Chương 03
CHƠN TÁNH TỐI THƯỢNG
THOÁNG THẤY TÁNH QUANG
MINH
Nó là căn bản của tâm, trí tuệ an lạc tối thượng và sự quang minh của tâm
Chúng ta phải sửa soạn để nhận ra nó vào lúc chết, ngay cả khi không giữ được nó, chỉ riêng ký ức về quang minh, cũng làm giảm được nhiều đau khổ và vô minh.
Sau khi chúng ta ngừng thở, chơn
tánh của tâm xuất hiện và chúng ta sẽ trải qua giai đoạn chơn tánh. Giai đoạn
này gồm một số cơ hội quan trọng để đạt đến giải thoát, nhưng để nhận biết những
cơ hội này, chúng ta cần phải thành tựu pháp tu Mật tông cao cấp như pháp Dzogpa
Chenpo (Dzogchen) của Phật Giáo Tây Tạng. Như vậy những kinh nghiệm được mô tả
trong chương này có thể chỉ dành cho những hành giả đã thành tựu cao. Trái lại,
những người bình thường rơi vào hôn mê qua một phần của giai đoạn chơn tánh và
rồi thức dậy với những ý niệm và cảm xúc thô kệch. Nếu người đọc cảm thấy chương
này quá phức tạp, có thể an toàn chuyển sang chương 4.
CHƠN TÁNH CHỨNG NGHIỆM LÚC
CHẾT
Đối với những hành giả đã thành
tựu, giai đoạn chơn tánh tối thượng bắt đầu khi tánh quang minh căn bản, chơn
tánh của tâm xuất hiện. Giai đoạn chơn tánh kết thúc với sự tan biến của linh
thị hiện diện tự nhiên. Theo lời giải thích của Đại Sư Tsele rằng trong một số
truyền thống, tính chất quang minh của chơn tánh được xem là một phần của tiến
trình hấp hối. Nhưng trong pháp tu Dzogchen, quang minh được xem là một lộ trình
riêng. Trong cuốn sách này tôi sẽ trình bày theo truyền thống
Dzogchen.
Theo Mật Tông, mọi chúng sanh
đều có Phật-tánh hay chơn tánh giác ngộ. Do vậy, khi tất cả những ý niệm và cảm
xúc tan nhập vào sự thanh tịnh nguyên thủy vào lúc chết, thì quang minh của trí
tuệ nguyên thủy chiếu tỏa ra đối với mỗi sanh linh. Dù là tâm của côn trùng nhỏ
nhất cũng sẽ trải qua kinh nghiệm này, ít nhất trong một phần giây, chơn tánh
của mình, tánh quang minh, và sự hiện diện tự nhiên của chính nó, linh thị về
tính chất quang minh.
Nếu chúng ta là những hành giả
có nhận thức cao về bản chất tối thượng của tâm, và nếu sắp đạt đến giác ngộ,
chúng ta có thể nhận ra và duy trì bản tánh tối thượng và cái thấy của nó như nó
là, vào bất kỳ giai đoạn nào của thời gian này. Thí dụ khi chơn tánh xuất hiện,
nếu chúng ta có thể nhận biết nó và hoàn thiện hay duy trì nhận biết này, chúng
ta sẽ giải thoát và đạt giác ngộ ngay sau đó. Sự xuất hiện của linh thị về tánh
quang minh tiếp theo sau đó cũng giống như vậy – như ánh sáng, âm thanh, thân
tướng của các thần hiền minh hay phẫn nộ, và những cõi hạnh phúc hay đau khổ.
Nếu có thể thấy chúng như những linh thị tự xuất hiện, đã xuất hiện một cách tự
nhiên từ tánh quang minh, và nếu chúng ta có thể duy trì sự chứng nghiệm đó,
chúng ta sẽ đạt giác ngộ. Vào bất kỳ giai đoạn nào, nhận ra sự thật và duy trì
sự chứng nghiệm đó, chúng ta cũng đều đạt giác ngộ, và như vậy sẽ không cần đi
xa hơn trong cõi trung ấm bardo.
Dù việc đạt đến giác ngộ trong
giai đoạn chứng ngộ chơn tánh đòi hỏi trình độ tu tập Mật giáo phải cao, nhưng
một sự quen thuộc đơn sơ nhất với bản chất của tâm cũng có thể giúp chúng ta
trong giai đoạn này. Chúng ta có thể thoáng chứng ngộ chơn tánh. Dù sự kiện này
không chuyển thành giải thoát, nhưng sức mạnh của sự thoáng thấy chơn tánh và
những linh thị của mình sẽ làm giảm nhiều sự lo sợ và đau đớn của chúng ta khi
chúng ta đi qua cõi trung ấm. Nó sẽ mang lại sự an lạc, tạo công đức, và đưa
chúng ta đến một kiếp sau tốt đẹp hơn.
Nhưng nếu có rất ít hay không có
kinh nghiệm thiền quán, chúng ta có thể không ghi nhận được gì cả thì khi chơn
tánh xuất hiện, vì có thể nó quá xa lạ, ngắn ngủi hoặc vô hình đối với chúng ta.
Hay khi nhận ra nó, chúng ta có thể kinh nghiệm nó nhưng chỉ trong khoảnh khắc
ngắn nhất. Như vậy, chơn tánh thoáng xuất hiện mà chúng ta không nhận ra, vì
phần lớn chúng ta rơi vào vô thức. Khi tỉnh lại, chúng ta bắt đầu kinh nghiệm đủ
loại linh thị, những sự xuất hiện, những âm thanh, những cảm giác – hoặc hấp dẫn
và đẹp đẽ, hoặc đáng sợ và xấu xa. Nếu không đào luyện trong thiền định, chúng
ta sẽ bám giữ vào cái thấy chủ thể và đối tượng của mình, thấy chúng như thật và
trở nên sợ hãi hay bị chúng thu hút. Nếu như vậy, chúng ta sẽ phải trải qua trọn
vẹn giai đoạn trong cõi trung ấm và sự tái sanh, đó là vận mạng của gần như tất
cả chúng ta.
Đối với những hành giả đã chứng
ngộ, Phật giáo Tây Tạng trình bày chi tiết những kinh nghiệm và cơ hội mà họ có
thể có trong giai đoạn chơn tánh. Thứ tự diễn ra và những kinh nghiệm này có
thể khác nhau tùy từng người, như những câu chuyện mà các delog mô tả. Đại Sư
Tsele nói rằng đó là vì người ta có tâm, cảm xúc, và thể chất khác nhau. Nhưng
nói chung, giai đoạn chơn tánh tối thượng có hai phần chính: (1) tánh quang
minh thanh tịnh của chơn tánh và (2) những linh thị quang minh hiện diện
tự nhiên.
Tánh quang minh thanh tịnh của
chơn tánh có bốn giai đoạn phụ:
1. Hư không hợp nhất với
quang minh. Điều này cũng được gọi là sự tan nhập của "thành tựu" (hay sự
tối) vào “quang minh”. Ở điểm này, hơi thở bên trong của chúng ta hoàn toàn
ngừng lại, tâm và thể xác đã phân ly và tánh giác của chúng ta giống như một tia
lửa bắn vào không gian. Thần thức của chúng ta đã thoát khỏi thể xác. Vào lúc
đó, chúng ta chứng nghiệm tánh quang minh của chơn tánh. Đây là quang minh của
pháp thân (dharmakaya). Nó là sự hợp nhất của trong sáng và tánh không, giống
như bầu trời trong sáng không mây của một buổi sáng đầu mùa thu. Ngài Karma
Chagme Rinpoche, một bậc đại sư của thế kỷ mười bảy nói rằng: “khi sự tối đen
biến đi, thì tánh quang minh của chơn tánh sẽ xuất hiện. Nếu có thể nhận ra tánh
sáng của chơn tánh đó, và có thể duy trì sự chứng ngộ đó, chúng ta sẽ đạt được
giác ngộ”.
Tất cả những nhận thức của chúng
về thế giới bên ngoài, những vật như đất và đá, đều tan biến. Nhưng linh thị
sáng chói bên trong về chơn tánh sẽ xuất hiện. Mọi linh thị sẽ sáng chói như ánh
sáng của năm trí tuệ nguyên thủy (trí pháp giới, trí như gương, trí bình đẳng,
trí quán sát và trí thành tựu).
2. Quang minh tan nhập vào
hợp nhất. Giai đoạn này là sự hợp nhất của tánh Không và sắc tướng. Đây là
quang minh của báo thân (sambhogakaya). Chúng ta sẽ thấy những hình dạng hiện
diện tự nhiên của các vị Thần phẫn nộ. Chúng ta sẽ nghe những tiếng gầm lớn của
những âm thanh tự nhiên giống như sấm sét. Chúng ta sẽ chứng kiến một cơn mưa vũ
khí của tia sáng và ánh sáng. Những ánh sáng của những sắc tướng sáng chói này
là năng lực tự nhiên phát sanh từ sự thanh tịnh và tánh Không của tâm chúng ta.
Những âm thanh là sự biểu lộ tự nhiên của tâm bản nhiên chúng ta. Nhưng nếu
không biết như vậy, chúng ta có thể bất tỉnh vì sợ hãi những hình dạng và những
âm thanh đó.
Thêm nữa, toàn thể vũ trụ có thể
xuất hiện như một cõi ánh sáng rực rỡ, với những hình dạng ánh sáng đẹp đẽ của
các vị thần hiền hòa trong vô số vòng tròn ánh sáng năm màu. Những chuỗi ánh
sáng với vô số tia sáng chiếu ra từ tim chúng ta và hòa nhập vào trái tim của
các vị Thần. Sau đó tất cả các vị thần hòa nhập vào chúng ta, mà sự thật, các
Ngài là những phương diện của chơn tánh giác ngộ của chính chúng ta. Chúng ta
đạt đến giải thoát bằng việc nhận ra các Ngài mà không sợ hãi hay chấp thủ họ
như những sự tự xuất hiện.
3. Hợp nhất tan nhập vào trí
tuệ. Từ tim của chúng ta phóng ra những luồng ánh sáng màu xanh, trắng,
vàng, và đỏ chồng lên nhau. Mỗi con đường giống như luồng ánh sáng này được
trang trí với một vòng ánh sáng màu sắc tương ứng và lớn cỡ một tấm gương tròn
cầm tay. Vòng ánh sáng này lại được trang trí với năm vòng ánh sáng nhỏ cỡ hạt
đậu. Đây là ánh sáng của năm trí tuệ nguyên thủy: trí pháp giới, trí như gương,
trí bình đẳng, trí quán sát và trí thành tựu. Ở bên trên, chúng ta sẽ thấy một
cái lọng được làm bằng ánh sáng ngũ sắc, hay ngũ trí, giống như một lọng bằng
lông chim công.
Ở điểm này, chúng ta có thể đạt
được ba sự giải thoát. Khi chúng ta giải thoát được sự chấp thủ thân xác như tự
ngã, chúng ta chú trọng trong chơn tánh tối thượng, và đó là sự giải thoát của
thể xác vào quang minh. Khi thoát khỏi những nguyên tố thô và tế, những nhận
thức của chúng ta đã được giải thoát thành quang minh đại lạc. Vì đã thoát khỏi
những phiền não thô và tế, chúng ta nhận ra bản lai diện mục của giải thoát bằng
việc hợp nhất với chơn tánh nội tại.
4. Trí tuệ tan nhập vào trạng
thái trí giả hiện diện tự nhiên. Ở giai đoạn này, linh thị về những trí tuệ
gồm bốn luồng ánh sáng hòa nhập vào những ánh sáng giống như cái lọng bên trên.
Rồi những hình ảnh biểu tượng sau đây xuất hiện như hình phản chiếu trong gương:
Chúng ta cảm thấy như mình đang trông thấy sự xuất hiện của pháp thân, vốn là sự
thanh tịnh nguyên thủy, giống như bầu trời không mây trong không gian bên trên.
Ở phía dưới, chúng ta thấy những cõi tịnh độ của báo thân, sự thành tựu tự nhiên
được tượng trưng bằng những hình ảnh các vị thần hiền hòa và phẫn nộ. Ở dưới
nữa, chúng ta thấy những cõi tịnh độ của hóa thân trong nhiều hình biểu hiện
khác nhau. Ở dưới cùng, chúng ta thấy sáu cõi luân hồi bất tịnh. Vì tất cả đều
xuất hiện tự nhiên và hiện diện một cách bình đẳng, và vì tất cả xuất hiện trong
tánh từ bi vốn là năng lực toàn giác, nên không có sự phân biệt giữa sinh tử và
Niết bàn. Vào lúc này, chúng ta cũng có thể chứng nghiệm nhiều loại trí tuệ
Phật, thí dụ như trí tuệ biết trước mọi việc. Sau cùng, tất cả những linh thị
thành tựu tự nhiên đó tan nhập vào chơn tánh, giống như ánh sáng của một khối
pha lê tan nhập vào chính khối pha lê đó.
Ở giai đoạn này, cần phải dùng
hai công cụ thiền then chốt. Thứ nhất, chúng ta phải nhận ra chơn tánh, tính
chất nguyên thủy của tâm, như thể gặp lại người bạn cũ. Nếu làm được như vậy,
chúng ta sẽ chứng ngộ thật tánh của mọi vật. Chúng ta sẽ vượt lên trên hai ý
niệm "có” và “không” và sẽ đắc Phật quả (Buddhahood), trạng thái giải thoát trọn
vẹn.
Trong giai đoạn thứ hai của sự
chứng ngộ chơn tánh tối thượng, những linh thị quang minh hiện diện tự nhiên,
chúng ta phải nhận ra những linh thị về những hình dạng và âm thanh khác nhau,
là những năng lượng hiện diện tự nhiên của tâm giác ngộ chính mình. Rồi những
linh thị sẽ xuất hiện như ngũ trí hiện diện tự nhiên và những đồ hình cõi Phật
(Buddha-mandala), bất khả phân với tự tâm giác ngộ. Nhưng nếu chúng ta thấy hình
ánh sáng và những âm thanh, là những vật đối tượng phân cách với tâm của mình
thì như vậy sự chấp thủ của chúng ta vào tự tánh của những cái thấy với những
khái niệm nhị nguyên sẽ làm cho những linh thị đó xuất hiện như những hiện tượng
khác nhau của những nhận thức thô kệch và những cảm xúc phiền não, cũng như của
cõi vật chất. Chúng ta có thể bất tỉnh vì sợ hoặc bị chúng thu hút. Như vậy
chúng trở thành nhiên liệu cho những kiếp luân hồi nhiều thêm nữa. Đại Sư Liên
Hoa Sanh đã khai thị:
Khi giai đoạn của chơn tánh tối thượng xuất hiện,
Hãy buông bỏ mọi hãi hùng và kinh sợ,
Mà nhận ra tất cả những sự kiện chỉ là sự tự xuất hiện của chơn tánh tối thượng.
Đại Sư Jigmed Lingpa khai thị:
Nếu con phân tích trạng thái chơn tánh
Sẽ thấy có nhiều phương diện để phân tích.
Nhưng nếu con chỉ phân tích bản thân người phân tích,
Sẽ không thấy có gì cả.
Và hãy buông bỏ cả ý niệm “không hiện hữu”.
Đây là trạng thái giải thoát trọn vẹn.
Đại Sư Longchen Rabjam khai thị:
Qua năng lực của chơn tánh
Đất, nước, lửa, và gió tan nhập vào cõi không
Rồi cõi không tan nhập vào quang minh.
Lúc đó, sáu giác quan và chơn tánh tan nhập vào cõi chơn không.
Tâm sẽ phân ly với thể xác
Chơn tánh sẽ thoát khỏi hiện tượng.
Pháp thân thanh tịnh không vọng niệm sẽ xuất hiện.
Lúc đó, nếu con có thể nhận ra những trạng thái thiền định mà con đang chứng nghiệm,
Thì sẽ được giải thoát trong một khoảnh khắc mà không bị chướng ngại
Đó là đắc pháp thân thanh tịnh.
Còn nếu con không chứng ngộ sự xuất hiện của pháp thân
Thì những linh thị quang minh và chơn tánh sẽ xuất hiện
Không gian sẽ tràn đầy âm thanh, ánh sáng, và tia sáng cũng như hình ảnh của các vị thần hiền hòa và phẫn nộ.
Nếu con có thể nhận ra chúng là những hình ảnh tự xuất hiện
Con sẽ đạt được giải thoát và giác ngộ.
Do vậy, cần phải biết mọi sắc tướng đó là tự xuất hiện từ tâm giác ngộ của con.
Do chứng ngộ bản tánh của chúng mà con sẽ đạt được Phật quả.
Đại Sư Longchen Rabjam ghi nhận:
Một hành giả đạt giải thoát ngay trong kiếp này
Phân giải nguyên tố đất vào nước, nước vào lửa, lửa vào gió, gió vào thần thức, và thần thức vào quang minh;
Rồi hợp nhất với trí tuệ và chơn không
Hành giả đạt trạng thái nguyên thủy thường trực
Vì lợi ích của chúng sanh, giống như một giấc mộng, với trí tuệ và hai thân Phật (pháp thân và hai sắc thân kia).
Hành giả sẽ xuất hiện trước chúng sanh như những hoạt động Phật sự để cứu độ họ.
Một người hỗ trợ là người giúp
chúng ta trải qua giai đoạn chơn tánh có thể nhắc chúng ta nhớ về những pháp tu
tập của mình, nếu chúng ta là những hành giả của Mật giáo. Đại Sư Chagme
Rinpoche viết:
Người hỗ trợ nên gọi ngay bên tai
và lập lại ba lần, nói:
"Quang minh chơn tánh đã xuất hiện
vậy hãy an trụ trong thiền quán.
Sự thể hiện của Chư Phật
Vị Thầy và chơn tánh của bạn đã trở thành một
Bây giờ hãy nhìn vào tâm của mình
Tánh không của nó là vị Thầy, tức pháp thân
Tánh trong sáng của nó là vị Thầy, tức báo thân
Sự xuất hiện của những thứ khác nhau là vị Thầy tức hóa thân".
Người hỗ trợ cũng có thể giải
thích những linh thị về chơn tánh, Đại Sư Chagme Rinpoche viết:
Bốn hướng, trung ương, trên, và dưới tràn đầy ánh sáng, tia sáng, và những quả cầu ánh sáng.
Bầu trời tràn đầy những vị thần hiền hòa
Tỏa hào quang, ánh sáng rực rỡ, vinh quang và huy hoàng.
Từ tim của những vị Thần những con đường của năm trí tuệ
Với những tia sáng lóe lên chạm vào tim con.
Cùng những ánh sáng này cũng có những con đường đến sáu cõi luân hồi.
Cũng bằng ánh sáng năm màu nhưng không sáng chói.
Khi con trông thấy chúng, nhưng đừng đi theo con đường của sáu cõi.
Hãy đi theo năm con đường sáng chói của năm trí tuệ.
Hãy thành kính nguyện cầu chư Phật của ngũ bộ Phật.
Sau đó, những vị Thần bảo hộ của riêng mình, các Thiên nữ (Dakini), các vị hộ pháp cũng sẽ xuất hiện
Với tám trang phục nghĩa địa và chín hình dạng
Với âm nhạc, tiếng hô sấm sét HUNG và PHAT,
Làm rung chuyển cả thế gian,
Đến để đón rước đi qua giai đoạn chuyển tiếp.
Đừng sợ họ, mà hãy xem các Ngài như những vị Thần bảo hộ của con.
Các Ngài sẽ đưa con đến những cõi trời thanh tịnh.
Sau đó, những vị Thần phẫn nộ uống-máu
Sẽ đến đón tiếp con đi qua giai đoạn chuyển tiếp.
Các vị này rất đáng sợ và dữ dằn, không dám nhìn
Tiếng gầm HUNG và PHAT giống như hàng ngàn tiếng sấm sét cùng lúc.
Tất cả bầu trời, hư không, và thế gian sẽ tràn đầy những Thần phẫn nộ này.
La hét " Giết, giết" và "Đánh, đánh", các vị phát ra những vũ khí tia sáng.
Các vị bao vây con như vây bắt một phạm nhân, và con sẽ không thể thoát.
Nhưng các vị không phải đến từ nơi nào khác.
Các vị là những vị Thần của chính thân con.
Đừng hoảng sợ họ
Nhận lầm những thế lực đón tiếp mình là những kẻ thù.
Ở vào giai đoạn quan trọng này
Đừng chạy trốn mà hãy phát lòng sùng kính đến các Ngài.
Trong cả hai tiến trình hấp hối
và sự xuất hiện chơn tánh tối thượng, chúng ta chứng nghiệm nhiều loại ánh sáng
và hiện tượng khác nhau. Những người đã giác ngộ thấy và cảm nhận chúng ở một
mức độ vô phân biệt chứ không theo lối nhận thức chủ thể- đối tượng. Họ có thể
trông thấy và kinh nghiệm hàng trăm thứ cùng lúc, nhưng không nhất thiết phải
thông qua mắt và tai của mình mà với toàn thể, với mọi thứ sinh động ở trước
tánh giác của họ. Mọi sắc tướng đều an lạc, nhất như, và là chơn không, dù có
hình dạng hiền hòa hay phẫn nộ. Không có sự phân biệt giữa tốt xấu, giữa cái này
với cái kia, giữa thương hay ghét, giữa đau đớn và hứng khởi. Ngược lại, càng
chứng ngộ cao người ta càng thấy trọn vẹn những sự vật cùng lúc. Còn phần lớn
người bình thường thì kinh nghiệm những sự vật với tâm giới hạn, mê lầm, đau
đớn, và sợ hãi trong giai đoạn hấp hối này.
Độ dài thời gian mà người bình
thường chứng kiến những linh thị khác nhau của chơn tánh tối thượng, nếu có thì
hoàn toàn tùy thuộc vào trình độ và kinh nghiệm thiền quán của họ. Đại Sư Tsele
viết cuốn “Giải Thoát Bằng Sự Nghe”(sách này có chỗ gọi là Tử Thư Tây Tạng,
Tibetan Book of the Death) và những sách khác nói về người hấp hối thấy ngũ
bộ Phật như Đức Phật A Súc (Akshobya) với đoàn tùy tùng trong đêm thứ nhất (hay
tuần đầu tiên sau khi chết) và Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava) trong đêm thứ hai
(hay tuần). Nhiều người chấp nhận điều này như chu kỳ ngày và đêm thông thường.
Nhưng thật ra, sự trông thấy được các vị Phật này là một phần của sự thể nhập
thiền định, và người bình thường sẽ chỉ thấy hình ảnh này trong một khoảnh
khắc.”
Khi đọc về ánh sáng trong những
văn bản mô tả sau khi chết này, có thể nhiều người trong chúng ta sẽ nghĩ,
“Ồ, đúng, những ánh sáng này phải là những luồng ánh sáng hay những hiện tượng
giống ánh sáng mặt trời từ nơi nào đó.” Nhưng trong nhận biết thật sự, chúng
ta không nhận thức ánh sáng này như những vật đối tượng của nhãn thức hay như
những hiện tượng được sinh ra từ một nguồn nào đó hay đến từ một nơi nào khác.
Mà ánh sáng đó là sự trong sáng và quang minh, cũng là sự an tĩnh, hạnh phúc,
cực lạc, chơn không, nhất như, và trí tuệ. Chúng ta là ánh sáng, và ánh sáng là
chúng ta: tất cả là một. Đây là sự hợp nhất của trí tuệ tự nhiên, vốn là quang
minh của chơn tánh tối hậu và những linh thị quang minh tự xuất hiện của trí
tuệ. Vậy ánh sáng này cũng được gọi là ánh sáng trí tuệ (wisdom-light). Mức độ
trong sáng, an tĩnh, chơn không, và toàn giác của ánh sáng trí tuệ mà chúng ta
chứng nghiệm tùy thuộc vào mức độ thiện nghiệp ở quá khứ và mức độ chứng ngộ của
mình. Nguyên tắc này chính là nền móng của giáo lý Phật Giáo về những khái niệm
như bất nhị, ánh sáng tự nhiên, ánh sáng-trí tuệ, sự trong sáng, sự tự xuất
hiện, sự xuất hiện tự nhiên, sự hiện diện tự nhiên, tự-hiện diện, tự xuất hiện,
Đức Phật và cõi tịnh, trạng thái vô sanh, và trạng thái giác ngộ trọn
vẹn.
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng
trở nên giác ngộ trong giai đoạn chơn tánh nếu có thể nhận ra, làm cho hoàn hảo,
và duy trì chơn tánh của thanh tịnh nguyên thủy, tức là sự hợp nhất của thật
tánh chơn không và những sắc tướng xuất hiện tự nhiên, ánh sáng nội tại. Nhưng,
để đạt được chứng ngộ như vậy, chúng ta phải đạt được nó ngay trong cuộc sống
bằng pháp tu thiền quán. Vậy ngay lúc này, khi chúng ta còn sống, phải sửa soạn
cho cuộc hành trình vĩ đại của mình.
Những lời kể của Delog về
tiến trình chơn tánh
Trong những lời tự kể về sự hấp
hối và sự chết của mình, nhiều delog đã không nói đến những chứng nghiệm về chơn
tánh của họ. Không rõ đó là do họ không nhận ra nó vì họ đã không đủ kinh nghiệm
thiền quán hay họ đã quyết định không nói đến nó vì những kinh nghiệm như vậy
chỉ có ý nghĩa đối với những hành giả đã thành tựu cao. Những lời kể sau đây là
những ngoại lệ. Họ có đề cập đến sự chứng nghiệm chơn tánh, nhưng thay vì đạt
giác ngộ, các delog này đều tiếp tục trải qua giai đoạn chuyển tiếp trung ấm
thân. Có lẽ họ không thể duy trì trạng thái chơn tánh vì sự chứng ngộ của họ
chưa được hoàn hảo, hoặc có thể họ tự ý đi vào bardo để giúp đỡ người khác ở nơi
đó. Điều đáng chú ý là những lời kể này khác nhau trong chi tiết, và như vậy có
nghĩa là những người kể lại không chỉ đơn giản lập lại những gì mà mình đã học
được từ người khác. Điều này cho thấy rằng dù là một hành giả cũng sẽ không nhất
thiết trông thấy và nhận ra mọi thứ đúng như đã được mô tả trong những giáo lý.
Ánh sáng hiện diện tự nhiên:
Kinh nghiệm của bà Lingza Chokyi
Trong phần đầu lời kể của Chokyi
mà chúng ta đã đọc ở chương 2, bà đã trải qua những kinh nghiệm về sự phân giải
và rồi bước vào một trạng thái mà ở trong đó bà không ghi nhớ được điều gì cả.
Khi ra khỏi trạng thái đó, bà trông thấy ánh sáng năm màu có hình dạng một cái
mũ trên đầu của mình. Từ giữa ánh sáng đó, những ánh sáng màu đỏ tỏa ra. Ở cuối
mỗi tia sáng có một sinh linh có thân người đầu thú, mỗi vị mặc một kiểu trang
phục riêng. Mắt họ mở to như mặt trời và mặt trăng. Họ vung đủ thứ vũ khí và la
như sấm, “Đánh! Đánh! Giết! Giết!” Chokyi hoàn toàn hoảng sợ.
Đến chỗ này, bà nhớ lại một vị
lama đã dạy mình: “Ánh sáng mà con sẽ trông thấy là những ánh sáng tự xuất
hiện, những ánh sáng hiện diện tự nhiên của chính con. Những tia sáng là những
tia sáng tự xuất hiện.Hình ảnh là hình ảnh tự có. Âm thanh là âm thanh tự sanh.
Tất cả là sự tự chiếu tỏa của chính tâm con.” Bà nghĩ, “Vậy là chúng
không có thật!” ngay lúc đó chúng đều biến mất. Và bà không còn sợ hãi nữa.
Thân ánh sáng không thân xác:
Kinh nghiệm của Dagpo Trashi Namgyal
Trong lời kể ở chương 2, Dagpo
thấy xuất hiện trạng thái quang minh, trong sáng giống như bầu trời không mây.
Nếu ông nhận ra nó thì đây đã là sự đạt được Phật quả. Sự tự tại giống như bầu
trời không có một vật gì là pháp thân. Trạng thái quang minh thanh tịnh là báo
thân. Năm cảm xúc phiền não đã xuất hiện như năm trí tuệ. Rồi ông còn chứng
nghiệm đại lạc viên mãn đến mức bầu trời không thể dung chứa hết.
Nhưng tâm của Dagpo bị mê muội,
và ông thấy ánh sáng như những vật đối tượng. Ông trông thấy đủ loại ánh sáng
trắng, vàng, đỏ và xanh. Thân xác của ông không còn như trước nữa, mà trở thành
thân ánh sáng vô thân. Tất cả đều hoan hỷ và chuyển động nhanh. Ông có thể đi
đến bất cứ nơi nào mình muốn chỉ cần nghĩ tới nơi đó là được.
Năm loại ánh sáng xuất hiện với
ông. Ánh sáng ở bên phải ông có màu trắng, bên trái có màu tối. Ánh sáng ở phía
trước màu vàng. Bất kỳ ông đi đến đâu ánh sáng đều theo đến đó.
Rồi ông trông thấy một ngôi nhà
và đi vào trong rồi ngồi xuống. Nhà có chín lối vào, gồm bảy cửa với một cửa đi
lên và một cửa đi xuống. Ông vừa nghĩ và vừa sợ hãi “Đây chắc là thể xác của
chính mình.” Sau đó ông làm phép chuyển di thần thức phowa và hét lên âm
HIK! Tức khắc ông ra khỏi thể xác của mình và đi vào cõi tịnh độ.
Linh thị về chơn tánh: kinh
nghiệm của Đại Sư Tsophu Dorlo
Ở cuối lời kể của Ngài trong
chương 2, Đại Sư Tsophu Dorlo đã đi vào trạng thái tối đen. Kế đó thần thức của
Ngài tan nhập vào quang minh và Ngài chứng nghiệm một hỷ lạc nội tại. Rồi quang
minh của đường đạo và quang minh của chơn tánh, còn được gọi như quang minh của
Mẹ và con, hợp lại thành một. Ngài an trụ trong trí tuệ nguyên thủy một thời
gian dài.
Trong khoảng thời gian đó những
linh thị của chơn tánh xuất hiện tự nhiên với Ngài. Tất cả mọi nhận thức trở nên
có hình dạng các vị Phật và ánh sáng.
Không gian trở thành ánh sáng
màu xanh. Ở giữa và bốn hướng, Đại Sư Dorlo thấy những linh thị về năm bộ phái
Phật cùng với những cõi tịnh độ của các Ngài. Chư Phật được các Bồ tát đệ tử hộ
tống, những vị Thần canh cửa, sáu vị Phật và nhiều Thiên nữ cũng như các vị
Thầy. Ngài cũng có những linh thị về năm bộ phái Phật phẫn nộ với các đệ tử.
Cuối cùng những linh ảnh của chơn tánh chấm dứt.
Trong bào thai của thân ánh
sáng: kinh nghiệm của Samten Chotso
Năm mười chín tuổi Samten Chotso
đã chứng nghiệm tinh chất trắng và đỏ của cơ thể tụ lại ở tim và thần thức của
cô nằm ở giữa hai tinh chất đó. Tức khắc xuất hiện trí tuệ giúp cô thoát khỏi
khoái cảm nhục dục. Vì cô nhận ra và an trụ trong trí tuệ này không xao động nên
sự vô minh của cô được giải trừ.
Cô cảm thấy mình đã đạt được
trạng thái của Đức Phật Vô Lượng Quang (Buddha of Infinite Light). Rồi cô chứng
nghiệm quang minh giống như bầu trời không mây. Cô viết: “Nếu nhận ra tánh
quang minh này, người ta sẽ đạt đến giác ngộ. Nhưng đáng buồn thay vì không ai
nhận ra nó, nên họ phải còn bị kẹt trong vòng luân hồi.”
Ngay lúc đó thân xác của cô trở
thành thân ánh sáng. Mọi sắc tướng trở thành một khối ánh sáng năm màu. Cô cảm
thấy mình đang ở trong bào thai của thân ánh sáng. Có chín cửa sổ trên thân thể,
từ dưới lên trên.
Kế đó cô nghe tiếng của Đại Sư
Liên Hoa Sanh (Guru Padmasambhava) đang niệm thần chú của Ngài. Từ “cửa sổ trên
đỉnh đầu (chỗ hở trên sọ), những tia sáng màu trắng chiếu xuống. Cô kể lại
"Tại đó tôi thấy Đại Sư Liên Hoa Sanh ở giữa ánh sáng”.
Những lời hướng dẫn dành
cho người hộ niệm: kinh nghiệm của Changchub Seng-ge
Làm thế nào có thể giúp đỡ người
khác đi qua giai đoạn chơn tánh tối thượng ? Chúng ta có thể tham khảo những lời
kể của Đại Sư Changchub, trong đó có những lời khuyên từng bước một. Ngài nói
rằng khi hơi thở bên trong của người hấp hối đã ngừng lại và người đó đã bắt đầu
thấy tánh quang minh của chơn không và những linh thị quang minh của chơn tánh
tối thượng, người hộ niệm nên nói với người hấp hối như sau:
Đối với một hành giả đã thành
tựu, hãy nói:“Ông/Bà (hay tên), xin hãy an trụ trong thiền định của bạn không
xao lãng. Giờ chết đã tới với bạn. Xin đừng dao động khỏi trạng thái thiền của
bạn. Bây giờ hãy quán sát tâm bạn. Tâm bạn có bất kỳ hình dạng, hay màu sắc nào
không? Tâm bạn không có hình dạng, màu sắc và không có gì để bám víu. Chơn tánh
đó là sự hợp nhất của quang minh và tánh Không. Xin hãy giữ chánh niệm trong sự
hợp nhất đó. Tất cả những âm thanh mà bạn nghe là âm thanh tự phát sanh. Tất cả
những ánh sáng mà bạn thấy là ánh sáng tự hiện hữu. Tất cả những tia sáng bạn
chứng kiến là tia sáng tự xuất hiện. Xin đừng nên sợ hay khó chịu vì những âm
thanh, ánh sáng và những tia sáng đó. Hãy an trụ trong thiền quán không xao
động”.
Rồi sau đó hãy trì tụng những
bài kinh cầu nguyện sự gia hộ của chư Phật và chư Tổ sư. Sự hướng dẫn và những
lời cầu nguyện này sẽ giúp cho hành giả hấp hối đạt được giác ngộ.
Với hành giả bình thường hãy
nói, “Này bạn (hay tên của người hấp hối) có thể bạn đang trải qua kinh
nghiệm căn nhà sụp đổ. Nhưng không phải vậy. Nó là dấu hiệu của hơi thở bên
trong của bạn ngừng lại và tâm đang tách rời thể xác. Ngay khi thần thức ra khỏi
thể xác, bạn sẽ thấy ánh sáng năm màu ở xung quanh mình. Đừng hoảng sợ vì ánh
sáng này. Nếu bạn nhận ra chúng, chúng là năm ánh sáng của năm bộ phái Phật. Nếu
bạn không nhận ra chúng thì chúng là ánh sáng của Tử Thần. Vì thế đừng nên sợ
hãi".
“Xin hãy lắng nghe cẩn thận.
Trong những ánh sáng bạn sẽ trông thấy, có năm loại ánh sáng. Ở giữa ánh sáng
xanh, sự si mê của bạn sẽ xuất hiện trong hình dạng Người Đầu Gấu (Bear Headed
Person). Đừng sợ người này, mà hãy tôn kính, vì đó là Đại Nhật Như Lai
(Vairochana Buddha). Xin hãy nhận ra Ngài như vậy".
“Lại nữa, ở giữa ánh sáng
trắng, tánh sân hận của bạn sẽ xuất hiện trong hình dạng Người Đầu Rắn
(Serpent-Headed Person). Xin đừng ghét người này, vì đó là Phật Kim Cương Tát
Đỏa (Vajrasattva Buddha). Xin hãy nhận ra Ngài như vậy".
“Lại nữa, ở giữa ánh sáng
vàng, sự ngạo mạn của bạn sẽ xuất hiện trong hình dạng Người Đầu Cọp (Tiger
Headed Person). Xin đừng hoảng sợ vị ấy. Vì đó là Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava
Buddha). Xin hãy phát tâm tôn kính Ngài".
“Lại nữa, ở giữa ánh sáng đỏ,
tính tham dục và chấp thủ của bạn sẽ xuất hiện trong hình dạng Người Đầu Đại
Bàng (Eagle Headed Person). Đừng sợ người đó. Ngài là Phật Vô Lượng Quang
(Buddha of Infinite Light). Xin hãy phát tâm tôn kính
Ngài".
“Lại nữa, ở giữa ánh sáng màu
lục, tánh ganh tị của bạn sẽ xuất hiện trong dạng Người Đầu Khỉ (Monkey Headed
Person). Ngài là Phật Bất Không Thành Tựu (Amogasiddhi Buddha). Xin hãy nhận ra
Ngài như vậy".
“ Đó là năm ánh sáng của năm
vị Phật. Nếu bạn sợ chúng, chúng sẽ trở thành những con đường dẫn đến những cõi
thấp. Xin đừng hoảng sợ chúng hay chạy trốn".
“Này người con của gia đình
tốt! Bạn có thể cảm thấy mình phải chọn con đường hẹp thay vì con đường ánh
sáng, nhưng xin đừng đi theo con đường đó. Con đường đó sẽ dẫn bạn tái sanh vào
địa ngục. Bạn cũng có thể thấy một dòng sông tro nóng, nó sẽ đưa bạn tái sanh
vào loài quỷ đói. Bạn có thể thấy một đầm lầy, nó sẽ đưa bạn tái sanh vào loài
cầm thú. Bạn có thể thấy một khoảng hở đưa đến một con đường giống như cái ống
đồng đầy mùi thức ăn, con đường này dẫn bạn tái sanh vào loài người. Bạn có thể
thấy con đường đầy dẫy những vũ khí sáng loáng, nó sẽ dẫn bạn tái sanh vào cõi
bán thần A Tu La. Bạn cũng có thể thấy con đường với nhiều cổng và những bánh xe
có vũ khí sắc bén , con đường sẽ dẫn bạn tái sanh vào cõi các vị Thần. Xin đừng
đi theo những con đường này, mà hãy đi lên kinh mạch trung ương giữa của cơ thể
của bạn qua lỗ mở rộng trên đỉnh đầu. Phía trên đầu bạn là Đức Phật Kim Cương
Trì (Vajradhara Buddha).”
Khi thực hiện công việc hộ niệm,
bạn nên thiền quán về sự hợp nhất tâm bạn với tâm của người hấp hối. Rồi bạn hét
lớn âm PHAT nhiều lần, hòa nhập tâm hợp nhất vào tâm trí tuệ của Phật Kim Cương
Trì. Rồi quán niệm hợp nhất với Phật Kim Cương Trì. Hãy an trụ trong trạng thái
thiền quán đó càng lâu càng tốt và nhiều lần. Lúc kết thúc, hãy trì tụng những
bài sám nguyện.
Trạng thái cực lạc: Kinh
nghiệm của bà Dawa Drolma
Dawa Drolma kể lại chứng nghiệm
chơn tánh của mình trong hai dòng. Bà nói: “kết quả là tâm của tôi hòa nhập
vào trạng thái cực lạc, vốn là chơn tánh tối thượng, không có ý tưởng gì cả,
giống như bầu trời.” Nói cách khác, giống như bầu trời không ô nhiễm, chơn
tánh không có vọng tưởng hay cảm xúc nào. Đây phải là kinh nghiệm của quang minh
chơn tánh. Rồi bà nói, “Một năng lực vô lượng của trạng thái quang minh chơn
tánh đó xuất hiện tự nhiên trong hình thức hoàn toàn phô diễn”. Đây phải là
kinh nghiệm về linh thị quang minh.
Rồi bà Dawa Drolma có cảm giác
giống như đang đi lên một không gian mờ ảo, nhanh như một con kên kên bay lên
bầu trời.
Cảm giác u buồn: kinh nghiệm
của Karma Wangdzin
Bà Karma đã chết được bảy ngày.
Câu chuyện delog của bà có tính triết lý nhiều hơn chuyện của một số người khác.
Chuyện này giải thích rằng những linh thị và những cảm giác đáng sợ chỉ là những
cảm nhận phản chiếu tâm bất an của con người. Như chúng ta sẽ thấy trong những
lời kể của bà về cõi trung ấm ở chương 5, bà mô tả chi tiết một nơi mà ở đó
người ta đang đợi tới phiên mình để được phán xét.
Bà Karma nghe tiếng một người
đàn bà gọi mình: “Karma Wangdzin ơi!” Karma Wangdzin là Pháp danh của một
vị Thầy ban cho bà, nhưng mọi người đều gọi bà là Lhawang Putri, tên mà Mẹ của
bà đã đặt cho. Tuy nhiên vào lúc này, bà được gọi bằng Pháp danh của mình. Tiếng
nói đó tiếp tục, “Này Karma Wangdzin, bây giờ bà đã đến với thế giới mới. Sự
vô thường của đời người, kinh nghiệm về cái chết đã diễn ra với bà. Bà đã không
nhận biết được như vậy hay sao ? Xin đừng bám víu vào thân xác hư ảo của mình
nữa. Hãy nâng tâm trí của mình hướng lên trạng thái chơn tánh tối thượng.”
Nghĩ rằng, “Mình đã chết
rồi”, bà Karma nhìn lên trên. Bà trông thấy ở phía trên mình một lỗ hổng với
ánh sáng chiếu qua, giống như bà đang ở trong một cái bình và nhìn thấy một lỗ
trên đỉnh bình. Chỉ nhìn thấy lỗ hổng đó, bà tức khắc thoát khỏi nơi tối tăm qua
lỗ hổng mà không cần phải nghĩ đến việc đi lên hay chui ra. Bà cảm thấy mình
thoát ra khỏi một cái hang được bao quanh bởi cây cối. Thật ra, bà đã ra khỏi
chỗ hở ở sọ trên đỉnh đầu, có những sợi tóc xung quanh lỗ hở mà bà đã không nhận
ra điều đó.
Trên bầu trời khoảng sáu tấc
trên “cái hang”, bà thấy có một quả cầu ánh sáng trắng ở bên trong những ánh
sáng nhiều màu, giống như những cái đốm trên một cái lông chim công. Từ đó,
những tia sáng tỏa ra khắp nơi. Ngay khi trông thấy nó, một cảm giác cô đơn, u
buồn đi qua tâm trí của bà.
Tiềm năng vi diệu của chúng
ta
Chơn tánh tối thượng là nền móng
của tâm trí của mỗi người chúng ta. Nhưng phần lớn chúng ta không biết tới sự
vinh quang đó, đừng nói gì đến khả năng hợp nhất với nó sau khi chết. Tôi hy
vọng rằng chương này đã cho chúng ta thấy một chút tiềm năng vi diệu của chúng
ta chứng ngộ chơn tánh vào lúc chết nếu chúng ta ra sức thiền quán về chơn tánh
của tâm. Những người đã đạt thành tựu được mô tả ở đây đều bắt đầu tu tập như
những người bình thường giống chúng ta. Rồi họ dành hết cuộc đời của mình để
tham thiền nhập định và duy trì sự chứng ngộ chơn tánh tối thượng.
Tuy nhiên, việc hành thiền một
chút cũng sẽ ích lợi cho chúng ta rất nhiều khi chúng ta qua đời. Giống như
những lớp võ được bốc đi khi chúng ta chết hay nhập vào những trạng thái tâm
thức sâu xa, kết quả của công trình hành thiền sẽ hiển lộ với chúng
ta.
Một phụ nữ Tây Phương là Pema
Odzer, đã tu tập theo Đạo Phật chỉ trong vài năm khi phải vào bệnh viện để được
giải phẩu. Hồi còn nhỏ, những lúc hạnh phúc nhất của bà là đi xe ngựa chạy dọc
theo con đường làng quê với ông nội của mình. Sau khi ông nội qua đời, bà vẫn
luôn tưởng tượng rằng khi minh chết, ông nội sẽ gặp mình trên chiếc xe ngựa. Khi
bà sửa soạn đi gặp ông nội của mình thì Đức Phật xuất hiện. Ngài đi tới đi lui
ngang qua con đường và khuyên ngăn đừng đến với ông nội, Đức Phật khuyến khích
bà giữ hơi thở. Bà làm theo lời Ngài và bà đã khỏe mạnh cho đến ngày nay. Điều
đáng nói là kinh nghiệm thiền quán của bà đã hiển lộ dù cho đến lúc đó bà chỉ có
thời gian ngắn để hành thiền.
Vậy điều quan trọng là chúng ta
thiền quán về chơn tánh của tâm càng nhiều càng tốt trong khi vẫn còn sống trên
thế gian này. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).29/4/2012.
No comments:
Post a Comment