SƠ LƯỢC CÁC SỰ TÍCH VÃNG SANH.
SƠ LƯỢC CÁC SỰ TÍCH VÃNG SANH
Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết, đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gôi sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh Độ, khi mãn phần có những điềm dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.
Nay tôi xin kể lại sơ lược sự tích vãng sanh xưa và nay, tại nước Tàu và Việt Nam, để quý vị đạo rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết niệm Phật cũng được vãng sanh.
Đời đường cư sĩ Minh Chiêm, tuổi già mới tu Tịnh Độ. Ông tinh tấn ngày và đêm, niệm phật chẳng dứt. Có kẻ nói: “ Ông tu muộn quá! E không kịp vãng sanh” Ông nói: “ Niệm Phật từ mộ đến mười câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng vãng sanh”. Sau vì bị bệnh, ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá ngọ, ông chắp tay soay mặt vào hướng Tây mà niệm Phật, giây lâu ông nói rằng: “Phật và Quan Âm Thế Chí đều đến rước ta” nói xong ông bái và tắt thở.
Đời Tống, ba cha con của Nguỵ Thế Tử với một Quận chúa đều tu Tịnh Độ, trừ ra Phu Nhân là ăn mặn. Sau Quận chúa chết yểu, sau khi liệm xong, quàng lạy bảy ngày, bỗng nghe tiếng từ trong quan tài nói vọng ra : “ Ngộp lắm” cả nhà mừng rỡ cạy nắp quan tài ra. Cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa Mẹ! Nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bảo có nhiều bông sen búp lớn gần bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ có tên hai anh nữa, con kiếm cùng không có tên của mẹ, nên con xin đức phật A Di Đà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh Độ, sẽ có bông sen mọc ra dành cho mẹ, cũng như của con, của cha và hai anh em vậy.
Phật sẽ đem toà sen ấy rước mẹ về cho Liên Hoa Hoá sanh ở cung đền rất cao, muốn mặc y phục gì thời có hiện tới. Muốn ăn vật chi liền có món đó, đựng trong bát Thất bảo hiện tới, muốn nghe nhạc gì đều có vào tai, không muốn nghe tiếng nhạc liền dứt.
Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng mùi hương nào có mùi hương nấy, được xem trănm thứ hoa thơm, muốn ăn trái gì đều hiện tới khỏi hái. Muốn ước nước thì có nước Bát công đức, ngon hơi Ngự Tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề, và lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sánh hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ chim tốt lạ, có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái nhưt tiếng kệ kinh, lại mát mẽ như màu xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng lục thông thành bậc La- hán, đi dạo trên khắp thế gian
Toà sen bay lẹ như nháy mắt nên con về đây mau tợ khẩy móng tay đã tới. Ở Cực lạc khoái lạc mười phần, con thưa sơ đôi phần, kể sao cho xiết. Xin mẹ ráng tu sau khi lâm chung Phật rước về đó thì thấy đủ điều. Con không dám trể pháp, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên toà sen về nước Cực lạc. Quận chúa tạ từ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trổi lăn về hướng ấy .
Từ ấy Phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh Độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ trước. Đến ngày liễu đạo, Phu nhân ngồi dạy, mặt hướng vé phía tây niệm Phật chư đủ mười câu, đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật đến rước mình đông lắm. Liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy, cả nhàd có phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.
Đời Tống Dương kiệt ở Châu Vi, xưng hiệu vô vi tử, thi đỗ sớm làm quan. Đi điểm tội nhơn ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ pháp tham thiền, xem kinh nhiều. Ông nói với bạn rằng: Chúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công, trừ ra tu Tịnh Độ dễ hiểu, dễ tu, dù bao nhiêu kẻ dốt cũng được vãng sanh. Người có viết “ Thiên Thai Thập Nghị Luận” và “ Tịnh Độ Quyết Nghi” giảng rõ phép tu Tịnh Độ, tuổi già, ông vẽ tượng Di Đà cao 16 thước một thờ lạy. Đến lâum chung Phật định rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch
Đời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu để một hột đậu đen vô hộc lâu năm, cân lại được lăm giạ.
Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng 9 đãi trai tăng các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hơi thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng, có tiếng nhạc trên hư không lần qua hướng tây hồi lâu mới dứt.
Đời Đường, có ông Trịnh Mục Khanh và cả nhà đều niệm Phật, niên hiệu Khai Ngươn, ông bị bệnh nặng, có kẻ khuyên trở đũa ăn mặn, ông không chịu tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ, ngủi thấy mùi hương thơm nức, người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Đỉnh làm chức Thượng Thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông hoa sen.
Đời Minh Liên Hoa Thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt, đến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bỗng nhiên một cách sen một trên quan tài, xóm làng khen ngợi mới biết ông không biết chữ mà tu Tịnh Độ cũng được vãng sanh.
Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu An Sĩ( tác giả quyển Tây Quy Trực Chỉ) tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật . Ngày kia có bệnh thấy ma đến, cao lớn dị thường xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng người niệm Phật hẳn hoi cầu vãng sanh Cực Lạc, hễ niệm Phật thì thôi, nếu hở ra thấy quỷ nên Trịnh Sanh rán niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy biết cái gì mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây, tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng thiên nhạc, song lý cứ chắc đặng vãng sanh. Bởi vì ông ít niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi
Tô Kỳ Sơn tự Khởi Phụng ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiển, tìm hiểu thầy thông thái nên nghe rành Tịnh Độ không dám sát sanh. Tuổi Già tu Tịnh Độ theo bốn thời : Tý, Ngọ, Mẹo, dậu. Bốn thời tụng nhựt khóa không mỏi, mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.
Khương Hy năm Kỹ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói với cháu tên Điện Phương rằng: Ông tu Tịnh Độ đã thành công. Phật mách bảo giờ vãng sanh đã ba bửa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay trước giờ tý ông sẽ vãng sanh. Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.
Ngô Kính Sơn ở cùng xóm với Tô Kỳ Sơn. Tuổi ông đã 70 nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Điện phương nói với ông “ tuổi ông cũng đã già nên tu Tịnh Độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiền” Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm bà con Ngô Kính Sơn đến nói với. Ông nói với Tô Điện phương hay rằng: Hồi sớm mai nầy Ngô Kính Sơn thấy ông Hộ pháp hiện hình tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thời qau cho ông hay mà tạ ơn, khi trước đã khuyên ông tu Tịnh Độ. Dặn rồi ông ngồi dạy, mặt hướng qua phương tây niệm Phật đến hơi thở cuối cùng
Đời Đường thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế chí hiện trên không thấy mừng muốn hoạ chân dung hai vị Bồ- tát, liền khi ấy hai vị hiện đến rồi biến mất.
Thầy Duy Ngạn nói với đệ tử rằng: Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn ? Có một học trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ Đồng tử tưởng nó nói chơi nên không tin cười mà nói rằng “ Tự ý con theo thầy về Tây Phương thì cha mẹ cầu lắm” Đồng tử tắm gội thay áo, lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen Đồng tử rồi ngồi tịch theo.
Họ Ngô ở tỉnh chiết Giang, ông cha đều là tú tài, dưới triều Thanh Thuận trị năm đầu, binh tới vây thành, cha mẹ đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô bị bắt sống, dâng cho Trương Tướng Quân thâu làm lính hầu mới 13 tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền Giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường, mỗi đêm ông tụng cuốn kinh Kim cang và niệm Phật. Đến năm 16 tuổi Trương Tướng Quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương mà thỉnh tượng Phật đức Phật A Di Đà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Đà.
Đến năm Đinh dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương Tướng Quân rằng: “ Tôi muốn về Tây Phương” Tướng Quân mắng rằng nói láo. Bữa sau, họ Ngô dinh quan Đề Đốc xin phép nghỉ, Đề đốc giận giao cho Tướng Quân đánh đòn 15 roi mà không hờ than lại từ giả các quan dinh rằng: “ mùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây Phương”, đến ngày ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đố xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trướng Tướng Quân trong thuyền đặng về cõi Phật. Trương Tướng Quân tức giận sai lính sai lính đi theo tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi, niệm Phật rồi ngâm bài kệ, hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các Dinh đều tựu lạy Trướng Tướng Quân kính phục, từ ấy nội nhà ăn chay tu Tịnh Độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.
Ông Thẩm Thừa Thiên ở Côn Sơn tại chợ Tuyên Hóa. Làm nghề thợ mộc, trên 70 tuổi ăn trường chay niệm Phật tu Tịnh Độ, tuy không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chằng ngừng.
Đến năm Khương Hy thứ mười, tháng 3 ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa, giã từ bà con bạn hữu và nói ngày giờ mình vãng sanh.
Từ giả rồi sao không rước khách nữa. Ông nó với dâu con rằng: “ Mai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây Phương” rạng ngày gội tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu niệm lớn dần dần nhỏ cho đền mòn hơi thở.
Đời Đường vợ của ông Ôn Tịnh Văn ở Tỉnh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời, nằm cà năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc, thưa với chồng rằng: “ thiếp thấy Phật mách bảo tháng sau sẽ vãng sanh” và dặn cha mẹ chồng rán niệm Phật, sau chắc vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.
Đời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Đường ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Đà, sau có bệnh rước thầy giảng kinh, giảng chưa rồi bà ngồi chắp tay hết thở.
Có người Thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Đêm nọ Cung Thị về báo mộng, mách bảo rằng: “ Ta đã về Cực lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanh” đến ngày ấy, bà Thiếp Đương mạnh mà chết ngồi
Dời Tống có bà Trương Thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh đui cặp mắt, gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo. Ba năm sau, mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ- tát đem Phướng và Bửu cái đến rước, liền ngồi mà mã phần.
Trào Thanh có bà Hạ Thi, ờ huyện Ty Lăng là vợ của ông Phan Hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh Độ, tụng kinh Kim Cang, hôm mai tụng Nhật khóa niệm Phật y phép.
Khương Hy năm canh thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho con cháu hay, đến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm Phật đến mãn phần .
NHỮNG KẺ DỮ CŨNG ĐƯỢC VÃNG SANH
Đời Đường Trương Thiện Hoà làm hàng bò trâu bò, lúc lâm chung thấy trâu bò đến cả bầy nói tiếng người đòi thường mạng, ông sợ hối vợ rước sãi đến tụng kinh sám hối. Sãi nói: “ kinh Thập Lục Quán có nói : “ Lâm chung thấy quỹ dữ, nếu lòng thành niệm Phật cũng đặng vãng sanh” Trương Thiện Hoà nói : “ ma quỷ tới nhiều lắm đợi lấy lư hương chắc không kịp” tay mặt cầm đèn, tay trái thắp hương, xây mặt về hướng Tây rồi niệm Phật, chưa đủ mười câu vùng nói lớn “ Phật đến rước ta rồi” nói rồi ông tắt thở, chết ngồi
Đời Đường, Trương Chung Quỳ hay làm thịt gà ăn và bán. Ngày kia bệnh nặng, thấy người mặc áo đỏ làu bầy gà đến mổ thịt mắt ông chảy máu, mang bịnh rên la. Người nhà liền cho rước sãi đến tụng kinh Di đà, sãi bảo y niệm Phật mãi. Tới chừng nghe mùi thơm một cách lạ, Trương Chung Quỳ hết la nhức và chết một cách êm nhẹ.
Chung Quỳ và Thiện Hoà đang bị oan hồn theo đòi nợ, nhờ chí thành niệm Phật. Đức Di đà cảm động cho các oan hồn trâu bò kia đầu thai hưởng phước, chúng nó mới buông tha.
Hai sự tích này, các ông già bà cả có sát sanh trâu bò, gà vịt thì đừng lo sợ tu không kịp. Quý vị còn trẻ sợ không tin, chớ tin theo phương pháp đây thì tu chắc chắn có hiệu quả.
Hai người làm hàng thởu nay không biết sợ tội chút nào, đến lâm chung thấy oan hồn địa ngục trước mãi hãi kinh, may mà có phước gặp sãi giải rành niệm Phật trối chết, giây phú địa ngục hoá ra bông sen. Bởi đức Phật Di đà có nguyện: “ Ai lâm chung niệm Phật mười câu, ngài sẽ rước về Tây Phương” huống chi quý vị gặp kinh này hãy mau ăn năn lập nguyện, tụng niệm nhiều ngày lo chi Phật không rước
Sãi Huýnh Kha đã xuất gia mà còn ăn mặn, nghĩ rằng mình làm sãi mà như vậy, lúc lâm chung đoạ địa ngục thì ? ông liền cậy các sãi đem chuyện vãng sanh đọc cho mà nghe. Ông ngồi xây mặt về hướng Tây, nghe đọc hết các sự tích rồi đứng dậy một lạy và niệm Phật. Khi đọc hết Huýnh Kha liền niệm Phật suốt ba ngày đêm bỏ cơm, ngủ gục, chiêm bao thấy Phật bảo rằng : “ Số ngươi còn sống 10 năm nữa ráng mà tu” Vía ông lạy Phật bạch rằng: Cõi thế gian độc ác con tu sao nỗi mười năm, xin Phật rước con về Cực lạc rồi tu và hầu hạ các Bồ – tát” Phật nói : Ngươi tình nguyện như vậy, thời niệm Phât ba ngày nữa ta sẽ qua rước hồn” Huýnh Kha nhịn ăn luôn niệm Phật cho đủ ba ngày đêm và cậy sãi tụng kinh Di Đà đưa mình một lát và nói lớn rằng : “ Phật và Bồ – tát đã đến rước ta” Nói rồi quỳ lạy Phật xong xây mặt về hướng Tây niệm Phật mà chết.
Đời Tống, có Trọng Minh ở huyện Sơn Âm chùa Báo Ân không giữ ngũ giới, lúc bịnh nói với Đạo Ninh là bạn tu rằng: “ Nay ta loạn tâm thuốc chi trị được, Đạo Ninh nói : Cứ niệm Phật mãi, Trọng Minh y lời niệm Phật ròng bảy ngày hơi đã đuối quá. Đạo Ninh bảo hãy tưởng tượng đức Phật Di Đà trong tâm. Trọng Minh y lời tưởng tượng mãi, thấy hai vị Bồ-tát và Phật Di Đà rồi nhắm mắt mà chết ngồi.
Người dữ cầu vãng sanh niệm Phật phải bằng trăm người hiền. Nếu lo ra xao lãng, tưởng việc khác Phật không rước ắt sa đoạ địa ngục. Nhút là những vị trường chay, những vị tu lâu năm thường niệm Phật, tụng nhứt thừa thì công quả càng lớn lo chi không đượcvề cực lạc liên hoa hoá thân, ngồi trên toà sen.
SỰ TÍCH VÃNG SANH Ở NƯỚC VIỆT NAM
Ông Trần Phong sắc ở tại chợ Vũng Gù (bây giờ gọi là Long An) trường chay lúc mười tuổi và thờ Tam giáo, Nho, Thích, Đạo. Vào khoảng năm 1920 ông làm giáo học, dạy chữ Nho tại trường Tỉnh Long An. Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn Tịnh Độ, lúc đó ông trên 50 tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông viết Lão Nhơn Đắc Ngộ và dịch quyển tây Qui Trực Chỉ của ông Châu an Sĩ. Cơn lâm chung, ông biết trước ngày giờ về Tây Phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên người đời tu Tịnh Độ.
Vào khoảng năm 1958, một cô giá ở chợ Lớn, 19 tuổi quy y với Hoà Thượng Thích Khánh Anh, sau này Hoà thượng làm chủ Pháp hội Phật Giáo Tăng Già Việt Nam. Cô giáo được đặt pháp danh là Diệu Tâm, cô ăn chay trường, nuôi mẹ goá, sớm chiều công phu niệm Phật. Ngày 14 và ngày 30 cô thường đến chùa lạy sám hối. Đến năm 21 tuổi bị bệnh, cô nhờ mẹ rước thầy của cô đến tụnh niệm. Đến giờ lâm chung cô bảo đỡ ngồi dậy vì Quan Âm Bồ- tát đến rước, lúc ấy hào quang sáng rực trên nóc nhà. Lối xóm tưởng nhà cô giáo cháy, chạy tới chữa lửa.
Ông hủ Thìn làm nghề trồng rẫy ở An Hội, quận Gò vấp tỉnh Gia Định. Năm 1927, ông bắt đầu tu theo pháp môn Tịnh Độ. Đến năm 1930, ông biết trước ngày giờ quy tây nên làm sẵn một cái bia nghi ngày tháng như vầy : ngày 14 rạng mặt rằm tháng 2 năm 1930 ông ra nghĩa d8ịa chôn sẳn một cái lu, đến ngày lâm chung ông tụng kinh niệm Phật trước bàn Phật, rồi đến nghĩa địa xuống lu ngồi niẹm Phật lớn vài tiếng rồi tắt thở
Năm 1980, có một ông thầy thuốc ở tỉnh Gia Định. Ông thường hay làm Phước nhất là bố thí thuốc, đi đâu ông cũng mang môt cái túi dùng để lượm miểng chai và một cái chày để đóng những cây lồi trên mặt đất cản trở lối đi. Năm sau cùng, ông tu theo pháp môn Tịnh độ. Ông biết ngày giờ chết trước ba tháng, ba ngày trước ki chết ông ngồi xếp bằng và niệm phật trước bàn thờ. Mỗi ngày chỉ ăn vài chén cháo trắng, đến 12 giờ ngày cuối cùng ông tắt thở chết
LOÀI VẬT BIẾT NÓI TIẾNG NGƯỜI ĐẶNG VÃNG SANH
Đời Đường niên hiệu Trịnh Ngươn tại quan hà Đông có nàng Bùi Thị nuôi một con Két lớn, ( tàu kêu Anh Võ) bởi biết nói như sao sáo, bắt chước niệm Phật, quá giờ ngọ thường chẳng an, rốt lại niệm phật mười hơi mới chết. Chủ đốt xác thử coi thấy được mười hột Xá Lợi sáng ngời như hột châu sáng mắt. Sãi Huệ Quang thấy vậy, xây tháp nhỏ đựng hột Xá Lợi gọi là tháp anh Võ. Có dựng bia khắc chữ sự tích của nó.
Đời Đường núi Huỳng Nham, chùa Chánh Đẳng, ông họ quan có nuôi một con sao sáo, niệm Phật không ngừng. Ngày kia con sao sáo chết đứng trong lòng chủ đào chôn nó, không bao lâu mọc lên nhánh sen đỏ sậm. Moi thử coi, gốc nhánh sen trong miệng nó chắc là cái lưỡi hoá sen
Huyện Đàm châu có người một con Cưỡng, nó thường niệm Phật. Khi nó chết, chủ lấy một hộp mỏng đựng mà chôn. Sau cùng mọc lên một nhánh bông sen thường, moi thử lên chính cái lưỡi nó ( thiệt thổ liên hoa ). Liên trì đại sư nói: Người ta bây giờ hay dạy con keo ( Anh ca ) Với sáo niệm Phật chơi, nó cũng niệm ít tiếng như nhái chứ không niệm thường, nên chẳng thấy con nào vãng sanh nữa ôi ! Ví như người tin mà niệm Phật hết lòng, còn kẻ niệm cầm chừng lấy có, nên cũng thời niệm Phật có người chẳng đặng vãng sanh so với Keo, Sáo, Cưỡng kia cũng thế.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.14.6.2014.
No comments:
Post a Comment