẫu, Quán Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát và tất cả Thánh chúng rồi, quỳ gối chấp tay hết lòng sám hối. Nói như thế này: Con đệ tử từ vô thỉ đến giờ, thân khẩu ý đã tạo ra các tội, nay đối trước Tam-Bảo chư Phật, Bồ Tát, phát lồ sám hối, không dám che giấu, cho đến quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời chư Phật, Bồ Tát, các món công đức phức trí viên mãn, con nay tùy hỷ.
Kế đến ngồi Kim Cang chánh tọa, lấy chân mặt đè lên vế bên trái, hoặc ngồi bán già, hoặc tùy ý ngồi. Kế đến kiết đại ấn tam muội, lấy hai  tay mở ngửa ra, tay mặt để lên tay trái, hai ngón tay cái giáp móng lại với nhau, để ngang dưới rún. Ấn này hay diệt tất cả cuồng loạn vọng niệm tạp nhiễm suy nghĩ. Ðã lắng định thân tâm rồi, liền quán tưởng sáu đường chúng sanh, từ vô thỉ đến nay ở trong biển khổ sanh tử, luân hồi nơi sáu thú, nguyện các chúng sanh kia phát Bồ đề tâm, tu hành Bồ Tát hạnh, mau được ra khỏi, suy nghĩ vậy rồi, liền nhập định pháp giới tam muội. Nghĩa là tưởng tự thân trên đảnh của mình có chữ Phạn thơ LAM tự, chữ này biến ánh sáng chiếu khắp cũng như ngọc Minh Châu tròn sáng, hoặc như mặt trăng rằm. Tưởng chữ này rồi, lại kết ấn Kim Cang quyền, lấy ngón cái tay bên trái bấm vào tiết thứ nhứt dưới ngón vô danh, còn bốn ngón kia nắm chặt ngón tay cái lại, hình như cầm cú. Ấn này hay trừ nội ngoại chướng nhiễm, thành tựu tất cả công đức. Tay mặt cầm chuỗi, miệng tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn 21 biến. Chơn ngôn: Úm Lam (hoặc riêng trì chữ Lam cũng được, Lam hoặc Lãm)
Chữ Lam tịnh pháp giới này, nếu tưởng hoặc tụng hay khiến ba nghiệp thảy đều thanh tịnh, tất cả tội chướng tận diệt tiêu trừ. Lại hay thành tựu xong xuôi tất cả việc thù thắng, tùy chỗ trụ xứ thảy được thanh tịnh, y phục không tịnh lại được tịnh y, thân không tắm rửa lại được sạch sẽ. Nếu dùng nước làm, sạch không gọi là chơn tịnh, nếu gồm pháp giới tâm, Lam tự này tịnh đó, tức gọi rốt ráo thanh tịnh bình. Như một hạt linh đơn, điểm sắc thành vàng báu. Một chữ Chơn ngôn biến nhiễm thành tịnh. Kệ rằng:
Ra tự sắc trắng sạch
Không điểm trang nghiêm đó.
(Chữ Phạn Ra trên an không điểm tức thành Lam vậy.)
Như trên đảnh kia Minh Châu để nơi nhục kế, Chơn ngôn đồng pháp giới, vô lượng các tội trừ. Tất cả chạm chỗ uế, phải gia Tự môn này. Cho nên Liên hoa bộ niệm tụng  pháp nói: Nếu chạm chỗ dơ uế, phải quán tưởng trên đảnh có chữ pháp giới sanh ra, phóng ánh sáng sắc đỏ. Nghĩa là Lam tự vậy.
(Nếu thật không có ngoại duyên đầy đủ, không có nước tắm rửa, thiếu y mới thanh tịnh, dùng chữ Lam này tịnh đó, nếu ngoại duyên đầy đủ mà không tắm rửa thay áo mới, để làm phép tịnh này là người không có lòng cung kính, là người biếng nhác, chính là lỗi khinh mạn vậy. Như thế làm sao phước sanh tội diệt được? Thành tựu việc sở cầu Tất Ðịa. Nếu trước như pháp tắm rửa sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, lại dùng Chơn ngôn này tịnh nữa, tức trong ngoài thanh tịnh, việc mong cầu sẽ mau được linh nghiệm).
Kến đến tụng Hộ thân Chơn ngôn, theo bản kinh, kiết đệ nhị căn bản ấn, tụng tâm Chơn ngôn 7 biến, hoặc kiết Vô Năng Thắng Bồ Tát ấn, tụng Vô Năng Thắng Chơn ngôn 7 biến, thời nay phần nhiều tụng các bộ khác. Nghĩa là Văn Thù Nhứt Tự Chơn ngôn: Úm Xỉ Lâm
Chữ Xỉ Lâm này là hai âm (nhị hiệp), hoặc ba âm (tam hiệp): Thất li long, hoặc bốn âm (tứ hiệp): Thể li hê dâm. Ngài Nghĩa Tịnh dịch: Thất lạc hê diêm. Bốn chữ như vậy họp làm một tiếng mới thành Phạn âm một chữ. Như không thể hiểu rành Phạn âm thì thật khó được chơn diệu. Một chữ vương chú này, công lực rất lớn không thể nghĩ bàn. Như Văn Thù Nhứt Tự Ðà Ra Ni Pháp nói: Ðức Thế Tôn bảo các chư Thiên rằng: Nên biết Ðà Ra Ni này là vua lớn trong các chú, có đại thần lực. Nếu có người trai lành, gái tín hay thọ trì, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thường đến đến ủng hộ, hoặc khi thức, hoặc trong chiêm bao, vì hiện thân tướng và các việc lành. Chú này còn hay nhiếp được Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, huống các Bồ Tát khác và các chúng Hiền Thánh, thế, xuất thế gian. Chú này có công năng tiêu trừ các tội ngũ nghịch, tứ trọng và nghiệp thập ác. Nên biết chú này đối với các Thần chú trong thế gian và xuất thế gian rất là thù thắng hơn hết. Là tâm của chư Phật hay khiến tất cả  sở nguyện thảy đều đầy đủ. Khi chưa làm phép (tác pháp) tức hay thành tựu tốt đẹp các việc như ý. Nếu phát Vô thượng Bồ đề tâm, tụng ột biến có năng lực thủ hộ tự thân mình. Nếu tụng hai biến có năng lực thủ hộ đồng bạn. Nếu tụng ba biến có năng lực thủ hộ người trong một nhà. Nếu tụng bốn  biến có năng lực thủ hộ người trong một thành. Nếu tụng năm biến có năng lực thủ hộ người trong một nước. Nếu tụng sáu biến có công năng thủ hộ người trong nhứt thiên hạ. Nếu tụng bảy biến có công năng thủ hộ người trong tứ thiên hạ. Nếu mỗi buổi sớm mai tụng một chú này vào trong nước rửa mặt hay khiến người thấy sanh lòng hoan hỷ, còn nói rằng: Nếu có chúng sanh bị Phi đầu quỷ bắt giữ, lấy tay mình thoa nơi mặt người kia, tụng chú 108 biến, làm ra tướng mạo đáng sợ, liền lấy tay trái kiết bổn sanh ấn (lấy ngón tay cái co để trong lòng bàn tay, bốn ngón sau nắm ngón tay cái lại, hình như cầm cú) tức tự nộ hét, đôi mắt ngầm nghiêm, tụng Thần chú này mà thoa vào người bịnh hoạn, bịnh tức trừ. Nếu tất cả quỷ gây làm hoạn bịnh, dùng chú này chú vào tay mặt 108 biến, thiêu an tức hương xông đó, tay trái kiết ấn bổn sanh tay mặt xoa vào đầu người bịnh, bịnh tức trừ lành. Nếu muốn đi qua tất cả chỗ hiểm nạn, sư tử, hổ lang, độc xà, oán tặc, nên cần phải thân tâm không được gần gũi người nữ và ăn đồ ngũ tân, tất cả rượu thịt, đối các chúng sanh khởi đại bi tưởng, chí tâm tụng chú 49 biến, thì các oán ác tự nhiên lui tản, giả như có gặp cũng đều hoan hỷ. Chú này có những chúng sanh, hoặc một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh tự cũng không thể nghe được, huống gì được thấy mà chuyên tâm trì tụng. Ðà Ra Ni này hay khiến chúng sanh hiện đời và đương lai thường được an ổn, cùng các Như Lai và chúng đại Bồ Tát, thường làm quyến thuộc. Vậy cho nên phải ân cần sanh tâm tưởng khó gặp, không nên khinh nhẹ, khởi nghi hoặc tâm, rộng như các kinh đã nói, không thể chép hết.
(Bộ khác dịch rằng: Nếu tụng 100 biến hay hộ một nước, nếu tụng 1000 biến hay hộ tứ thiên hạ. Bản cựu khiến tụng một chữ chú vương rồi, lại tụng Lục Tự Ðại Minh Chơn ngôn, 108 biến, vậy sau mới tụng Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni, nay sợ nhiều xen lộn bộ khác, người tu hành thấy khó trì tụng, nên ở nơi đây không chép ra, như muốn trì sau này sẽ tụng.)
Kế đến tụng gia trì sổ châu Chơn ngôn, dùng bột hương thoa vào chuỗi, để chuỗi trên hai tay ngang ngực. Tụng Chơn ngôn 7 biến gia trì nơi tràng chuỗi.
Chơn ngôn: Úm – Phệ lô giá na, ma la ta phạ hạ (7 biến)
Gia trì nơi chuỗi rồi, tâm nghĩ miệng phát lời nguyện rằng: con nay muốn niệm tụng, xin nguyện Bổn Tôn chư Phật, Bồ Tát, gia trì hộ niệm khiến cho con mau được như ý sở cầu nguyện mãn. Vậy sau lấy tay trái ngón vô danh và ngón cái nương châu, tay mặt lấy ngón tay cái và ngón vô danh lần từng hạt chuỗi, phải để nơi trước ngực, lắng lòng quán tưởng Chuẩn Ðề Phật Mẫu cùng các quyến thuộc đoanh vây xung quanh, rõ ràng phân minh như đối trước tòa. Khi tụng Chuẩn Ðề Chơn ngôn âm thinh không chậm không mau, mỗi khi xưng đến chữ Ta Phạ Hạ đồng thời lần qua một hạt chuỗi. Hoặc 108 biến, hoặc 1080 biến. Thường phải hạn định không được thiếu bớt, nếu mờ loạn ấy, tụng 108 biến rồi sau tùy ý tán trì đó. Hoặc kiết căn bản đại ấn, nơi trên tay của Bồ Tát ký số niệm tụng, tụng rồi xả ấn lên đảnh, nếu tụng 108 biến mãn rồi, không thể ký số nhiều, nên dùng tay trái kiết Kim Cang quyền ấn, tay mặt cầm chuỗi niệm tụng căn bản Chơn ngôn:
Nẵng Mồ Táp Ða Nẫm, Tam Miệu Tam Một Ðà Cu Ðê Nẫm, Ðát Nễ Dã Tha. Úm – Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Phạ Hạ.
Nếu việc mong cầu muốn mau được thành tựu, phải y nơi trước bản kinh làm đủ phép tắc, dứt trừ rượu thịt và ngũ tân mới được ứng nghiệm. Như hoặc tùy thời thu hoạch lợi ích, diệt tội sanh phước. Người tại gia không thể hoàn toàn đoạn dứt rượu thịt, thê thiếp, có thể mười ngày trai mà trì tụng. Như muốn trường trì không gián đoạn, thì chẳng những mười ngày chay, dù cho có rượu thịt vợ con đi nữa, chỉ nên một lòng tụng trì cũng được lợi ích, có thể khiến người đoản mạng tăng tuổi thọ, tật bịnh được tiêu trừ.
(Trong kinh luật gọi người tại gia không thể trường trì trai giới, ở nơi mỗi tháng trong mười ngày chay, thọ trì bát quan trai giới, đoạn dứt sát, đạo, dâm, vọng, tửu, hương hoa, ca vũ, hý lạc, hết thảy tám việc ấy là Giới, quá ngọ không ăn ấy là Trai. Do mười ngày tịnh trì trai giới này, nên khiến tụng Chơn ngôn quyết được mau hiệu nghiệm. Thời nay không biết trai giới, chỉ không ăn thịt uống rượu cho đó là trai, việc này đã lầm lâu rồi vậy. Riêng đây cho người trì tụng rượu thịt vợ con ấy, bởi gần đây kẻ thế tục rượu thịt vợ con là thường nghiệp của họ, tuy nghe Phật giới mà tập tánh khó cải đổi. Nếu không nhờ dùng Thần chú đại bất tư nghì này để cứu vớt thì biết ngày nào được ra khỏi sanh tử. Cho nên Phật Ðảnh Tụng dạy: Không trì trai ấy mà gọi là trì trai, không trì giới ấy mà gọi là trì giới. Nếu nghe niệm Phật đảnh Ðà Ra Ni liền được đầy đủ Thanh Văn giới. Còn người nào có trai giới thanh tịnh, y pháp trì tụng, đâu không mau ra khỏi sanh tử ư? !
Hoặc có người vô tướng vô phước, cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, cơm không no miệng, áo không đủ che thân. Thường trì tụng Thần chú Chuẩn Ðề này, hay khiến hiện đời hưởng được phước báu như vua Chuyển luân. Sở cầu quan vị quyết được toại lòng. Nếu cầu trí huệ, hoặc nam nữ thảy đều vừa ý. Chơn ngôn này giống như ma ni bảo châu, tất cả tùy tâm ưa muốn đều được, cho đến muốn thỉnh Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… chỉ tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, nếu có sai khiến tùy tâm mình nguyện. Chú này đối với Nam Thiệm Bộ châu, có thế lực lớn, dời núi Tu Di, khô nước đại hải, chú vào cây khô phát sanh hoa quả. Huống gì lại hay y pháp trì tụng, không chuyển nhục thân, đắc được đại thần túc thông, bay thẳng vào Ðâu Suất Thiên cung, nghe được Chánh pháp của đức Di Lặc, và bay khắp mười phương thế giới hầu hạ chư Phật, được thọ ký Bồ đề.
Nếu muốn thành tựu đàn pháp, như trước y kinh làm các phép tắc. Hoặc chỉ dùng Kính đàn, nên lấy một cái kính mới chưa từng dùng, để trước tượng Phật, theo tháng ngày 15 (rằm) nơi ban đêm hướng về Ðông phương, để kính trước tòa, tùy sức trang nghiêm cúng dường đầy đủ các hương hoa ứ già tịnh thủy, nhiên hậu kiết Căn bản đại ấn, để nơi ngang ngực, tụng căn bản Chơn ngôn, chú nguyện vào Kính đàn 108 biến, lấy đãy bỏ kính vào, thường đem theo nơi thân, mỗi khi muốn niệm tụng, chỉ lấy Kính đàn để trước mặt, kiết ấn Chuẩn Ðề tụng chú, nếu không thể hằng ngày đối kính niệm tụng, chỉ đối với mười ngày chay đối trước Kính đàn niệm tụng, còn các ngày khác không đối kính niệm tụng cũng được, nếu không có Kính đàn, chỉ quán tưởng một Kính đàn trước mặt trì tụng cũng thành tựu. Hoặc không thể quán tưởng, chỉ cần chuyên chú niệm tụng cũng thành tựu. Thần chú Chuẩn Ðề này là bảy trăm bảy mươi ức các đức Như Lai đồng nói. Ngài Long Thọ Bồ Tát làm bài kệ khen ngợi rằng:
Chuẩn Ðề công đức tụ, tịch tịnh tâm thường tụng.
Nhứt thiết chư đại nạn, vô năng xâm thị nhơn.
Thiên thượng cập nhơn gian, thọ phước như Phật đẳng.
Ngộ thử như ý châu, định hoạch Vô Ðẳng Ðẳng.
Dịch:
Chuẩn Ðề công đức tụ, vắng lặng tâm thường tụng.
Tất cả các đại nạn, không thể xâm hại người.
Trên trời và cõi người, thọ phước ngang bằng Phật.
Gặp châu như ý này, đắc định chứng Bồ đề.
Thời nay phần nhiều ở nơi sau Chuẩn Ðề Chơn ngôn kiêm trì tụng Phật Ðảnh Ðại Luân Nhứt Tự Minh Vương Chơn ngôn: Gọi là Thần chú Bộ Lâm (Ðây là Phạn tự Bộ Lâm kéo lưỡi ngân âm thanh dài ra, hai chữ hợp lại làm một chữ, cũng nói Bộ Lâm hoặc Phô Long. Lại nói
Bộ Lung, hoặc Bột Long. Bất Không Tam tạng dịch: Bột Lỗ Úm, ba chữ hợp làm một chữ. Chú rằng chữ Lỗ kéo dài lưỡi chung làm một âm. Lại nữa tiếng kéo dài ra từ trong yết hầu mà phát ra âm thinh như đánh trống lớn. Bản xưa dịch Bộ Lâm hơi sai không được đúng lắm. Như vậy âm giọng rất khó đúng chỉ người nào giỏi Phạn âm mới có thể được đó.
Kinh Căn Bản Nghi Quỹ nói: Phật Ðảnh Ðại Luân Nhứt Tự Minh Vương này được thành tựu, cho đến đối với Chánh pháp của các đức Như Lai khi sắp muốn diệt, có công năng làm các Phật sự. Lại hay ủng hộ tất cả Pháp Tạng của các đức Như Lai. Một chữ Minh Vương này, sau khi Phật diệt độ trong thời kỳ mạt pháp, giúp đỡ người tu hành ở trong thế gian được thù thắng hơn tất cả Chơn ngôn và chư Phật, Bồ Tát cũng thảy đều thọ trì, bởi vì quá khứ Phật, Bồ Tát đã truyền nói. Nếu ở chỗ nào có người tu hành chuyên tâm trì tụng Ðại Minh chú này, ở chỗ đó trong khoảng địa giới năm do tuần có tất cả ác tinh diệu (sao xấu) không dám xâm gần, các ác quỷ thần đều tự chạy trốn tản mất, cho đến tất cả các ác không dám làm hại, hơn nữa đối với Thiên nhơn, Thánh nhơn cũng không dám gần. Nếu người trì tụng tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh, nếu có ủng hộ hay ẩn thân mình, nhập vào tất cả trong nhiều các bộ, không chỗ chướng ngại, đối với thế gian và xuất thế gian không dám làm hại, có công năng bẽ gãy tất cả các ác chú trong thế gian. Chơn ngôn này là đỉnh đầu của tất cả chư Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy (không sợ hãi) hay ban an vui cho tất cả chúng sanh, phàm có tu trì tùy ý đắc quả, đồng ngọc như ý châu có công năng làm mãn nguyện tất cả, nếu trì tụng các Thần chú khác mà không thành tựu, nên dùng Chơn ngôn này cùng chung Thần chú khác đồng trì tụng, quyết định thành tựu. Nếu không thành tựu và linh nghiệm thì các chư thần của Thần chú kia đầu sẽ phá bể làm bảy phần. Phải biết Chơn ngôn này hay giúp tất cả Thần chú mau được thành tựu.
Nếu muốn trì riêng Chơn ngôn ngày để cầu tất cả pháp thành tựu, phải y vào bản kinh kia làm phép tắc niệm tụng. Nếu người trì tụng không thể y như trước, tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn và hộ thân Chơn ngôn, cho đến Ðaị Luân Nhứt Tự Chơn ngôn ấy, thì có thể chuyên trì Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này cũng được thắng diệu. Hoặc có người tuổi già suy yếu sức hơi thở ngắn ít, không thể tụng toàn bộ Chơn ngôn. Ðầu tiên tụng ba biến rồi sau chỉ tụng từ chữ Úm (Án) trở xuống chín chữ cũng được. Lại hoặc không thể kiết Chuẩn Ðề đại ấn, nên kiết Kim Cang quyền ấn niệm tụng, phàm khi tụng chú hết rồi, liền dùng ấn Kim Cang quyền, miệng tụng Thần chú Hồng Hồng cho liên tiếp, và ấn vào năm chỗ sau đây: ấn trên trán, kế ấn vai bên mặt, kế ấn vai bên trái, kế ấn nơi giữa ngực, sau ấn trên yết hầu, ấn xong xả ấn lên đảnh, có công năng trừ tất cả ma chướng, thành tựu tất cả việc thù thắng. Lại tùy ở chỗ nào muốn trừ dẹp quỷ thần, có thể kiết Kim Cang giới, chỉ tụng Chuẩn Ðề Thần chú Chơn ngôn chú vào trong nước hương thơm 21 biến, sái vẩy tám phương trên dưới, tức thành toái trừ kiết giới. (Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: Hoặc làm phép tắc khi ở trong đàn, hoặc khi nằm ngủ, hoặc bị ác mộng tức tụng Phật nhãn Chơn ngôn 800 biến, khi đương tụng tay mặt cầm chuỗi, tay trái cầm Kim Cang xử. Chơn ngôn: Úm – Ðộ Nẵng Phạ Nhựt Ra Hác)
Mỗi ngày y pháp trì tụng, cần phải thân thời hạn định. Nếu một thời trì tụng, nên trì buổi sáng, nếu hai thời trì tụng kiêm cả hoàng hôn (tối sẩm). Nếu ba thời trì tụng thời gia thêm chánh ngọ (giữa trưa). Như nhiều công việc không thể y thời, chỉ thời nào cũng được trì tụng. Nếu hạng thượng căn trì tụng, Tam Mật tương ưng, một Thân mật (kiết ấn ngồi ngay thẳng), hai Ngữ mật (miệng tụng Chơn ngôn Thần chú), ba Ý mật (một niệm chuyên pháp, hoặc tưởng Chơn ngôn Phạn tự hoặc duyên tiếng trì tụng, hoặc tưởng dung nhan Thánh tượng Chuẩn Ðề, hoặc tưởng trong tay của Bồ Tát cầm các vật hoa quả.)
Kinh Thần Biến Sớ nói: Nếu dùng Tam Mật làm môn tu hành, không cần phải trải qua nhiều kiếp số tu các hạnh. Chỉ ở hiện đời này đầy đủ các Ba la mật. Ngũ Bí Mật Nghi Quỹ nói: Tam Mật Kim Cang để làm tăng thượng duyên hay có công năng chứng quả vị của ba thân Tỳ Lô Giá Na thanh tịnh. Thích Ðà Ra Ni văn tự nói: Nếu các chư Phật không tu Tam Mật môn, không y Phổ Hiền hạnh nguyện mà được thành Phật là điều không  có lý. Nếu thành Phật với Tam Mật môn và Phổ Hiền hạnh nguyện có thôi nghỉ là điều không có lý. Nếu chánh trì tụng ba thời chưa mãn 108 biến, không được cùng người nói chuyện, như muốn nói chuyện nơi trên lưỡi tưởng chữ Phạn Lam, dù có nói chuyện cũng không thành gián đoạn. Khi nói rồi liền phải trì tụng như trước.
Hỏi: Chỉ trì một đạo Chơn ngôn công đức thành tựu hay là phải rộng trì nhiều đạo Chơn ngôn công đức mới thành tựu?
Ðáp: Ðây có hai môn:
1-Tùy căn ưa muốn nghĩa là người có nhiều món ưa thích không đồng. Hoặc ưa trì tụng ba đạo Chơn ngôn, cho đến một trăm đạo Chơn ngôn v.v… ở trong đó tùy căn cơ ưa muốn, đều được trì tụng.
2-Muốn mau được thành tựu, nghĩa là muốn cầu tất cả công đức mau được thành tựu, nên chuyên trì tụng một đạo Chơn ngôn thành thời tất cả Chơn ngôn công đức thảy đều thành tựu. Cho nên kinh Văn Thù Nghi Quỹ nói: Nếu muốn tất cả công đức thành tựu, không được riêng đối với Chơn ngôn mà sanh khởi tư tưởng (đừng sanh tâm dị biệt đối với các Thần chú, Thần chú nào cũng sanh tâm chí kính, cũng là pháp thành Phật tất cả.)
Như trên tuy có các số đạo Chơn ngôn đều cùng trì tụng với Chuẩn Ðề Thần chú, thứ lớp trợ giúp mau thành thắng diệu vậy. Lại nữa mỗi ngày đối kính trì tụng, ban đầu khi muốn trì tụng, phải theo như bản kinh. Quán tưởng tâm ta như một mặt trăng tròn sáng rực rỡ, có chín chữ Thánh Chuẩn Ðề Phạn tự, mỗi mỗi chữ tưởng có các thứ ánh sáng chiếu khắp nơi tâm nguyệt tròn sáng ấy. Hoặc không thể tưởng được chín chữ, nên có thể tưởng trong tâm Nguyệt luân tròn sáng ấy, tưởng một chữ Phạn ÚM hoặc tưởng chín chữ Phạn an bố khắp thân mình mình, trong ấy có Chơn ngôn chín chữ Phạn tự, ánh hào quang sáng rực rỡ. Như Ngài Kim Cang Trí đã dịch bản tụng rằng:
ÚM tưởng an trên đảnh đầu, sắc kia trắng như mặt trăng. Chiếu phóng vô lượng quang, trừ diệt tất cả chướng.
(Tức đồng Phật, Bồ Tát, rờ trên đảnh đầu người.)
CHIẾT an nơi hai mắt, sắc kia như nhật nguyệt.
Chiếu phá các ngu ám, hay phát thâm huệ minh.
LỆ an nơi trên cổ, sắc biếc như lưu ly.
Hiển bày các sắc tướng, lần đủ trí Như Lai.
CHỦ an nơi giữa ngực, sắc trong như tơ lụa.
Khiến tâm được thanh tịnh, mau đến đường Bồ đề.
LỆ an nơi hai vai, sắc như màu vàng ròng.
Do quán sắc tướng này, được mặc giáp tinh tấn.
CHUẨN tưởng nơi trong rún, sắc kia diệu vàng trắng.
Mau lên diệu đạo tràng, không thoái Bồ đề tâm.
ÐỀ  an hai bắp vế, sắc kia màu vàng lợt.
Mau chứng đạo Bồ đề, được ngồi tòa Kim Cang.
TA PHẠ  an hai cổ chân, sắc kia đỏ rực rỡ.
Thường hay tưởng chữ này, mau được chuyển pháp luân.
HA  an nơi hai chân, sắc sáng như trăng tròn.
Hành giả quán chữ này, mau được đến viên tịch.
Xét trong bộ Hiển Mật Viên Thông, lấy chữ nghĩa của các bộ Ðà Ra Ni an bố quán tưởng, là bởi
sợ người sơ học đời nay khó thu nhận thực hành, cho nên y bổn tông làm pháp yếu trì tụng. Hoặc muốn quán tưởng các chữ nghĩa khác ấy, phải như bổn kinh trong đó chép ra một pháp riêng khác cho được rõ hơn, như có người không thể quán tưởng chữ Phạn, chỉ chuyên tâm trì tụng cũng đầy đủ tất cả tam muội (chánh định). Kinh Ðại Bi Tâm Ðà Ra Ni nói: Ðà Ra Ni là thiền định tạng, trăm ngàn tam muội thường hiện tiền, nếu có người khẩn thiết trì tụng, hoặc gặp các thứ ma chướng, hoặc thoạt nhiên run sợ, hoặc miệng lưỡi khó tụng, hoặc thân tâm bất an, hoặc nhiều hờn giận, hoặc nhiều ngủ nghỉ, hoặc các dị tướng, hoặc ở nơi Thần chú sanh tâm nghi ngờ, không muốn trì tụng nữa .v.v… phải có pháp đối trị, nên y vào bổn kinh, kiết đệ nhị căn bản, tụng tâm Chơn ngôn, hoặc làm phép Vô Năng Thắng Chơn ngôn ấn khế, hoặc quán tưởng chữ Phạn RA hoặc quán chữ A theo đó làm một phép, tùy quán tưởng một chữ các cảnh giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu phân biệt tâm nhiều, nên quán chữ SÁI tức thành vô phân biệt. Nếu trước hữu vi tâm nhiều nên quán chữ HÀM tức đắc nhơn duyên pháp vốn không. Kinh Trì Minh Tạng nói: Người tu hành khi muốn làm các phép tắc, trước hết cần phải lặng tâm xa lìa các chỗ ồn ào, ở nơi thân phần của mình, tưởng tướng vi diệu của các chữ, mỗi mỗi được hiện ra trước mắt, nếu được hiện tiền thì tất cả tội cấu đều được tiêu diệt vi diệu chữ ấy, trước nơi cửa miệng tưởng chữ Xả, nơi trên vai mặt tưởng chữ Ám, nơi trên vai trái tưởng chữ Á, nơi trên đầu tưởng chữ Ám, nơi trên tay mặt tưởng chữ A, trên tay trái tưởng chữ PHẠ, nơi giữa rung tưởng chữ Hồng, lại nơi khắp thân tưởng chữ A. Người tu hành mỗi khi tưởng như vậy là chữ nơi thân phần khi ấy hiện ra. Tức liền tụng Chơn ngôn: Hồng Tả Lệ Tổ Lệ Tôn Nễ, Hồng. Chơn ngôn này tụng 10 vạn biến (nhứt lạc xoa) hay trừ tất cả tội. Lại Chơn ngôn: Úm Tả Lệ Tổ Lệ Tôn Nễ, Phấn Tra. Chơn ngôn này nếu tụng đến nhứt lạc xoa (10 vạn biến) đắc đại trí huệ. Lại Chơn ngôn: Nẵng Mồ, Tả Lệ Chủ Lệ Tôn Nễ, Nẵng Mồ. Chơn ngôn này thường trì hay trừ tất cả trần cấu. Chữ Xá là Diệu Cát Tường Bồ Tát căn bổn. Chữ Muội là Từ Thị Bồ Tát căn bản. Chữ Thất Trị là Như Lai căn bổn. Chữ Ám là Phổ Hiền Bồ Tát căn bản. Chữ Ác là Hư Không Tạng Bồ Tát căn bản. Chữ A là tất cả Như Lai căn bản. Chữ A lại là Quán Tự Tại Bồ Tát căn bản, lại là Kim Cang Thủ Bồ Tát căn bản. Chữ Hồng là Diệm Mạng Ðắc Ca Phẫn Nộ Minh Vương căn bản.
Nay lược chép ra ấn tướng, trước đứng ngay thẳng, sau lui lại rồi xoay bên mặt, lấy hai tay, nắm mỗi tay lại mởi ngón tay giữa ra làm tướng lay động. Ðây gọi là Nhã Phạ Nẵng ấn, nếu người tu hành ở trong đại nạn, hoặc bị cấm trói thời dùng đó, tất cả việc không thể làm hại.
Lại lấy tay mặt nắm lại ngón tay giữa thẳng lên, đây gọi là Tràng ấn, nếu khi chiến đấu, hoặc khi có đại bố  sợ hãi thì dùng. Lại trước ngồi kiết già phu, lấy tay bên tả nắm lại đứng thẳng ngón tay cái, lấy tay mặt nắm ngón tay cái bên trái an để nơi rún, đây gọi là pháp ấn cầu giải thoát, dùng thì tất cả thiên nhơn thảy đều khen ngợi. Lại nữa lấy hai tay mở ra các ngón tay cách nhau, để nơi trên đầu triển chuyển như tướng bánh xe, ấn này gọi là Bát Bức Luân, oai lực hay đoạn trừ tất cả đại ác.
Lại trước đứng ngay thẳng tát hữu vũ thế (Múa mạnh bên mặt) xoay chuyển bên mặt, lấy tay mặt làm phép thí nguyện, tay trái làm phép tam phan tướng (?) an trên nơi trán, rồi trở lại tát hữu vũ thế (múa mạnh bên mặt) rồi trở lại tát tả vũ thế (múa mạnh bên trái): Ðây gọi là phương vị ấn, có công năng hàng phục sư tử, long, hổ và các bộ đa tất xá tả quỷ .v.v… Cho đến các kẻ đạo tặc (trộm cướp).
Lại lấy hai tay, để trên mỗi cánh tay, các đầu ngón tay thẳng đứng, đây gọi là Bát lị già ấn, hay trừ tất cả bịnh ngược (rét).
Lại lấy hai  tay nắm lại với nhau, lấy ngón tay cái tréo lại nhau, đây gọi là Ðảo xử ấn, để dùng dứt trừ đại ác tú diệu (sao ác).
Lại lấy ngón tay cái mặt và ngón tay út an để nơi đầu ngón tay trỏ, đây gọi là Bát trí ta ấn, hay hàng phục A Tô La.
Lại lấy hai tay chấp lại hai  ngón cái hình như kim châm, đây gọi Thuyết pháp ấn để dùng khi cúng dường đức Bổn Tôn, sẽ được chư Phật, Bồ Tát và Thiên Long, Bát Bộ, các vị Trì Minh Thiên Tôn thảy đều vui mừng hay ban thí cho sự thành tựu. (Như trên các ấn, đều tụng Bổn bộ Chơn ngôn.) Như muốn thành tựu đại sự mau cầu linh nghiệm ấy, quyết phải cần y kinh lập đàn làm các pháp tắc mới thu hoạch được kết quả như ý mong muốn.
QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT CAM LỒ CHƠN NGÔN
Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Ðà Ra Ni nói: Nếu người tụng chú này, đời quá khứ, hiện tại đã tạo tứ trọng , ngũ nghịch, hủy báng kinh Phương Ðẳng, tội nhứt xiển đề, hết thảy các tội đều được tiêu diệt không còn dư sót, thân tâm nhẹ nhàng, trí huệ minh mẫn. Nếu thân hoặc lời nói thảy hay lợi lạc tất cả hữu tình. Nếu có chúng sanh rộng tạo tất cả các tội Vô gián, nếu được gặp người trì chú này, hình bóng chói vào thân của người kia, thoạt được cùng nói chuyện, hoặc nghe tiếng nói người kia, tội chướng thảy đều tiêu diệt. Nếu muốn lợi ích tất cả hữu tình, mỗi khi trời mưa khởi đại bi tâm, ngửa mặt hướng hư không tụng Chơn ngôn này 21 biến, mỗi giọt mưa kia thấm nhuần tất cả hữu tình, diệt hết tất cả nghiệp trọng tội, đều được lợi lạc.
Chơn ngôn: Nẵng mồ ra đát nẵng, đát ra dạ dả, nẵng mồ a lị dã, phạ lồ chỉ đế thấp phạ ra dả, mạo địa tát đát phạ dả, ma hạ tát đát phạ dả, ma ha ca rô nĩ ca dả, đát nễ dã tha. Úm Ðộ Nĩnh Ðộ Nĩnh, Ca Ðộ Nĩnh Ta Phạ Hạ.
(Ca hoặc nói hát nê, hoặc nói nhĩ nĩnh, hoặc nói nễ.)
GIẢI: Nếu muốn lược tụng, chỉ trì từ chữ Úm trở xuống, chữ Úm trở lên là lời quy kính, chánh chú là từ chữ Úm. Nếu chép Chơn ngôn Phạn tự này trên chuông, trống, khánh v.v… tất cả những vật có ra tiếng, các chúng sanh nghe tiếng kia thảy đều thanh tịnh, mạng chung được sanh về Tây phương Tịnh độ.
LỤC TỰ ÐẠI MINH CHƠN NGÔN
-   Úm ma ni pát mê hum.
-   Úm ma ni bát di hồng.
-   Úm ma ni pết nạp minh hồng.
Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương nói: Khi bấy giờ đức Quán Tự Tại Bồ Tát nói Thần chú Ðại Minh này, bốn đại bộ châu và cung điện của các cõi trời, thảy đều rung động, nước bốn biển lớn, nổi sóng ào ạt. Hết thảy các ma làm việc chướng ngại đều sợ hãi chạy trốn tản mất.
Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này khó được gặp gỡ, nếu có người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương đây, thì người đó tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu đeo mang trì giữ nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chơn ngôn này vô lượng tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào biết được. Ðây là chỗ bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát. Nếu người nào thường hay thọ trì chú Ðại Minh này, ở lúc trì tụng có 99 căn già hà sa số Như Lai tập hội, lại có vi trần số Bồ Tát tập hội, lại có vô số Thiên Long, Bát Bộ đến để hộ vệ người ấy. Người trì tụng Thần chú này bảy đời dòng họ đều sẽ được giải thoát, trong bụng có các loài trùng sẽ được địa vị bất thoái chuyển của Bồ Tát. Nếu đeo trì trong thân trên đảnh, có người được thấy người đeo trì ấy cũng như đồng thấy thân Kim Cang của Như Lai. Nếu hay y pháp niệm tụng, tức được vô tận biện tài, ngày ngày thường đủ sáu Ba la mật, viên mãn công đức. Nếu trong miệng hơi thở ra chạm vào người nào, người đó liền khởi tâm lành, xa lìa các sân độc, sẽ được bất thoái chuyển Bồ Tát, mau chứng Vô thượng Bồ đề. Người đeo trì giữ gìn chú này, lấy tay rờ đến người nào, hoặc lấy đôi mắt liếc nhìn đến các loài dị loại, các hữu tình, thảy đều mau được địa vị Bồ Tát. Người như vậy vĩnh viễn không thọ các khổ sanh, lão, bịnh, tử. Lại nữa Phật nói: Vi trần đã có, ta có thể đếm số lượng kia được, cho đến nước đại hải ta có thể biết số lượng kia. Nếu có người niệm sáu chữ Ðại Minh một biết, đã được công đức mà ta không thể đếm tính số lượng, giả như trong bốn đại châu, tất cả kẻ nam nữ đều chứng được địa vị Thất Ðịa Bồ Tát, công đức đã có cùng với người niệm Lục Tự Ðại Minh một biến mà công đức không sai khác. Nếu có  người viết chép Ðại Minh này, đồng với viết chép tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng. Nếu lấy kim bảo cõi trời tạo hình tượng của các đức Như Lai số như vi trần, không bằng chép viết một chữ trong sáu chữ Ðại Minh này, chỗ thu hoạch công đức quả báo không thể nghĩ bàn, người ấy sẽ được 108 món Tam ma địa môn. Chỉ niệm một biến sẽ được tất cả Như Lai đem y phục, ẩm thực, thuốc thang và đồ ngồi nằm đầy đủ tất cả để cúng dường. Pháp này ở trong Ðại Thừa rất là tối thượng, tinh thuần vi diệu. Tất cả Như Lai và các Bồ Tát thảy đều cung kính chấp tay làm lễ.
Khi nói sáu chữ Chơn ngôn này, có bảy mươi trăm ức các đức Như Lai đều đến tập hội, đồng nói: Thất Cu Chi Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni. Vậy nên biết sáu chữ Chơn ngôn cùng với Chuẩn Ðề Chơn ngôn đầu đuôi tương tu. Như muốn cùng Chuẩn Ðề Chơn ngôn đồng tụng ấy, có thể ở trước Chuẩn Ðề Chơn ngôn niệm tụng. Song cần yếu hiệp hai chữ nạp minh làm một chữ mới phù hợp Phạn âm. Hoặc muốn riêng trì tụng, công đức như trên đã nói. Nếu muốn như pháp kiết đàn niệm tụng rõ như bản kinh văn, đây không chép hết.
A DI ÐÀ PHẬT NHẤT TỰ TÂM CHÚ
Chơn ngôn “Hật Rị”.
Om A Mi Tabha Hrih.
Úm A Di Ðát Phạ Hật Rị Sa Ha.
Câu chú này luôn luôn đi theo với Úm Ma Ni Pát Mê Hum (Hồng). Căn cứ theo chư sư truyền lại, nên thêm Úm A Di Ðát Phạ và thêm chữ Ta Ha cũng được.
Kinh dạy: Chữ Hật Rị (HRIH) Ðủ bốn chữ thành một Chơn ngôn. Chữ Hạ tự môn, nghĩa là tất cả pháp nhơn bất khả đắc. Chữ RA tự  môn, nghĩa là tất cả pháp ly trần. Trần nghĩa là ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc). Cũng gọi hai món chấp trước năng thủ và sở thủ. Chữ Y tự môn, là tự tại bất khả đắc, hai điêm ác tự nghĩa. Chữ Ác gọi là Niết Bàn. Do giác ngộ các pháp vốn không sanh, đều xa lìa món chấp trước, chứng được pháp giới thanh tịnh. Chữ Hật Rị này cũng nói làm tàm (hổ thẹn), nếu nói đủ là tàm quí (hổ thẹn), tự thẹn với lương tâm mình và xấu hổ đối với kẻ khác, vì thế nên không làm tất cả điều bất thiện vậy. Ðầy đủ tất cả pháp lành vô lậu vậy. Cho nên Liên Hoa Bộ cũng gọi là Pháp Bộ.
Do gia trì chữ Hật Rị này mà ở thế giới Cực Lạc, nước, chim, cây, rừng đều diễn nói pháp âm. Rộng như trong kinh đã thuyết minh. Nếu có người nào trì một chữ Chơn ngôn này, có công năng hay diệt trừ tai họa, tật bệnh. Sauk hi chết sẽ sanh về cõi An-Lạc quốc, được thượng phẩm thượng sanh. Ðây là nhứt thông tu Quán Tự Tại tâm Chơn ngôn của người tu hành và cũng là hay trợ giúp cho các người tu các bộ Du Già vậy.
VĂN THÙ BỒ TÁT NGŨ TỰ TÂM CHÚ
- A ra bạt giả na.
Kim Cang Ðảnh Kinh Ngũ Tự Chơn ngôn Thắng Tướng nói: Nếu người vừ tụng một biến, như tụng tám vạn bốn ngàn thập nhị  Vi Ðà tạng kinh. Nếu tụng hai biến Văn Thù, Phổ Hiền liền theo gia bị, Hộ Pháp, Thiện Thần ở trước người đó. Lại nữa, nếu tụng một biến hay trừ tất cả khổ nạn của người tu hành. Nếu tụng hai biến trừ diệt ức kiếp sanh tử trọng tội. Nếu tụng ba biến tạm muội hiện tiền. Nếu tụng bốn biến được tổng trì bất vong. Nếu tụng năm biến mau thành Vô thượng Bồ đề. Nếu người nhứt tâm ở riêng chỗ vắng vẻ, viết năm chữ Phạn làm vòng đàn pháp, y pháp niệm tụng mãn một tháng rồi, Văn Thù Bồ Tát liền hiện thân kia, ở trong hư không diễn nói pháp yếu, khi bấy giờ người tu hành được túc mạng trí, biện tài vô ngại, thần túc tự tại, thắng nguyện thành tựu, phước trí đầy đủ, mau chưóng Như Lai pháp thân. Chỉ có tín tâm thọ trì thì trải qua mười sáu đời quyết định thành Chánh giác.
GIẢI: (Muốn làm phép gia trì kiết giới, rõ như Ngũ Tự Tâm Ðà Ra Ni phẩm.)
ÐẠI BẢO QUẢNG BÁT LẦU CÁC THIỆN TRỤ BÍ MẬT ÐÀ RA NI
Nẵng mồ tát phạ đát tha, nghiệt đa nẫm, Úm vĩ bổ lã nghiệt bệ, mạ nĩ bát ra bệ, đát tha đa nễ nại xả nĩnh, mạ nĩ mạ nĩ, tô bát ra bệ, vĩ mạ lê, ta nghiệt ra, nghiễm tỷ lệ, Hồng hồng nhập phạ lã, nhập phạ lã, một đà vĩ lô chỉ đế, hủng đế dạ địa sắc sỉ, đa nghiệt bệ, ta phạ ha.
Tâm chú: Úm ma nĩ phạ nhựt ra hồng.
Tùy tâm chú: Úm ma nĩ đà lị hồng phấn tra.
Chú này trước sau có ba nhà dịch, bản dịch ban đầu bị mất, người tên Khai Nguyên lục chép ra vào đời Lương Trung Hoa, sau Ngài Bồ Ðề Lưu chỉ dịch, đến lượt thứ ba Ngài Bất Không Tam Tạng dịch. Nay sợ người mới học khổ nỗi Phạn âm, nên mới giảo đính lại cả ba bản dịch, chép ra chính bản văn của Ngài Bất Không Tam Tạng, còn chữ của hai bản dịch kia không đồng, nên bản này rõ hơn, để cho người tu tập âm giọng không còn nghi trệ.
Kinh dạy rằng: Ðà Ra Ni này có đại oai đức. Phật do đây thành đạo, do đây hàng ma, hay diệt ác chướng hay thành lục độ. Nếu chép nơi chuông, trên điện, trên lụa, vải, trên giấy, trên vách tường, bảng v.v… những vật trên đó có các chúng sanh mắt tạm được thấy. Hoặc thân tay chạm đến, hoặc chói qua trong hình bóng và các người khác đụng chạm đến người này, hoặc mang nơi thân, hoặc đeo nơi đảnh, hoặc chép nơi trên vật có tiếng, hoặc người nghe thấy tiếng ấy, hoặc người đọc tụng, hoặc chỉ nghe tên Ðà Ra Ni này, những chúng sanh như vậy, dù có những tội tứ trọng, ngũ nghịch thập ác, thảy đều tiêu diệt, quyết định sẽ chứng đắc Vô thượng Bồ đề, hay ở nơi hiện đời được vô lượng trăm ngàn công đức, thường được quốc vưong, tể quan, bốn chúng cung kính vui mừng, không thọ thế gian các thứ khổ não, độc dược, dao gậy, các nạn nước lửa, tất cả các ác thú như sư tử, cọp, sói không dám làm hại. Lại không bị các nạn trộm cướp, các độc xà, các tà thần, quỷ mị. Hiện thân không thọ  tất cả các bịnh: nghĩa là bịnh rét, bịnh mắt, bịnh tai, bịnh mũi, bịnh lưỡi, bịnh răng, bịnh môi, bịnh yết hầu, bịnh đầu, bịnh cổ. Các bịnh của chi phần: Bịnh tay, lưng, hông, rún, trĩ, đái sưng, lị, nhọt rò, nhọt, đầu gối, gót chân, mụn con, ban, dạ dày, ghẻ lở, sẹo, lác, hắc lào, hết thảy các bịnh như vậy không dính vào thân. Không bị trù rủa, yếm đảo độc trùng, chú trớ, thư nộp, mà dính nơi thân, không bị tai hoạnh mà chết. Nằm ngủ yên ổn, thức thì an vui, ở trong chiêm bao mộng thấy trăm ngàn cõi Phật. Cùng thấy chư Phật và Bồ Tát đoanh vây chung quanh, khi mạng gần chết tâm không tán loạn, tất cả chư Phật hiện ra trước mặt an ủi. Lại tất cả các loài bàng sanh như nai, chim, mòng, muỗi, trùng, kiến, ong bướm cho đến thai noãn, thấp, hóa, các loài hữu tình nghe danh Ðà Ra Ni này, hoặc thân chạm xúc, hoặc trong bóng ngã qua, quyết định sẽ đắc Vô thượng Bồ đề.
Lại có người nào trên đảnh núi cao, tụng Ðà Ra Ni này, tầm mắt phóng thấy tận đến chỗ nào, tất cả chúng sanh ở nơi ấy đều được diệt trừ tất cả tội nghiệp (rộng như trong kinh đã dạy.)
CÔNG ÐỨC BẢO SƠN ÐÀ RA NI
Nam Mô Phật Ðà da
Nam Mô Ðạt Ma da
Nam Mô Tăng Già da
Úm tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.
(Chữ hộ cũng nói là hồ, đô cũng đọc là độ, chỉ cũng đọc giá, ba cũng đọc bà, lị cũng đọc nĩ khứ thinh.)
Kinh Ðại Tập nói: Nếu người tụng chú này một biến, như lễ Ðại Phật Danh kinh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển Ðại Tạng 60 vạn 5 ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ, đọa vào A Tỳ địa ngục chịu tội, kiếp hết lại sanh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một biến, tội kia đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa ngục, khi mạng chung quyết định vãng sanh Tây phương thế giới, được thấy Phật A Di Ðà, thượng phẩm thượng sanh.
GIẢI: Tạo tội hơn mười sát độ ấy, nghĩa là tội đã tạo quá hơn mười thế giới vi trần; kiếp hết lại sanh, nghĩa là cõi Ta Bà thế giới này khi đã hoại diệt, tội kia chưa hết, liền gởi sanh trong địa ngục ở thế giới phương khác. Cõi này thành rồi đời người tội nhơn kia trở về trong địa ngục phương này mà chịu khổ báo.
TAM TỰ TỔNG TRÌ CHƠN NGÔN
- Úm Á Hồng
- Úm A Hum
- Án dạ hồng.
Du Già Ðại giá Vương kinh nói: Chữ Úm là Ðại Biến Chiếu Như Lai tức Phật Tỳ Lô Giá Na. Chữ Á là Vô Lượng Thọ Như Lai, tức Phật A Di Ðà. Chữ Hồng là A Súc Như Lai, tức Bất Ðộng Phật. Ðức Như Lai nhơn ở trong nhiều năm tu trì hành đạo không đắc Bồ đề, sau tu tập quán tưởng này, trong khoảng nửa đêm liền thành Chánh giác. Nghĩa là chữ ÚM gồm đủ vô lượng pháp môn, là mẫu của tất cả Chơn ngôn (Thần chú). Tất cả Như Lai đều nhơn quán tưởng chữ này mà được thành Phật. Chữ A (hay Á) là Tỳ Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề tâm. Nếu người tưởng niệm, hay sanh vô lượng công đức. Chữ Hồng tổng nhiếp Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn (Thần chú) là chủ thân Kim Cang bộ, cũng là ba môn giải thoát. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ tất cả tội chướng, thành tựu tất cả công đức. Ba giải thoát môn: 1- Không giải thoát môn, 2- Vô tướng giải thoát môn, 3- Vô nguyện giải thoát môn. Căn bản các hạnh của đại Bồ Tát từ sơ phát tâm đến “Nhứt thiết trí”.
Chư Giáo Quyết Ðịnh Danh Nghĩa Luận nói: Chữ Hồng tức Pháp thân, chữ A tức Báo thân, chữ Úm tức Hóa thân. Ba chữ như vậy nhiếp cả ba thân này, để phân biệt nói tam thừa và đạo giải thoát, ấy là nhơn chánh thuyết, nói có Thanh Văn, Duyên Giác và Nhứt thiết trí. Do trí xuất hiện nói tất cả pháp, tức ba chữ kia cũng là Kim Cang tam nghiệp, như thật an trụ; nghĩa là Úm – A – Hồng. Trong chữ Úm này, là Kim Cang thân nghiệp, chữ A Kim Cang ngữ nghiệp, chữ Hồng Kim Cang tâm nghiệp. Lại nữa, chữ Hồng là tâm trí giác liễu (rõ thấu tất cả) tất cả pháp như trên đã nói. Phải biết tất cả văn tự đều từ chữ Úm A Hồng ba chữ mà ra, do đó nên các pháp khởi lên các tướng phân biệt tất cả pháp kia, đều cùng Úm – A hai  chữ trước sau nhiếp nhau. Chữ Hồng trong đây, xuất sanh tất cả, ở trong ba cõi, xuất hiện các sắc; nghĩa là có Thiên, Nhơn, Long, A tu la, Ca lầu la, Khẩn Na La, Càn thác bà. Thành tựu Trì Minh Thiên, Cát Tường Thiên, Biện Tài Thiên, Ô Ma Thiên, Ðế Thích Thiên, Phạm Vương Thiên, Na La Diên Thiên, Ðại Tự Tại Thiên, những trời như vậy, và Thiên hậu đã có tất cả trong cõi hữu tình kẻ nam tử, người nữ nhơn cho đến hết thảy các Phật, Bồ Tát đều từ chữ Hồng này xuất sanh biến hóa, kia mỗi một tâm, trụ tướng chữ này, nếu khi tâm tưởng chữ này, phải trụ nơi hư không, xuất sanh ra vô ngại, nghĩa là tâm ba cõi, đồng một tâm này, được nhập vào tâm rồi, tức được gọi là hiện chứng Bồ đề, phải biết tâm này là vô đẳng, vô thủ, vô trước, vô trụ, vô biểu, vô tướng, tức là hư không bình đẳng tất cả trí vô sở đắc, tương ưng không tự, không tha, tương ưng chánh hạnh. Thế gian đã có Chiên đà la tối hạ chủng tộc v.v… các loại kia cũng bình đẳng các hạnh cho đến các loại súc sanh, kia đã có hạnh, các hạnh sai khác. Các hạnh như vậy, tuy lại sai khác, đều cũng không lìa nhứt thiết trí, trí tương ưng chánh hạnh v.v…
Thành Phật Nghi Quỹ tụng rằng:
Do tụng chữ Úm này, gia trì oai lực vậy.
Dù quán tưởng không thành, nơi các Phật hải hội.
Các cúng dường mây biển, chơn thật đủ thành tựu.
Do chư Phật chắc thật, pháp nhĩ đã thành vậy.
Do vừa tụng chữ Á, diệt sạch các tội chướng.
Ðược các vui ý lạc, đồng đẳng tất cả Phật.
Vượt hơn các chúng ma, không thể làm chướng ngại.
Ðáng thọ các thế gian, rộng nhiều thứ cúng dường.
Do gia trì chữ Hồng, cọp sói các trùng độc,
Ác tâm người chẳng người, không còn thể khuấy phá.
Như Lai mới thành đạo. Nơi dưới cội Bồ đề.
Dùng Ấn Mật ngôn này, phá dẹp chúng Thiên ma.
Kinh Ðại Phật Ðảnh Ðà Ra Ni nói: Giả sử có chúng sanh nơi tâm tán loạn, miệng tụng Thần chú, còn có 8 vạn 4 ngàn na do tha hằng hà sa trăm ức, Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc. Mỗi vị đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc. Ngày đêm thường theo hầu hạ ủng hộ, người này dù cho ma vương rình tìm phương tiện, trọn không thể được, các Thần quỷ núi đi cách xa người thiện nhơn này, ngoài mười do tuần. Nếu có quyến thuộc của ma muốn tìm đến phá rối người thiện ấy, các chúng Kim Cang lấy chày Bảo xử đập nát cái đầu kia cũng như hạt bụi, hằng khiến người này việc làm như nguyện.
GIẢI: Như trên tu trì bi kỉnh các Chơn ngôn, nếu không thể mỗi mỗi tụng trì chép tả ấy, thì tất cả việc làm hết thảy đều dùng Chuẩn Ðề Chơn ngôn cũng được. Vì Chuẩn Ðề Chơn ngôn giống như châu ngọc như ý, nếu người tu hành trì tụng nơi chỗ dùng đó, đều được thành tựu. Như trên tụng trì Chơn ngôn, hay diệt ngũ nghịch, thập ác, tứ trọng tội ấy. Phải biết tội có Tánh tội và Giá tội, sám hối phải đủ Sự Lý. Tánh thời không luận thọ giới hay không thọ giới, làm là có tội. Giá (ngăn) nghĩa là tăng thọ Phật giới, tâm hủy phạm. Sự, cần phải trình bày phát lồ, lễ Phật danh kinh, tu hành các nghi Phương Ðẳng, để hàng phục cội gốc của nghiệp. Lý, nghĩa là chuyên quán thật tướng, đạt tội tánh không, diệt nghiệp căn nguồn. Các Chơn ngôn Thần chú này, nếu hay y pháp tụng trì, tức song vận cả Sự Lý, nguồn tội gốc nghiệp liền tiêu. Nếu phạm cấm giới, căn cứ theo luật nói sám hối, gia thêm Thần chú, thời Sự Lý gồm đủ, Tánh Giá đều tiêu hết không sót. Không thể vừa nghe công lực của Thần chú như thế, liền trái phạm cấm giới, không y luật sám hối thì giá tội cũng phải còn. Hoặc nhờ nương Nghi Quỹ Chơn ngôn lại tạo thêm các lỗi. Thí như người ngu, ỷ thế lực của vua, rộng tạo các ác, họa trọn đứt đầu. Nghiệp tâm không dứt, tội thật khó trừ, quyết khiến thân tâm đều tiêu, mới được diệt tội, như ánh mặt trời sương mù tiêu tan.
SỔ CHÂU CÔNG ÐỨC PHÁP
Nói về tràng chuỗi, để tâm ghi nhớ cho người sơ cơ chứa nhóm công đức. Trì ấy là thành đức, đeo là diệt tội cấu, quả tốt của thế gian và xuất thế gian đâu không do đây ư! Như kinh Kim Cang Ðảnh Du Già Niệm Châu nói: Lúc bấy giờ đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Ngài Kim Cang Thủ rằng: Lành thay! Lành thay! Vì các Bồ Tát tu Chơn ngôn hạnh, nói các Nghi Quỹ, thương xót đời vị lai, hết thảy hữu tình, nói công đức thắng lợi niệm châu, do nghe như vậy, diệu ý thú ấy, mau chứng Tất Ðịa. Khi bấy giờ Ngài Kim Cang Tát Ðỏa Bồ Tát bạch Phật mà nói: Thưa Thế Tôn! Con nay xin nói. Lúc bấy giờ Kim Cang Tát Ðỏa Bồ Tát nói bài kệ rằng:
Châu biểu thắng quả của Bồ đề,
Nơi trong đoạn dứt hữu vi lậu.
Sợi dây xâu suốt biểu Quán âm,
Mẫu châu biểu tượng Vô Lượng Thọ.
Dùng lần qua khỏi tội vượt pháp,
Ðều do niệm châu chứa công đức.
Xa cừ niệm châu một bội phước.
Gỗ quý niệm châu hai bội phước.
Lấy thiết làm châu ba bội phước,
Thục đồng làm châu bốn bội phước.
Thủy tinh chơn châu và các bảo,
Thứ ấy niệm châu trăm bội phước.
Ngàn bội công đức Ðế Thích hột,
Kim Cang hạt châu trăm ức phước.
Sen hạt niệm châu ngàn trăm ức,
Bồ đề hạt châu vô số phước.
Phật bộ niệm châu Bồ đề hạt
Kim Cang bộ pháp Kim Cang hạt.
Bảo Hộ niệm tụng dùng các bảo,
Liên Hoa bộ châu dùng sen hạt.
Trong yết ma bộ làm niệm châu,
Các châu xen lộn nên xâu lại.
Niệm châu phân biệt có bốn món,
Thượng phẩm tối thắng và trung hạ.
Một ngàn tám mươi là bực trên,
Một trăm lẻ tám châu tối thắng.
Năm mươi bốn châu là bực trung,
Hai  mươi bảy châu là bực hạ.
Hai tay trì châu để ngang ngực,
Tịnh lặng lìa niệm tâm chuyên chú.
Bổn Tôn Du Già tâm một cảnh,
Ðều được thành tựu sự lý pháp.
Dù để đầu đảnh hay thân mang,
Hoặc đeo nơi cổ hay nơi tay.
Lời nói luận bàn thành niệm tụng,
Lấy đây niệm tụng ba tịnh nghiệp.
Do để đảnh đầu tịnh vô gián,
Do đeo trên cổ tịnh tứ trọng.
Nắm châu nơi tay trừ trọng tội,
Hay khiến hành giả mau thanh tịnh.
Nếu tu Chơn ngôn Ðà Ra Ni
Niệm các Như Lai Bồ Tát danh.
Ðược thu vô lượng thắng công đức,
Mong cầu thắng nguyện đều thành tựu.
(Ba bộ niệm tụng trì số châu, thủ ấn tướng nay sẽ phân biệt.)
Tô Tất Ðịa cúng dường pháp nói: Lấy tay mặt ngón tay, nắm ngón vô danh, ngón trỏ mở thẳng, ngón giữa ngón út hơi co, lấy ngón trỏ để sát một bên lóng trên ngón giữa. Ðây là thông ba bộ chấp số châu ấn. Liên hoa bộ chấp số châu ấn. Lấy tay mặt ngón cái nắm ngón tay giữa, còn ba ngón kia thì mở ra thẳng, tay trái cũng vậy. Kim Cang bộ chấp châu ấn. Lấy tay mặt nắm lại, mở thẳng ngón cái, nắm ngón trỏ, tay trái cũng vậy. Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ nói: bảo người con gái nhỏ lấy chỉ xe lại thành 21 lần, thành rồi mới xâu hạt châu. Khi trì tụng, lấy ngón tay cái nắm một hạt châu, tụng một biến Chơn ngôn.
HÀNH DU GIÀ BÍ MẬT PHÁP YẾU
Ðại Luân Kim Cang Ðà Ra Ni.
Nẵng mồ tư để lị dã, địa vĩ ca nẫm, đát tha nga đa nẫm, ám, vĩ la nể, ma ha chiết ca ra, phạ nhựt lí, ta đa, ta đa, ta ra đế, ta ra đế, đát ra dĩ, đát ra dĩ, vĩ đà ma nể, tam bạn nhã nễ, đát ra ma để, tư đà nhĩ lí da, đát lãm, ta phạ ha.
Phạn âm:
Nô môsi ti li gia, ti mi ca năng, thạc ta gia thạc năng, ản pi la ni, pi la ni, ma kha tchêch cà la, ma di li, sa thạc sa thạc, sa la ti, sa la ti, thạc la ý, thạc la ý, pi thạc ma ni, sam bàn già ni, thạ la ma ni, si tạ mi lì gia, thạ nắng, sa va kha (3 biến).
A Súc Như Lai tụng pháp nói:
Do tụng Chơn ngôn này như vào vòng đàn pháp (Mandala).
Mất niệm phá chánh định, Bồ Tát cùng Thanh Văn.
Thân miệng hai luật nghi, tứ trọng ngũ vô gián.
Các tội chướng như vậy, thảy đều được thanh tịnh.
Lại Cam Lồ Quân Trà Lợi Bồ Tát, niệm tụng nghi nói: Kế đến Kim Cang Luân Bồ Tát ấn, vì nhập vào đàn pháp, thọ được ba đời vô chướng ngại, ba món luật nghi của Bồ Tát, do nhập vào đàn pháp, thân tâm đủ mười vi trần sát thế giới, vi trần số Tam ma da, vô tác giới cấm. Hoặc nhơn co duỗi cúi ngước, phát lời ra hơi, khởi tâm động niệm, quên mất tâm Bồ đề, lui mất căn lành. Lấy ấn khế mật ngôn thù thắng phương tiện này, tụng trì tác ý, hay trừ vi phạm các lỗi lầm. Ta ma da như vậy, tăng thêm ánh quang tỏ. Hay tịnh thân khẩu ý. Ðược thành nhập tất cả đàn, thu hoạch quán đảnh Tam ma da.
CHÚ Ý ẤN TƯỚNG
Hai tay bên trong tréo nhau, đứng thẳng hai ngón tay trỏ khít nhau, lấy hai ngón tay giữa quấn vào hai ngón tay trỏ ở trước lóng thứ nhứt, mỗi ngón tay trỏ đứng nhau, hai ngón cái giáp thẳng nhau. Kiết ấn để ngang ngực, niệm tụng mật ngữ. Nếu chưa nhập đàn không cho làm các phép. Nên dùng Chơn ngôn này, tức sẽ được nhập vào đàn làm các phép tắc, thì không thành tội trộm pháp vậy.
Kết ấn khế, đối với nhà tu Mật tông rất quan trọng, quyết cần phải đến thầy truyền trao cho mới có linh nghiệm, không cho người khác xem thấy. Khi kết ấn phải ở chỗ tịch tịnh, thân thừa thọ bẩm chư sư truyền lại, khi kết ấn phải để kín trong áo y, nếu làm không đúng pháp mà kết ấn, các Mị thần, và Tỳ Na Dạ Ca sẽ làm chướng nạn chết đọa địa ngục. Không được quán đảnh, không phát Bồ đề tâm. Trước các người khác không được kết các ấn khế.
TỤNG KỆ
Khể thủ qui y Tô Tất Ðế
Ðầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi,
Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề,
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam Mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà cu chi nẫm đát điệt tha: Úm (Án) Chiết Lệ, Chủ Lệ, Chuẩn Ðề Ta Bà Ha. (Bộ Lâm) (3 lần)
Thiêu hương (thắp hương)
Tụng kệ Chuẩn Ðề và Thần chú ba biến; kính lễ ba lễ.
SÁI TỊNH
Tụng chú Chuẩn Ðề gia trì trong chén hay tịnh bình 21 biến. Sái vẩy nơi thân và nơi đất tám phương trên dưới.
KẾT ẤN HỘ THÂN
Tụng Úm (Án) Xỉ Lâm (21 biến)
Tụng chú Chuẩn Ðề (7 biến)
An ấn nơi trên đảnh, nơi trán, nơi vai mặt, nơi vai trái, nơi tâm (giữa ngực) nơi miệng. Rồi xả ấn lên đảnh đầu.
PHỔ LỄ
Dùng toàn kệ toàn chú Chuẩn Ðề ba biến (3 lễ). Ðứng hay ngồi nơi tòa tùy ý.
TỊNH PHÁP GIỚI
Tụng Úm (Án) Lam (21 biến)
Tụng chú Chuẩn Ðề (3 biến).
Kiết ấn quán tưởng.
Từ chữ Lam biến thành vòng lửa tam giác thiêu tận từ đảnh đến chân của hành giả.
KIẾT GIỚI
Dùng Thần chú Chuẩn Ðề.
Kết ấn.
Trước xoay bên trái niệm ba biến, kế xoay bên mặt niệm ba biến. Sau nơi trán, vai trái, vai mặt, tâm (ngực), nơi miệng đủ năm biến, mỗi nơi một biến.
TRIỆU THỈNH
Dùng Thần chú Chuẩn Ðề. Kiết ấn Chuẩn Ðề (Bổn Tôn ấn) ba biến triệu thỉnh.
Quán tưởng đức Bổn Tôn Chuẩn Ðề giáng lâm an trụ Kính đàn.
CÚNG DƯỜNG
Kết Cúng Dường ấn (Hư Không Tạng ấn)
Tụng Chuẩn Ðề bảy biến.
Tâm quán sáu món cúng dường,
Rất nhiều vô lượng vô số.
BỔN TÔN GIA TRÌ
Kiết ấn Chuẩn Ðề. Tụng chú Chuẩn Ðề bảy biến (rồi xả ấn trên đảnh) ẤN.
Chánh niệm tụng.
Trì châu (lần chuỗi) niệm Chuẩn Ðề chú 108 hay 1080 biến.
TÁN THÁN
Ðại tai Phật Mẫu,
Vô đẳng Vô luân,
Nhứt thập bát tý hiển Oai Thần,
Mật chú lợi Thiên Nhơn.
Lễ niệm công thuần,
Ðờn chỉ xuất mê tân.
Nam Mô Chuẩn Ðề Vương Bồ Tát (3 lần)
(Sau gia trì) chấp tay niệm chú Chuẩn Ðề bảy biến (hoặc tụng kinh chú khác tùy lòng).
TRỞ LẠI CÚNG DƯỜNG
Kết Hư Không Tạng ấn
Tụng chú Chuẩn Ðề bảy biến, quản tưởng sáu món cúng dường.
Khể thủ quy y Tô Tất Ðế
Ðầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi
Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam Mô táp đa nẫm tam miệu tam bồ đà cu chi nẫm đát điệt tha:
ÚM CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ÐỀ TA BÀ HA. (3 lần)
SỞ NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Ngã kim trì tụng Ðại Chuẩn Ðề,
Tức phát Bồ đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã công đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm,
Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham sân si.
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh,
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Ngã đệ tử … sở nguyện.
Linh ngã hiện thế chi nội,
Tất Ðịa đắc thành tựu.
Ngũ phước trùng tăng,
Tha báo chi trung, nhị nghiêm sung bị.
Giải giới (Kiết giải giới ấn, tụng chú Chuẩn Ðề một biến)
PHỤNG TỐNG ẤN (Ðưa đi)
Tụng Chuẩn Ðề ba biến, đưa ấn ra như hình đồ, rồi xả ấn lên đảnh.
Kế tiếp ấn Hộ thân
Tụng Chuẩn Ðề 7 biến, ấn năm chỗ trên đảnh, trán, vai mặt, vai trái, tâm (ngực), miệng. Rồi xả ấn lên đảnh.
Chấp tay đảnh lễ, tụng toàn bài kệ và toàn chú Chuẩn Ðề ba biến (lễ 3 lễ). Kết phổ lễ ấn.
PHỤ BẢN TRÌ CHÚ THÁP
Người tu hành pháp  bí mật, như trong kinh dạy, cần phải đến nơi núi non, hang gọp, nơi hoang đảo, nơi tịnh xứ, nơi mé biển bãi cát, in hình tháp mà trì chú Chuẩn Ðề, nếu chưa có nhơn duyên đi các nơi ấy, ở nơi tịnh thất trang nghiêm, in hình tháp trên giấy trì chú Chuẩn Ðề. Trì Chuẩn Ðề Chơn ngôn mỗi 108 biến chấm vào vòng tròn trên tháp, xong rồi để trước tượng Bổn Tôn Chuẩn Ðề, cầu nguyện những gì mình mong ước.
Như cầu vị Tất Ðịa, hoặc cầu tiêu tai chướng, hoặc cầu phước đức thông minh, cầu tiền tài, hoặc sở cầu như ý v.v…
Cầu nguyện rồi thiêu đốt tháp nơi trong lư. Một tháp chưa thành tiếp niệm hai, ba cho dến bảy, mười, một trăm. Tháp quyết định thành tựu như nguyện.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.15/6/2014.

No comments:

Post a Comment