Thích
Như Điển
Vào cuối năm 2009 vừa qua tại sân
vận động thể thao của thành phố Hamburg, Đức Quốc, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã
giảng pháp cho trên 25.000 người Âu Châu nghe bằng tiếng Anh và tiếng Tây Tạng,
đã được dịch trực tiếp ra 8 ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt. Vào ngày thứ 3 trong 4
ngày giảng, Ngài có cuộc tọa đàm với 3 thế hệ. Có ba người ở ba thế hệ khác nhau
được mời lên khán đài để đàm thoại với Ngài.
Xoay qua người ở thế hệ tuổi 60,
Ngài cảm ơn và hướng về thính chúng Ngài bảo rằng: “Chúng ta ở thế hệ 60, 70
phải cảm ơn thế hệ này đã cưu mang chúng ta, để chúng ta có được cuộc sống an ổn
sống trên hành tinh nầy trong suốt mấy chục năm qua; nhưng đồng thời thế hệ
chúng ta cũng đã tạo ra quá nhiều khó khăn cho thế giới. Ví dụ như về kinh tế,
chính trị, chiến tranh, v.v… Chúng ta mong rằng: khi nào trong tâm khảm của
chúng ta lòng từ bi ngự trị trọn vẹn thì hận thù và khổ đau sẽ không còn tồn tại
nữa…”
Kế tiếp Ngài nói chuyện với người
thanh niên ở thế hệ 40 tuổi. Ngài nói: “Thế giới ngày nay phải cảm ơn các bạn.
Vì nhờ những phát minh vĩ đại của các khoa học gia mà thế giới đã tiến bộ vượt
bực trên lĩnh vực khoa học trên toàn cầu. Nhờ đó mà mọi thông tin liên lạc với
nhau càng nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng: sự phát triển đó có cái gì
không ổn. Vì lẽ con người ngày nay chỉ hiểu bề ngoài của người khác nhanh và dể
hơn là tự hiểu bởi chính mình…
Người sau cùng là một cô thiếu nữ
trẻ, tuổi độ 20. Ngài xoay qua người nầy, khẻ gật đầu và nói: “Chúng tôi, những
thế hệ đi trước phải khâm phục các bạn. Vì lẽ các bạn sinh ra trong thời nầy,
thiếu thốn mọi bề. Từ dầu hỏa đến cây rừng. Từ môi trường đến khí hậu v.v… cái
gì cũng bị nhiễm ô và tồi tệ. Chúng tôi đã đặt lên vai của các bạn quá nhiều sự
hy vọng và trách nhiệm; nhưng lỗi ấy thật ra do chúng tôi, những người ở thế hệ
đi trước đã gây nên. Chúng tôi xin lỗi các bạn.
Những tràng pháo tay liên tục
được vỗ không ngớt để tán dương những tư tưởng đột phá của Ngài. Rồi một lần
khác tại Hamburg, tại giảng đường đại học ở đây, Ngài đã tọa đàm với bà Tổng
Giám Mục Tin Lành miền Bắc nước Đức với chủ đề về: “Tình Thương Của Tôn Giáo.”
Ngài đã nói rằng:
“Hôm nay cá nhân tôi sống dưới
ánh sáng từ bi của Đạo Phật và tôi đã mang tình thương yêu ấy đến với mọi
người, không phải do tôn giáo của tôi mang lại, mà việc nầy khởi đầu bằng tình
thương của người mẹ không biết chữ của tôi…” Cử tọa thật nghẹn ngào và có nhiều
người đã rơi nước mắt.
Thánh Gandhi, cha già của dân tộc
Ấn Độ có lần đã nói: “Nếu thế giới nầy, mọi người trong chúng ta mỗi ngày cố
gắng ngồi yên thiền tọa trong 15 phút thì thế giới sẽ không có chiến
tranh.”
Nếu thế giới và con người thể
hiện được lòng từ như những vị Thánh bên trên thì làm sao chiến tranh có cơ hội
để bộc phát? Chỉ vì con người với tâm dục vọng ưa chiến thắng người khác; nên
mới ra nông nổi nầy. Đức Phật đã từng dạy rằng: “Chiến thắng muôn quân không
bằng tự thắng mình. Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất” hay
sao?
Thiên tai từ đâu đến? Nếu định
nghĩa cho gọn là những việc thuộc về tai trời, ách nước. Xa thì ta gán cho trời
và gần thì ta gán cho đất và nước; nhưng trên thực tế là do con người gây nên
cả. Chúng ta đã phá hoại môi sinh qua việc đốn rừng, chặt cây, ngăn sông, ngăn
đập, chăn nuôi, thuốc trừ sâu bọ .v.v… tất cả những thứ nầy đã giúp chúng ta mau
thành trưởng kinh tế; nhưng đạo đức lại suy đồi. Vì các nhà kinh doanh mục đích
chính của họ là lợi nhuận cũng như làm sao cốt cho có nhiều tiền. Ngoài ra, họ
ít lưu tâm về môi trường. Mỗi người trong chúng ta ăn thịt nhiều, chặt phá cây
rừng vô tội vạ v.v… là những người trực tiếp phá hoại môi sinh. Còn những người
ăn chay, bảo vệ thực vật là những người trực tiếp bảo vệ môi sinh.
Khắp nơi trên nước Mỹ, Á Châu, Âu
Châu… đâu đâu cũng bị gió lốc, mưa bão trái mùa. Tuyết rơi không còn vào mùa
đông mà đôi khi đã sang xuân từ lâu rồi vẫn có nhiều nơi trên thế giới đầy tuyết
phủ. Đây chính là do thiên tai mang lại; nhưng con người vẫn là yếu tố chính.
Chúng ta nên tự xử lý với mình trong nhiều trường hợp khác nhau, để quả đất nầy
quân bình giữa khí oxy và oxít carbonic thì chúng ta mới còn có cơ hội sống lâu
dài trên quả địa cầu nầy. Nếu ngược lại, tuổi thọ của con người càng ngày càng
giảm đi.
Động đất do đâu mà có? Đức Phật
đã từng dạy rằng: “Ba cõi không yên như ở trong nhà lửa.” Thật thế, nếu xét về
sự cấu tạo của quả địa cầu nầy thì trong lòng trái đất là nước và lửa. Nếu lòng
trái đất trống rỗng khi bị rút hết tất cả những nhiên liệu đi khỏi như dầu hỏa,
mỏ vàng, bạc, chì, kẽm v.v… thì lửa ở dưới có cơ hội phun lên và đất bên trên
sụp đổ xuống, tạo ra những cơn địa chấn dữ dội trên quả địa cầu nầy.
Đất, nước, gió, lửa là 4 nguyên
tố chính để tạo nên thân nầy và vũ trụ vạn hữu nầy. Nếu một trong những nguyên
tố ấy di chuyển, thay đổi, thiếu hụt hay dư thừa v.v… cũng dễ khiến cho quả đất
nầy rung chuyển qua nhiều nhịp điệu khác nhau.
Có nhiều loài động vật như cá, ba
ba, rùa, rắn v.v… có những cảm quan đặc biệt. Chúng biết bao giờ động đất xảy
ra. Trong khi đó con người có cả những máy móc tối tân để phòng ngừa địa chấn;
nhưng cuối cùng rồi con người vẫn bị đất đai đè bẹp, để thân nầy phải gởi vào
lòng đất lạnh.
Sóng thần tiếng Nhật gọi là
Tsunami. Nếu viết bằng chữ Hán thì gọi là Tân Ba. Tân là bãi biển. Nơi bãi biển
chắc chắn có chứa rất nhiều cát. Còn ba là những đợt sóng; lớp nầy chồng lên lớp
khác, đến rồi đi có lúc cao có lúc thấp. Cho nên gọi là Tsunami. Trong lịch sử
cận đại, chúng ta đã chứng kiến những cơn sóng thần tại Thái Lan, Indonesia, Sri
Lanka và mới đây tại Nhật Bản. Rồi mai đây sẽ còn nhiều hơn như thế nữa, nếu con
người chúng ta không để ý đến thiên nhiên và môi trường.
Qua những trận thư hùng như thế
lịch sử của thế giới, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì?
Đầu tiên chúng ta hãy xem hình
ảnh của những ngôi chùa và tượng Ngài Địa Tạng tại Fukushima vẫn còn đứng nguyên
vẹn giữa bao la trời biển. Xem ra như bất động với thời gian năm tháng và hình
như không bị chi phối bởi cảnh tượng sóng thần đã xảy ra vào tháng 3 năm 2011
tại Sendai vừa qua. Đó chính là do sự cầu nguyện. Nơi nào có cầu nguyện, có lễ
bái, có nhiệt tâm… thì nơi ấy sẽ trở thành thánh thiện và tai ương sẽ chừa ra.
Nơi nào thiếu sự hành trì, gia công tu tập,… thì nơi ấy sẽ bị chi phối bởi những
trận thư hùng kinh hoàng động địa ấy.
Tsunami tại Sendai ngoài việc tìm
vớt những tử thi ra, người ta còn phát hiện được nhiều người còn sống; trong đó
có một con chó và một cụ già 80 tuổi. Chắc chắn là con chó nầy có tu nên mới
được như vậy. Cụ già nầy là người có phước, nên 80 tuổi vẫn không bị bão tố,
nước non vùi dập liên hồi. Đây chính là cái phước hữu lậu của cụ cũng tương ưng
với những gì Đức Phật đã dạy trong “Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế
giới.”
Khi nào con người còn tôn trọng
ngôi Tam Bảo, kính trọng và hiếu thuận với cha mẹ, hòa hảo với anh chị em và có
lòng thương muôn vật thì tuổi thọ của quả đất sẽ dài lâu hơn. Nếu con người làm
ngược lại những điều trên, trong tương lai gần chúng ta sẽ tự đón nhận những hậu
quả to lớn không lường xảy ra trên khắp quả địa cầu nầy.
Qua “đại tam tai” con người chỉ
còn lại một thiểu số. Trong số ít người ấy có một số người biết tu, thọ Tam Quy,
trì Ngũ Giới, Thập Thiện v.v… Thế giới nầy sẽ được thành lập trở lại. Cuối cùng
rồi cái thiện vẫn là cái chiến thắng, không phải cái ác. Dầu cho cái ác đã được
Đức Phật A Di Đà dũ lòng từ bi tiếp độ cho về biên địa của Cực Lạc; nhưng nếu
người có tâm niệm tự lực vẫn ỷ vào thế mình, không nương vào từ lực của Chư Phật
thì trăm ngàn năm vẫn còn nằm trong thai tạng ở biên địa của Tịnh Độ kia và khó
trở thành hay gặp gỡ những thánh chúng tại đó.
Ai trong chúng ta cũng điều biết
rằng: “Après la pluie, il fait beau”, nghĩa là “sau cơn mưa trời lại sáng";
nhưng cũng có nghĩa cơn mưa ấy sẽ kéo dài vô tận. Ngày mai ấy không có nghĩa là
ngày mai gần kề, ngày mai gấp gẫy, mà là ngày mai của một khoảng thời gian dài.
Chúng ta những người Phật tử mong rằng ngày mai ấy đến mau hơn để nhân loại sớm
vơi đi nỗi khổ đau và tục lụy.
Có nhiều người vẫn vô tâm chẳng
chịu tu nhân và làm phước trong lúc nầy, vì nghĩ rằng việc khổ đau kia, nó sẽ
đến với người khác, chứ chưa đến phiên mình; nhưng trong truyện Kiều, cụ Nguyễn
Du đã diễn tả thân phận của nàng Kiều là: “Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.”
Vậy trong lúc nầy chúng ta đâu có ngại ngần gì để làm phước cứu người và giúp
đời nữa. Trong quyển “Chết an lạc, tái sanh hoan hỷ”, Đại sư Tulku Thondrop định
nghĩa về việc tu tạo phước đức như sau:
“Có người mang đến chùa cúng Phật
một nén nhang, một giọt dầu, một cành hoa hay ngay cả đem tiền của cúng vào Tu
Viện; hoặc là trường học, xây đường sá, cầu cống; làm từ thiện, in kinh ấn tống,
giúp người cơ nhỡ v.v… tất cả những việc nầy cũng giống như những giọt nước nhỏ
li ti rơi từ không gian xuống mặt đất, rồi từ mặt đất sẽ chảy thành dòng, kéo ra
ao, hồ, rồi sông ngòi, suối lạch. Từ những con sông lớn sẽ dẫn nước kia chảy ra
biển cả đại dương mênh mông ấy. Khi nào trong biển cả không còn chứa nước nữa,
thì giọt nước ban đầu mới không còn có giá trị.” Như vậy, công đức là những gì
được tích chứa qua thời gian và năm tháng; không tính đếm, không so lường. Chỉ
khi nào công đã thành, quả đã mãn rồi, lúc ấy mới không cần đến phước đức
nữa.
Hầu như tất cả ai trong chúng ta
cũng đều biết trước và biết nhiều về những khổ đau, tục lụy của một kiếp nhân
sinh phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh như thế; nhưng làm cách nào để vơi đi sự
khổ thì chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái tự kỷ, chấp thủ của mỗi người.
Trong khi tất cả ai trong chúng ta cũng không muốn đau khổ. Ngược lại chúng ta
vẫn có những hành động và lời nói làm cho người khác đau khổ. Không phải là
chúng ta vô lý, vì chúng ta chỉ chứng minh cho cái tự ngã của mình là đúng. Cho
nên chúng ta mới thể hiện tư cách con người của mình như thế; nhưng làm cách nào
để vơi đi sự khổ thì chúng ta vẫn chưa thoát ra cái tự kỷ chấp thủ của mỗi
người.
Người giàu và kẻ nghèo trên thế
giới ngày nay chênh lệch quá nhiều. Người có của nên san sẻ cho những người bất
hạnh. Có như thế thì đời sống mới quân bình. Ngược lại người giàu cứ giàu, còn
người nghèo vẫn luôn đi vào chỗ túng quẩn. Vì lẽ ấy nên chẳng có lối ra. Mặc dù
các chính phủ và những cơ quan xã hội của nhiều nước trên thế giới đã tìm cách
san sẻ cho công bằng qua thuế má của lợi tức; nhưng đây chỉ là phần nổi của vấn
đề. Còn căn bản là lòng từ, con người vẫn chưa thể hiện trọn vẹn.
Vật chất, nó chỉ là những vật vô
tri. Bây giờ ta không từ bỏ chúng, đến một ngày nào đó nó sẽ từ bỏ chúng ta. Đây
cũng là một sự quân bình của thiên nhiên và vật chất. Vật chất thay đổi vị trí
và chủ nhân; con người thì thay đổi tâm thức. Sau khi chết có thể đi từ chỗ cao
đến chỗ thấp; hoặc ngược lại. Vì vậy mà ông bà mình thường hay nói rằng: “Đâu có
ai giàu ba họ và đâu có ai khó ba đời” là vậy.
Tâm thức luôn luôn tồn tại qua
nhiều không gian và thời gian cũng như hoàn cảnh khác nhau. Sau trận động đất và
sóng thần tại Nhật vào tháng 3 năm 2011 vừa rồi, đài truyền hình CNN của Hoa Kỳ
và một đoạn video trên Youtube chiếu lại hình ảnh kinh hoàng của nước đã dâng
cao chỉ trong vòng 2 phút mà tất cả đường sá, lâu đài, ghe thuyền, nhà cửa, con
người v.v… đã biến thành đất và nước… rồi bị kéo xuống, nhận chìm nơi biển cả
mênh mông vô tận ấy. Nhưng còn tồn đọng lại 2 vệt sáng trên bầu trời. Đó là một
vệt đen thật lớn bay trên không trung rồi dần dần tan vào biển cả và một vệt
trắng không nhỏ, từ ngoài biển khơi hòa tan vào dòng nước và con người khi giờ
phút thập tử nhất sinh đã cận kề. Đó chính là tâm thức của những con người sa
đọa, chìm đắm và giải thoát sự khổ đau.
Nếu con người làm ác thì tâm thức
tự động đi đầu thai chấp nhận nghiệp quả báo đền, phải nương theo màu đen ấy để
đi. Nếu làm lành, những tâm thức tự động nương theo vật trắng để thác sanh về
những thế giới an lành hơn. Còn những loại phải qua phán quan xét xử để được đi
đầu thai là do lành dữ chưa rõ ràng; nên phải cần có nghiệp cảnh đài tiền soi
rọi. Lúc ấy phán quan sẽ dựa vào những việc lành dữ đã làm nơi dân gian để cho
đi đầu thai. Nếu lúc ấy, thân nhân ở cõi thế nầy biết làm lành lánh dữ, như
phóng sanh, in hình ấn tống làm những việc phước thiện v.v… thì việc lành sẽ
trội hơn và người chết có thể sanh về thế giới an lành hơn.
Còn những kẻ phát nguyện sanh về
Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà, nếu chưa được lên những phẩm cao, mà còn phải ở
nơi hạ phẩm thì phải cần hai điều sau. Đó là chính người mất phải tàm quý, xấu
hổ về những tội lỗi xa xưa mình đã gây ra và phải cần những thiện hữu trí thức
trợ niệm thì người ấy mới có khả năng sanh về nơi thai tạng của liên hoa và nằm
chờ 12 tiểu kiếp ở Hạ phẩm Hạ sanh, sau đó đầy đủ phước đức, mới tiếp tục sanh
về những cảnh giới cao hơn nữa để gặp chư Phật cũng như các vị Bồ
Tát.
Muốn bảo vệ môi sinh trên hành
tinh nầy, ngây từ bây giờ chúng ta phải thể hiện lòng từ lên muôn vật, kể cả cây
cỏ và các động vật. Có như thế tuổi thọ của chúng ta mới được dài lâu hơn. Ngược
lại, chúng ta khó tồn tại lâu dài trong giai đoạn lịch sử sắp đến. Vì chiến
tranh, thiên tai, động đất và sóng thần chỉ chừa lại những người biết tu hành và
biết làm lành lánh dữ. Còn những người độc ác, thiếu tình thương đối với nhân
loại sẽ không có chỗ đứng tốt trên quả địa cầu nầy.
Không phải là nhà bói toán; nhưng
chúng ta biết chắc rằng: thế gian sẽ còn nhiều tai ương hơn nữa; nếu chúng ta
chẳng dừng lại những nghiệp bất thiện ngay từ bây giờ trên quả địa cầu
nầy.
Quả đất đã nứt nhiều đường. Từ
Haiti qua Chí Lợi, đến Alaska, rồi Nhật Bản qua Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Tân
Tây Lan v.v… đâu đâu cũng bất an, đâu đâu cũng chỉ là khổ đau và bất hạnh. Dĩ
nhiên là sẽ còn nhiều hơn thế nữa; nếu chúng ta chẳng dừng sân hận, độc ác ngay
từ bây giờ.
Thời kỳ đói kém, bệnh dịch và
chiến tranh đã qua và sẽ lặp lại nữa vì Bắc Phi Châu đang chiến tranh ầm ỉ chỉ
vì những sự độc tài, bất công, áp bức. Vùng Á Châu đang thử lửa và đang chịu
đựng với những khổ đau ngấm ngầm. Âu Châu với giàu nghèo không tương xứng. Mỹ
Châu với thiên tai, gió lốc, núi tuyết, nợ nần v.v… tất cả và tất cả chỉ là kết
quả của những thế kỷ dài trước đây chúng ta đã ra công xây dựng và tự đập vở nó
qua nhiều quả bom nguyên tử ở Hiroshima, Nagasaki và khắp nơi các nhà máy hạt
nhân trên quả địa cầu nầy.
Cái bình nứt, chúng ta có thể
chắp vá nối liền lại. Tuy vết rạn vẫn còn thấy đó, nhưng nếu tâm con người bị
rạn nứt thì lấy gì để rang lại đây? Mặc dầu pháp Phật, chúng ta đã hiểu, lòng từ
chúng ta đã thể hiện; nhưng có lẽ chưa đủ sức mạnh như lượng pénicélinen để đối
trị với những căn bịnh ngặt nghèo nầy chăng? Mỗi người trong chúng ta hãy tự trả
lời câu hỏi nầy cho chính mình thì kết quả có lẽ sẽ khả quan hơn
nhiều.
Người tu sĩ mang tâm vị tha về
việc hoằng pháp độ sanh để giúp người qua cơn khổ. Đây cũng là tấm lòng từ bi
của những người xuất gia sống không có gia đình riêng, mà lấy đơn vị con người
và nhân loại để giải đáp về đáp số tình yêu thương ấy. Đây là sự dụng công miên
mật của chư Tăng Ni trong mỗi mùa an cư kiết hạ.
Năm nay 2011, Đạo tràng An Cư
Kiết Đông của GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi Tân Tây Lan sẽ tổ chức vào tháng
7 tại Tu Viện Quảng Đức thuộc thành phố Melbourne, cá nhân tôi xin đóng góp một
vài tư duy qua cái nhìn hiện thực đối với thế giới ngày nay. Biết đâu cũng sẽ
giúp được một số người ý thức được vấn đề nầy để tự giúp mình giải cứu ra khỏi
cảnh giới khổ đau tục lụy đang diễn ra khắp nơi trên quả địa cầu nầy.
Mong được như vậy.
Viết xong vào ngày 29 tháng 4 năm
2011 tại Chùa Trúc Lâm, Chicago Hoa Kỳ, để riêng tặng cho những ai có nhân duyên
đọc đến bài viết nầy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).29/4/2012.
No comments:
Post a Comment