Một Ngày
Có Bốn Mùa
Thích Như Ðiển
Thích Như Ðiển
Chắc không
có nơi nào trên quả địa cầu này có thời tiết như vậy. Chỉ trừ Melbourne ở Úc.
Buổi sáng tinh sương là mùa đông lạnh buốt; nửa ngày là mùa xuân; trưa và xế
trong ngày là thuộc về mùa Hạ và cuối ngày là vào Thu. Chính tại địa phương lạ
lùng nầy có một Tu Viện nổi tiếng mang tên Bồ Tát Quảng Ðức. Năm nay kỷ niệm 20
năm thành lập nên tôi viết đoản văn này để ghi lại một vài kỷ niệm về ngôi Tu
Viện mang tên một bậc Bồ Tát và cũng để ca ngợi, tán dương thành quả có được hơn
20 năm qua, do công đức của Thượng Tọa Thích Tâm Phương, sáng lập trụ trì và bào
đệ là Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng làm phó trụ trì tại đó.
Lần đầu tiên
tôi đặt chân đến Úc vào tháng 12 năm 1978. Ðịa phương tôi muốn đến là Brisbanne,
vì giấy bảo lãnh được gởi qua Ðức từ nơi này.Thuở ấy máy bay Lufthansra không
bay trực tiếp từ Ðức qua Úc, nên tôi phải bay bằng Singapore airlines. Ðây có lẽ
là chuyến bay dài nhất trong đời và cũng là chuyến bay có nhiều kỷ niệm nhất.Vì
thuở ấy hàng không Singapore mới phát triển nên việc khuyến mại bằng nhiều hình
thức khác nhau. Cứ mỗi lần lên xuống, hành khách được nhận một món quà, ví dụ
như ví tay đựng tiền hay bút máy. Ðoạn đường từ Frankurtt đi Singapore và từ
Singapore qua Melbourne rồi Sydney, đi về như thế có được sáu lần nhận quà kỷ
niệm. Có điều làm cho tôi nhớ mãi và suy nghĩ thật nhiều qua những chuyến bay
như thế, là việc nhân viên sở di trú của Úc lên máy bay xịt thuốc sát trùng khi
máy bay đáp xuống phi trường Melbourne. Thuở ấy phi trường Sydney chưa mở rộng
nên hầu hết các chuyến bay đều phải hạ cánh tại phi trường Melbourne trước,
trước khi bay đến Sydney. Còn bây giờ thì ngược lại, đa phần máy bay đáp xuống
phi trường Sydney trước và sau đó mới bay đến Melbourne để đón khách, hoặc giả
cũng có nhiều chuyến bay đến và đi thẳng từ phi trường Melbourne chứ không cần
qua Sydney.
Ðiều làm
cho tôi ái ngại và tự hỏi là tại sao Úc lại làm như thế! Chúng tôi đến từ những
xứ văn minh Âu Châu chứ đâu phải đến từ xứ nào mang bệnh tật vào Úc mà họ phải
làm thế. Tục lệ này sau chừng 20 năm hình như không còn nữa, có thể vì tốn kém
cho nhà nước, hay vì một lý do nào chăng? Ngày ấy, Melbourne là cửa ngõ quốc tế
vào Úc; nên tất cả các du khách đều phải xuống máy bay tại đây trình passport,
đóng dấu nhập cảnh và nhận hành lý, sau đó cho hành lý trở lại máy bay để đi
tiếp Sydney.Thật là nhiêu khê chẳng ít.
Kế đó là
việc phát âm chữ Melbourne. Nếu đánh vần theo tiếng Pháp thì phải đọc hết các
mẫu tự, nó trở thành sai, chẳng ai hiểu hết. Mà nó phải được đánh vần theo tiếng
Anh, tiếng Úc là: “Melbell”mới đúng. Ðây là việc khôi hài khi mua vé máy
bay.Vì tôi nói cách nào đi nữa thì người
Ðức cũng chẳng hiểu là tôi muốn đi đâu.Vả chăng ngôn ngữ nó có những cách riêng
của nó, ngay cả vấn đề phát âm của tiếng địa phương chăng? Tiếng Anh tại Anh
khác, tiếng Anh tại Úc khác với tiếng Anh tại Mỹ và ngay cả tiếng Anh tại Á châu
cũng rất khó nghe. Do vậy mà học bao nhiêu cũng không đủ là vậy và đi bao nhiêu
cũng không cùng.Vì nơi nào cũng có cái mới cái lạ. Ngày còn học Tiểu học
(1956-1961)có bài học thuộc lòng, cho đến nay tôi vẫn còn nhớ. Ðó là bài: “Ði
ngày đàng, học sàng khôn”:
Ði cho biết
đó biết đây,
Ở nhà với Mẹ
biết ngày nào khôn.
Kìa thế giới
năm châu quanh quất,
Người bao
nhiêu thì đất bấy nhiêu.
Sông to núi
lớn cũng nhiều,
Ðường đi lối
lại trăm chiều ngổn ngang.
Người bốn
giống đen, vàng, đỏ, trắng,
Trời bốn
phương Nam, Bắc, Ðông, Tây.
Non
non, nước nước ,mây mây,
Chẳng đi sao biết thông này thảo kia.
Khi
còn nhỏ tôi được học những bài học thuộc lòng như thế. Hình như mỗi tháng phải
trả bài cho Thầy, Cô giáo từ một đến hai lần. Nhờ vậy mà sau hơn 50 năm, học trò
vẫn còn thuộc.Và thuở ấy, cứ mỗi thứ hai, trên bảng đen có viết một câu thành
ngữ, tục ngữ bằng tiếng Pháp hay bằng tiếng Việt.Ví dụ như câu: “Les murs
sont des Oriels” (Bức tường có lỗ tai); hoặc: “Tiên học lễ, hậu học
văn”; hay: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” v.v…
Ngày
nay hình như người ta không còn học như thế nữa.Vả lại mỗi thời, sự giáo dục
luôn đổi mới, cho nên tất cả cũng chỉ là “hoài cổ”mà thôi. Ngay như thời Nho học
không còn thịnh hành nữa vào đầu thế kỷ 20, cụ Trần Tế Xương đã than
rằng:
“Cái học nhà
Nho đã hỏng rồi
Mười người
đi học, chín người thôi
Cô hàng bán
sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư
lương nhấp nhỏm ngồi
Sĩ khí rụt
rè, già phải cáo
Văn chương
liều lĩnh đấm ăn xôi
Tôi đâu dám
mỉa làng tôi nhỉ
Trình có
quán Tiên, Thứ, chỉ thôi”.
Ðến Úc vào
những năm 1978, 79 và rồi những năm 80, 81 trở đi, tôi thấy bầu trời Úc còn
quang đãng lắm.Thuở ấy, người Việt ở Úc cũng chưa nhiều, Chùa Việt hầu như không
có, chỉ có một số Hội Phật Giáo được thành lập do các vị Cư sĩ tại Brisbanne,
Sydney và Adelaide mà thôi. Ngay như Tăng Ni thuở ấy cũng chỉ có mấy vị. Ðó là
Sư chú Sa Di Ðồng Trung, sau này đi Hoa kỳ và kế tiếp là Hòa Thượng Thích Phước
Huệ, Hòa Thượng Thích Huyền Tôn đến, rồi Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hòa Thượng
Thích Như Huệ,Thượng Tọa Thích Phước Nhơn, Thượng Tọa Thích Quảng Ba v.v…Tôi là
người đến thứ hai tại Úc, nhưng lại có nhân duyên rất gần với Chùa Pháp Bảo tại
Sydney và chùa Pháp Hoa tại Adelaide.
Melbourne
thuở ấy chỉ là trạm dừng chân của quý Thầy.Vì thời tiết thay đổi bất thường cũng
như cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản thuở ấy tại đây ít hơn Sydney nên Hòa
Thượng Thích Phước Huệ đầu tiên đến Melbourne rồi sau đó cũng đổi địa bàn hoạt
động về Sydney, có lẽ cũng do những lý do trên. Những năm tháng ấy, tôi cũng có
qua lại Melbourne nhưng chẳng có nhơn duyên nên ít gần gũi hơn những nơi vừa kể
trên.Tôi quan sát người Melbourne đi đâu trong ngày cũng phải mang theo dù và áo
ấm, làm như thể họ đoán biết được tất cả những gì sẽ xảy ra trong ngày, nhưng có
lẽ đó là thói quen cố hữu của người địa phương chăng?
Melbourne
có xe điện chạy trên đường rầy trong phố và nhà cửa tại Úc nói chung hay tại
Melbourne nói riêng, giống hệt như ở Anh chẳng khác một tí nào.Từ cách kiến
trúc, cho đến việc di chuyển, tên các địa phương v.v…đều nhại lại của Anh. Việc
này cũng giống như Sàigòn lại giống hệt như Paris.Vì người đi chiếm thuộc địa
bao giờ cũng trồng vào đấy những cây trái của ngôn ngữ, học thuật, kiến trúc,
văn hóa v.v…để cho hạt giống của “thực dân địa”được trưởng thành. Chữ thực này
có nghĩa là sự xâm thực, gồm có cây, có rễ và bám chặt ngay vào đất đai tại địa
phương ấy. Chính sách này ngày nay không còn nữa, nhưng hơn 200 năm trước, người
Anh, người Pháp, người Hòa Lan, Tây Ban Nha đã làm những việc này và họ đã thu
về cho quê hương của họ không biết bao nhiêu là lợi nhuận từ chính sách “thực
dân” này.
Từ năm 1984
trở đi, cứ 2 hay 3 năm, tôi tổ chức một chuyến hành hương đi từ Ðức đến Úc. Vì
lẽ quý Cụ, quý Bác không rành ngôn ngữ và đường xa không ai giúp đỡ, nên kết hợp
việc đi hành hương cũng như thăm con cháu và người thân tại Úc là việc tiện lợi,
nên nhiều người đã tham gia. Mỗi lần như thế thường có từ 20 đến 40 người tham
dự. Tôi nhớ có lần đoàn hành hương của chúng tôi khởi hành bằng xe Bus đi từ
chùa Pháp Bảo xuống Melbourne và chùa đầu tiên ghé lại là ngôi chùa nhỏ Quảng
Ðức, Thuở ấy (1990) ngôi Tu Viện nhỏ này còn khiêm nhường lắm, chỉ là một ngôi
nhà 3 phòng, cải gia vi tự. Thầy trụ trì ốm ốm, cao cao ra đón chúng tôi và từ
đó tôi biết rằng, đó là Ðại Ðức Thích Tâm Phương mới vừa cho kiến tạo Đạo tràng
này. Đoàn hành hương năm ấy còn có Cố HT Thích Thiền Định và 40 Phật tử, tất cả
đã nghỉ qua đêm trong ngôi chùa nhỏ ấm cúng này.
Bẵng đi một
thời gian, sau đó tôi nghe rằng Thầy ấy vừa tạo mãi được một ngôi trường Tiểu
Học và bây giờ có đầy đủ điều kiện hơn để thành lập một ngôi chùa.Ví dụ như
phòng ốc nhiều hơn, có bãi đậu xe công cộng và chùa sẽ thích hợp với nơi sinh
hoạt công cộng như thế. Ðây là một niềm vui, và cũng là một
nỗi lo của
Thầy ấy cũng như của Phật tử địa phương vì chùa phải trả góp hằng tháng cho ngân
hàng. Ở đây chúng ta có thể mở một dấu ngoặc để nói về việc này .
Vào năm
1968, khi còn Hòa Thượng Thích Thiện Hoa làm Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, Ngài và
Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Hòa Thượng Thích Huyền
Quang v.v... muốn tại ngoại quốc có được 3 ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo
Việt Nam, nên cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoà đã cho gởi 3 pho tượng Phật Thích Ca
sang Ấn độ, Pháp và Nhật để hy vọng một ngày nào đó sẽ có chùa để làm nơi thờ tự
đấng Từ phụ, nhưng mãi cho đến năm 1975, GHPGVNTN trong nước vẫn không thể thực
hiện được việc ấy. Vì lẽ điều kiện tài chánh eo hẹp, cũng như chư Tăng Ni sau
khi du học thành tài tại các xứ ấy, lại về nước chẳng ai muốn ở lại Nhật, Pháp
hay Ấn độ làm gì. Bây giờ 3 tượng ấy được thờ tại chùa Khánh Anh ở Pháp, chùa
Việt Nam Phật quốc tự ở Ấn độ, và chùa Viên Giác ở Ðức.
Rồi 30 tháng
4 năm 1975 đã đến, kẻ được và người mất, kẻ ra đi, người ở lại. Cái đau, cái
buồn, cái xót xa cho vận nước. Vì không có tự do nên đã có 2 triệu người bỏ nước
ra đi. Họ ra đi không phải vì thiếu cơm gạo, mà thiếu tất cả những gì căn bản mà
con người cần đến như: Tự do tôn giáo, tự do đi lại, tự do ngôn luận v.v… Khi
đến được bến bờ tự do, người ta liền nghĩ đến hình ảnh của ngôi chùa. Từ đó
(1975) đến nay (2010), qua 35 năm biến thiên của lịch sử, đã có gần 500 ngôi
chùa lớn nhỏ góp mặt cho Ðời và Ðạo, nhằm phát huy cũng như bảo vệ truyền thống
văn hoá Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Có nhiều người đã mất tất cả, nhưng
nhờ còn có được niềm tin, nên họ đã thành công trên nhiều phương diện sau nầy.
Họ lập hội, lập chùa và làm những công tác thiện nguyện khác. Tất cả đều tự động
và tất cả đều khởi đi từ con số không to tướng. Chỉ có niềm tin vào đức Phật và
tôn giáo của mình đang theo đuổi là to lớn và có một giá trị miên viễn mà thôi.
Từ đó, những ngôi chùa khắp nơi trên thế giới được mọc lên, trong đó có Tu viện
Quảng Ðức tại Melbourne Úc Châu.
Sau một thời
gian sửa chữa ngôi trường cũ và ổn định việc tu học của các Phật tử địa phương,
Thầy Thích Tâm Phương đã có dự án cho việc xây dựng một ngôi Già lam thực thụ.
Thế là Thầy trò của Thầy ấy lại đi vận động qua các tiệc chay gây quỹ hay các
đại nhạc hội để có được tịnh tài, nhằm thực hiện giấc mộng “lấy đá vá trời” nầy.
Vì không ai có thể tưởng tượng được rằng phía trước đang chờ đợi chúng ta cái gì
nữa. Dĩ nhiên là Thầy Cô nào khi xây chùa cũng biết là khó khăn không ít, nhưng
cứ dốc tâm cầu Phật thì Phật sẽ gia hộ. Có lẽ đây là chất liệu dưỡng sinh bền bỉ
nhất, để cho những người Tăng sĩ tự hào. Ðây cũng là chất hồ, chất keo khi dán
lên tường còn bền chắc hơn là xi măng, bê tông và cốt sắt nữa. Suốt 35 năm qua,
kể từ năm 1975 đến nay, tôi đã thấy rõ được điều đó.
Ðến giữa năm
2003, tôi nhận được giấy mời dự lễ Khánh thành Tu Viện Quảng Ðức tại Melbourne
do Thượng Toạ Thích Tâm Phương gởi qua Ðức và cũng vào tháng 6 năm 2003 ấy,
Thượng Toạ có qua Ðức tham dự lễ kỷ niệm 25 năm thành lập chùa Viên Giác tại
Hannover. Thầy cũng cho biết rằng tháng 10 năm 2003 sẽ làm lễ khánh thành và
nhân dịp ấy có tổ chức Đại Hội GHPGVNTN Hải Ngoại. Năm ấy cũng là năm tôi trở về
ngôi Phương Trượng và là năm nhập thất, tịnh tu đầu tiên tại Thất Ða Bảo ở
Sydney nên tôi đã đến với Thầy ấy vào tháng 10 năm 2003 để tham gia Đại Hội và
dự lễ Khánh thành Tu Viện Quảng Ðức cùng với hàng trăm Tăng Ni và hàng ngàn đồng
bào Phật tử. Nhân Ðại Hội GHPGVNTN Hải Ngoại, tất cả các thành viên của Giáo Hội
tại hải ngoại đã suy tôn cố đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đệ
Tứ Tăng thống của Giáo Hội. Ðây là một sự kiện lịch sử chúng ta không được phép
quên. Vì ngày tháng và niên đại suy tôn vẫn còn đó, lịch sử vẫn còn đây, không
ai trong chúng ta có quyền phủ nhận được lịch sử truyền thừa nầy.
Trước đó mấy
năm, Thầy Nguyên Tạng, bào đệ của Thầy Tâm Phương đã đến Úc và trong những lễ
lớn như thế nầy, Thầy Nguyên Tạng hay cán đáng nhiều công việc để giúp đỡ thầy
Tâm Phương. Thầy Nguyên Tạng có dáng người nhỏ nhắn với gương mặt sáng như Thầy
Tâm Phương, Thầy giúp đỡ cho
bào huynh nhiều mặt trong công cuộc hoằng pháp lợi sinh, đặc biệt Thầy Nguyên
Tạng đã có công lớn trong việc tạo dựng Trang Nhà Quảng Đức để phổ biến giáo lý
của tất cả những tông phái Phật Giáo, đến nay đã có trên 2 triệu lượt người truy
cập. Có thể nói trang nhà Quảng Đức là một trong số ít mạng lưới toàn cầu Phật
Giáo có được nhiều người biết và đến xem kinh sách, nghe bài giảng mp3 mỗi ngày.
Ngày nay người ta ngồi tại nhà có thể truy cập máy điện toán về mọi chuyện của
thế giới và biết được mọi điều mà người ta muốn biết, nhưng nếu không có những
người bỏ ra thật nhiều thời gian để trưởng dưỡng những món ăn tâm linh ấy thì ta
cũng không có cơ hội để dò tìm. Xin ngưỡng vọng và tri ân tất cả những ai đã,
đang và sẽ có những tấm lòng hy sinh cho những người khác như vậy. Ðây cũng là
những hình ảnh của những người hành Bồ tát hạnh. Thật ra thọ Bồ tát giới không
khó, nhưng hành Bồ tát hạnh thật chẳng dễ dàng chút nào.
Dưới mái
chùa của Tu Viện Quảng Ðức Melbourne đã trưởng dưỡng những tâm hồn như thế và
ngày nay ngoài những người Việt tha hương muốn tìm về hình ảnh của ngôi chùa, họ
đã đến và đã đi cũng như sẽ có nhiều người đến, nhưng đặc biệt tại đây có rất
nhiều người Úc, người Nhật, người Hoa, cũng đã đến chùa làm công quả và học hỏi
giáo lý Phật Đà qua ngôn ngữ địa phương. Quả là điều thật ít có.
Vào tháng 12
năm 2009 vừa qua, Tu Viện Quảng Ðức tổ chức rước Phật Ngọc và khánh thành Tăng
xá, tôi cũng đã hiện diện chia sẻ niềm vui với hai Thầy chánh phó trụ trì. Thật
đúng như câu tục ngữ của Pháp nói rằng: “Sự thành công không phải vấn đề quan
trọng, mà vấn đề quan trọng là làm sao để đi đến sự thành công” mới là điều đáng
nói. Hai mươi năm một chặn đường ngắn trong 100 năm lịch sử, nhưng là một chặn
đường dài cho những ai đang: “đem chuông đi đánh xứ người”. Ðã có lần cố
hoà thượng Thích Quảng Thạc tặng cho tôi hai câu thơ rằng:
“Tuệ cự cao
tiêu quang Việt địa
Từ chung
trường khấu chấn Tây dương”
Nghĩa
là:
“Trí tuệ cao
vời, rõ đất Việt
Trời tây
chuông vọng, động lòng từ”
Nay tôi tặng
lại 2 câu thơ nầy cho nhị vị, chắc cố Hoà thượng Thích Quảng Thạc cũng sẽ mỉm
cười. Vì mấy ai “mang chuông đi đánh xứ người” mà không mong được như
vậy.
Bây giờ
Melbourne dầu cho một ngày có năm mùa đi chăng nữa thì Tu Viện Quảng Ðức tại đây
cũng chẳng ngại ngùng gì với gió sương hay mưa dầm, nắng bức. Vì lẽ tiếng chuông
ấy đã vươn lên và thoát ra khỏi bao nhiêu lụy phiền, đắng cay của nhân thế để
bay mãi vào hư không, thấm sâu vào lòng đất để cho các cõi nhơn thiên được gội
nhuần ơn cứu độ.
Bồ tát
Thích Quảng Ðức là người đã vị pháp thiêu thân vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão
(1963) tính đến nay cũng đã gần 50 năm rồi. Lịch sử vẫn còn đó, trái tim của
Ngài vẫn còn đây. Thế giới ngưỡng mộ hướng về và triều đại nhà Ngô đã trôi vào
dĩ vãng, nhưng những âm thanh cầu nguyện và những bóng hình của ngày hôm ấy tại
ngã tư Phan Ðình Phùng, Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn vẫn vang vọng mãi suốt thời gian
không bao giờ mất cả. Nay tên của Ngài đã được Thượng Tọa Thích Tâm Phương đặt
tên cho ngôi Tu Viện nầy, quả là người có cái nhìn xa và biết “ôn cố tri tân” để
mãi mãi ngôi chùa sẽ là ngọn hải đăng để soi lối cho nhiều kẻ cần về nương
tựa.
Rồi đây ai
cũng phải ra đi. Vì thân cát bụi sẽ trở về cho cát bụi, nhưng hình ảnh của ngôi
chùa và hình ảnh của Bồ tát tuy không tồn tại mãi với thời gian, nhưng tinh thần
hy sinh để bảo vệ đạo pháp ấy vẫn luôn luôn ở lại với đạo và với đời. Cho nên cố
thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã viết trong bài thơ: “Lửa Từ Bi” rằng:
…"Thương
chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định, hướng về Tây
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết lửa
vào xương da bỏ ngõ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
Không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng... giông bão lắng từ đây
Bóng người vượt chín từng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi
Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét từ bi..."
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
Không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng... giông bão lắng từ đây
Bóng người vượt chín từng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi
Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét từ bi..."
và cố thi sĩ
Huyền Không tức Hoà Thượng Thích Mãn Giác, tuy người đã “qua cầu lịch sử”; nhưng
2 câu thơ bất hủ nầy vẫn còn tồn tại với thời gian, năm tháng nhiệm
mầu.
“Mái chùa
che chở hồn dân tộc
Nếp sống
muôn đời của Tổ Tông”
Suốt giòng
lịch sử mấy ngàn năm qua, mái chùa đã xứng đáng là chỗ che chở tâm hồn cho Dân
Tộc và nhiều ngàn năm còn lại với đời sau, chùa cũng như thế:
“Chùa là văn
hóa quê hương
Là nơi thể
hiện tình thương giống nòi”.
Tại
Melbourne ngày nay không phải chỉ có một Tu Viện Quảng Ðức, mà còn có nhiều chùa
khác nữa như: chùa Quang Minh, chùa Bảo Vương và hình như cũng không dưới 20
ngôi chùa lớn nhỏ đã có mặt tại đây từ thuở ban sơ của năm 80, 81; cho đến nay
cũng đã 30 năm rồi. Dầu cho có khác Tông phái, khác pháp tu, khác tổ chức v. v…
nhưng vẫn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho bây giờ và mai hậu của không biết
bao nhiêu thế hệ đã, đương và sẽ đi qua trên cuộc đời nầy.
Nhìn những
ngôi chùa Phổ Phước, Cảnh Phước, Khánh Vân tại Thủ đô Bangkok Thái Lan đã trải
qua hơn 200 năm lịch sử, khi mà vua Gia Long lánh nạn Tây Sơn vào những năm cuối
thế kỷ thứ 18, nhà vua cũng đã mang theo hình ảnh của những ngôi chùa và những
ngôi chùa ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay trên đất Thái, mặc dầu nhà vua đã về
nước, lên ngôi năm 1802 và triều đại nhà Nguyễn ấy đã kết thúc từ năm 1945 sau
khi đã trị vì từ 1600 trở đi. Như thế 9 chúa và 13 vị vua của Triều Nguyễn tuy
không là những Phật tử thuần thành như các vua của Triều Lý, Triều Trần
(1010-1222) và (1222-1400), nhưng cũng là những vị vua minh quân hiền đức, biết
lo cho dân, cho nước và cho sự sống còn của dân tộc.
Ngày nay nếu
có ai đó ghé ngang qua các chùa Phổ Phước, Cảnh Phước, hay Khánh Vân tại thủ đô
Bangkok Thái Lan, không còn nhìn thấy hình bóng của những nhà sư Việt Nam nữa,
nhưng trong những buổi công phu khuya tại các chánh điện của những ngôi chùa
nầy, ta có thể nghe được những âm thanh tụng kinh từ người Thái bằng tiếng Việt
là:
“Diệu trạm
tổng trì bất động tôn
Thủ lăng
nghiêm vương thế hi hữu
Tiêu ngã ức
kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch
tăng kỳ hoạch pháp thân. . .”
hay những
buổi công phu chiều, quý vị có thể nghe tiếng Việt: “Như thị ngã văn, nhứt thời
Phật tại Xá vệ quốc, Kỳ thọ cấp cô độc viên. . .” thật là cảm động vô cùng vì đã
qua rồi 200 năm lịch sử, người xưa không còn nữa, mà ngôn ngữ xưa vẫn còn vang
vọng nơi đây. Ðiều ấy chứng tỏ rằng: bảo thủ cũng không phải là điều
dở, hay nói
đúng hơn là nên gìn giữ lại truyền thống để chúng ta không đánh mất đi cái hồn
của quê hương tại xứ người.
Tu viện
Quảng Ðức tại Melbourne mới hai mươi năm với phong sương và tuế nguyệt, nhưng
biết đâu đó 200 năm sau sẽ có những chú tiểu người Úc mũi cao, mắt xanh, da
trắng sẽ ngồi trên chánh điện ngày nay để tụng lên những bài kinh bằng tiếng
Việt như:
“Dương chi
tịnh thủy
Biến sái tam
thiên . . .”
thì Thầy Tâm
Phương và Thầy Nguyên Tạng ở một cõi giới xa xăm nào đó nhìn về quê xưa, nơi
mình đã trú ngụ ở đó một thời gian, chắc rằng quý Thầy sẽ mỉm cười, an lạc . .
.
Viết để
tặng quý Thầy nhân kỷ niệm 20 năm Tu Viện Quảng Ðức
Sa Môn Thích Như Điển.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).29/4/2012.
Sa Môn Thích Như Điển.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).29/4/2012.
No comments:
Post a Comment