Từ Buddha đến Bụt&Phật
Trong
bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề từ nguyên và ngữ âm, mà
chỉ trình bày vì sao danh từ Buddha với hai âm tiết lại được phiên âm
thành Phật hoặc Bụt chỉ với một âm tiết.
Về danh xưng Bụt và Phật, đại khái hiện nay có ba quan điểm:
A.Quan điểm thứ nhất: Phần đông cho rằng
từ Buddha trong Phạn văn được phiên âm sang Hán văn là Phật Đà hoặc Bột
Đà; và Phật là cách gọi tắt của Phật Đà, còn Bụt cách đọc trại chữ “Bột”
trong Bột Đà.
B.Quan điểm thứ hai: Bụt (chữ Nôm) là cách
phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Buddha của người Việt trong
giai đoạn sơ kỳ, khi Phật giáo Ấn Độ truyền bá vào nước ta: Bud / Bụt.
Quan điểm này cho rằng cách đọc Bụt (là cách đọc bình dân của người
Việt) đã xuất hiện trước cách đọc Phật (là cách đọc bác học theo kinh
điển Trung Quốc), để khẳng định rằng vào buổi ban đầu, Phật giáo Việt
Nam được truyền trực tiếp từ phương Nam tức từ Ấn Độ sang, chứ không
phải được truyền từ phương Bắc là Trung Quốc. Cách đọc Phật là do ảnh
hưởng của Trung Quốc, và cách đọc này chỉ xuất hiện khi quân Minh sang
xâm lược nước ta, tức khoảng cuối thế kỷ XV.
C.Quan điểm thứ ba: Về từ nguyên thì Bụt
và Phật đều là cách đọc khác nhau của cùng một chữ Phật (chữ Hán) mà
thôi. Chỉ khác là trước kia đọc là Bụt, sau này đọc là Phật. Nói chung
thì Bụt và Phật tuy hai mà một.
Song có một điều đơn giản mà các nhà nghiên cứu chưa
giải quyết được là: vì sao trong cả hai cách phiên âm Bụt hay Phật đều
chỉ có một âm tiết, trong khi từ Buddha trong tiếng Phạn lại có hai âm
tiết? Do đó mới nảy ra cách phỏng đoán Phật chỉ là cách đọc tắt của Phật
Đà, và Bụt là cách đọc tắt của Bột Đà hoặc là cách phiên âm trực tiếp
âm tiết thứ nhất của từ Buddha.
Bụt là Phật, điều đó hiển nhiên không có gì để bàn
cãi. Trong truyện cổ tích Việt Nam thì Bụt là hình tượng dùng để chỉ vị
tiên hiền lành nhân hậu, chuyên ban phúc và cứu giúp cho người lương
thiện, điển hình là trong truyện Tấm Cám. Từ Bụt đã tồn tại rất lâu trong ca dao tục ngữ, lẫn văn chương bác học.
Ví dụ: Chưa dễ ai là Bụt Thích Ca/Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Bụt cũng hiền từ sư cũng khá/Chỉ hai con chó chữa từ bi (Nguyễn Công Trứ). Đi với Bụt mặc áo cà sa/Đi với ma mặc áo giấy (Tục ngữ) v.v…
Tác giả Nguyễn Trọng Phu trong bài nghiên cứu Bụt hay Phật? có trích dẫn theo quyển Lịch sử chữ quốc ngữ
của Ðỗ Quang Chính (Tủ sách Ðường Mới, Paris, 1985) một bản thảo của
Bento Thiện (sinh năm 1614) là một thầy giảng thuộc Dòng Tên đạo Thiên
Chúa, sống gần thời với Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes 1593-1660) và đã học
chữ quốc ngữ đầu tiên với các linh mục Dòng Tên Marini, Gaspar
d’Amiral, Ðắc Lộ. Trong bản thảo đó cho thấy hai từ Bụt và Phật đều được
dùng đồng thời (2).
Theo các tự điển Phật học thì từ Phật còn có các cách
gọi khác như: Bộ Đa, Bộ Đà, Bột Đà, Bộ Tha, Hưu Đồ, Một Đà, Phật Đà,
Phật Đồ, Phí Đà, Phù Đà, Phù Đầu, Phù Đồ, Phục Đậu, Vật Tha, Vô Đà v.v…
Trên đây là một số cách mà người Trung Quốc, qua
nhiều giai đoạn, dùng để dịch âm danh từ Buddha trong Phạn văn, dịch ý
là Giác giả, nghĩa là Đấng giác ngộ, dùng để chỉ Đức Phật. Hai cách
phiên âm phổ biến được sử dụng trong kinh điển là Phù Đồ và Phật, song
cách phiên âm được kinh điển Trung Quốc sử dụng nhiều nhất vẫn là Phật.
Trong bài này, chúng ta tập trung vào cách phiên âm Phật.
Theo các vận thư và tài liệu cổ Trung Quốc thì chữ
Phật có nhiều cách phiên thiết. Căn cứ vào Tập vận và Chính vận thì chữ
Phật có hai cách phiên thiết, và do đó có thể đọc theo hai cách bằng âm
Hán Việt :
1. Phù vật thiết => Ph(ù) + (v)ật => Phật.
2. Bồ một thiết => B(ồ) + (m)ột => Bột.
Theo Thích Văn thì Phật được đọc theo âm Bật.
Đây có lẽ là cơ sở ngữ âm để các nhà nghiên cứu suy
ra rằng Bụt (là cách đọc trại của Bột) và Phật đều là cách đọc của một
chữ Hán duy nhất, tại hai giai đoạn khác nhau. Theo nhà Hoa ngữ học lỗi
lạc Karlgren, trong tác phẩm Grammata Serica, thì chữ Phật có 3 cách đọc
là [b'iut/b’iut/fu]. Trong các tự điển Trung Quốc hiện đại, chữ Phật
được phát âm theo hai cách là [Fó] và [Bó]. Như vậy, chúng ta có thể
thấy rằng giữa cách phát âm Bụt và Phật có mối liên quan mật thiết. Còn
vì sao cách đọc Bụt hầu như mất hẳn khỏi nền văn chương truyền khẩu lẫn
văn chương bác học thì mọi nghiên cứu để chứng minh cũng chỉ đều là sự
suy diễn và phỏng đoán, chứ chưa có một cơ sở khoa học hoặc chứng cứ
lịch sử vững chắc nào để khẳng định một cách thuyết phục, ngoài những
luận cứ về ngữ âm.
Nếu cho rằng Bụt là cách đọc trại của Bột trong Bột
Đà thì phải chấp nhận hai sự kiện. Thứ nhất: từ Bột Đà trong kinh điển
Trung Quốc đã xuất hiện trước từ Bụt trong tiếng Việt. Song hiện nay vẫn
chưa thấy có văn bản nào được trích dẫn làm sở cứ để chứng mình điều đó
cả. Thứ hai: để Bột trong Bột Đà biến thành cách đọc Bụt trong dân gian
thì rõ ràng Bột Đà phải là từ rất phổ biến. Song từ Bột Đà chủ yếu chỉ
xuất hiện trong các chân ngôn và thần chú trong kinh điển như kinh Lăng Nghiêm, kinh Phật đỉnh tôn thắng đà la ni
(bản dịch của Sa môn Phật Đà Ba Lợi) v.v… Mà trong kinh điển Phật giáo,
tần số xuất hiện của thần chú, chân ngôn so với kinh văn do Phật thuyết
lại không cao, thêm vào đó là trúc trắc rất khó đọc, khó nhớ. Tín đồ
Phật giáo không còn lạ gì câu: “Đi lính sợ trèo ải, làm sãi sợ chú Lăng
Nghiêm”, đủ thấy các chân ngôn, thần chú đọc, khó tiêu, khó nhớ như thế
nào. Do đó, chúng tôi cho rằng Bột Đà khó lòng được sử dụng phổ biến
trong dân gian để biến thành cách gọi tắt là Bụt trong tiếng Việt được.
Còn nếu chỉ căn cứ vào sự xuất hiện của từ Bụt trong
những câu ca dao, tục ngữ hoặc các câu chuyện cổ tích dân gian mà ta
không thể xác định được thời điểm ra đời, để khẳng định rằng Bụt là cách
người Việt phiên âm trực tiếp âm tiết thứ nhất của từ Buddha, và qua đó
khẳng định rằng Phật giáo được truyền đến Việt Nam trước khi qua Trung
Quốc, thì e rằng rất khó thuyết phục.
Thông thường, khi một từ
của ngôn ngữ nước ngoài
được du nhập vào ngôn
ngữ bản địa, mà ta gọi là tá tự hay là từ vay mượn (loan-word), thì người ta phải dùng cách đọc tương tự của ngôn ngữ bản địa để dịch âm, gọi là âm dịch hoặc thể thanh, sao cho cách đọc đó bảo lưu được âm hình ban đầu, dù từ phiên âm đó không có nghĩa trong ngôn ngữ bản địa. Ví dụ người Việt dùng từ “xà-phòng” hoặc “xà-bông” để gọi savon của người Pháp, hoặc “xăng-úych” để gọi bánh sandwich của người Mỹ. Chắc chắn phải trải qua một thời gian dài và được sử dụng phổ biến, dần dần người ta mới quên hẳn nguồn gốc từ vay mượn đó và xem nó như là ngôn ngữ bản địa.
của ngôn ngữ nước ngoài
được du nhập vào ngôn
ngữ bản địa, mà ta gọi là tá tự hay là từ vay mượn (loan-word), thì người ta phải dùng cách đọc tương tự của ngôn ngữ bản địa để dịch âm, gọi là âm dịch hoặc thể thanh, sao cho cách đọc đó bảo lưu được âm hình ban đầu, dù từ phiên âm đó không có nghĩa trong ngôn ngữ bản địa. Ví dụ người Việt dùng từ “xà-phòng” hoặc “xà-bông” để gọi savon của người Pháp, hoặc “xăng-úych” để gọi bánh sandwich của người Mỹ. Chắc chắn phải trải qua một thời gian dài và được sử dụng phổ biến, dần dần người ta mới quên hẳn nguồn gốc từ vay mượn đó và xem nó như là ngôn ngữ bản địa.
Danh từ Buddha cũng vậy. Khi Phật giáo mới truyền bá
đến Trung Quốc, các thuật ngữ chuyên môn đều được những nhà phiên dịch
kinh Phật giữ nguyên âm điệu, bằng cách dùng những từ Trung Quốc có cách
đọc tương đồng để phiên âm cho chính xác. Theo các nhà nghiên cứu, chưa
có trường hợp từ hai âm tiết trong Phạn văn nào lại được phiên âm rút
gọn thành một âm tiết trong Hán văn. Hơn nữa, Buddha được xem là giá trị
tối linh thì chắc chắn các tín đồ Phật giáo dịch kinh thời kỳ đầu không
dám phiên âm tắt được. Đó là điều hiển nhiên. Ví dụ tín đồ Thiên Chúa
giáo không dám gọi tắt đấng Giê-hô-va là đấng Giê-hô, cũng như tín đồ
Hồi giáo không dám gọi tắt đấng A-la là đấng A được hay nhà tiên tri
Ma-hô-mét là Ma-hô được.
Như vậy từ Buddha được phiên âm thành Phật hẳn phải
bắt nguồn từ nguyên nhân khác. Như đã nói trên, rất nhiều người cho rằng
Phật là cách đọc tắt của Phật Đà hoặc Bột Đà. Ngộ nhận này khá phổ
biến, và đều bắt nguồn từ Dị Bộ Tông Luân Luận Thuật Ký mà ra.
Cuốn này ghi rằng: “Phạn âm ‘Phật Đà’ là nói đấng giác ngộ. Từ xưa đã
gọi tắt là Phật” (Phật Đà Phạn âm, thử vân giác giả. Tùy cựu lược ngữ,
đãn xưng viết Phật).
Sư cô Chơn Không của tu viện Làng Mai dẫn chứng lời nói của pháp sư Khuy Cơ, trong phần chú thích cho Lá thư Làng Mai 25, như sau: “Sư Khuy Cơ, cao đệ của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang, đời Ðường, trong sách Ðại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương, quyển 6, có nói: Bột Ðà (Buddha) là tiếng Phạn, gọi tắt một cách sai lầm là Phật” (Phạn văn Bột Ðà, ngoa lược vân Phật) 1.
Điều này lâu nay đã trở thành hiển nhiên đến mức hầu
như không còn ai nghi ngờ gì nữa. Song trong các thư tịch còn lại từ
thời Hậu Hán Tam Quốc, thì danh từ “Phật” đã xuất hiện trước danh từ
Phật Đà rồi! Thư tịch cho thấy không có trường hợp danh từ Phật Đà xuất
hiện trước danh từ Phật. Có thể Phật Đà chỉ là cách phiên âm bổ sung
thêm vào từ Phật trong giai đoạn về sau, chứ không phải Phật là cách đọc
tắt của Phật Đà.
Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc sống sau thời Hậu
Hán, khi đối chiếu nguyên bản Phạn văn với những danh từ được phiên âm
trong bản dịch kinh Phật đời trước, thấy không tương đồng, nên cho rằng
đó là cách phiên âm sai hoặc phiên âm tắt. Thật ra, trong buổi ban đầu,
Phật giáo truyền đến Trung Quốc không phải là Phật giáo Ấn Độ như chúng
ta lâu nay lầm tưởng, mà chính là Phật giáo vùng Trung Á, từ các nước
như Đại Nhục Chi và các nước nhỏ vùng Tân Cương ở Trung Á, thông qua con
đường tơ lụa. Do đó, khi được du nhập vào Trung Quốc trong buổi sơ kỳ,
thì phần lớn kinh Phật không được dịch trực tiếp từ Phạn văn mà thông
qua một ngôn ngữ trung gian. Chỉ đến đời ngài Huyền Trang thì công việc
dịch thuật mới được xem là tập đại thành. Chính vì vậy, trong tác phẩm Đại Đường Tây Vực ký, ngài
Huyền Trang đã phê phán cách phiên âm nhiều thuật ngữ Phạn văn trước đó
là sai (ngoa dã). Ví dụ ngài cho rằng phải phiên âm yojana là du thiện
na thay vì do tuần hay do diên, Vais'ya là Phệ Xá thay vì Tỳ Xá v.v…2.
Thực ra, đó không có gì là sai cả. Điều này cũng tương tự như ta phiên
âm các danh từ Hy Lạp bằng tiếng Việt, qua trung gian tiếng Anh hoặc
tiếng Pháp.
Khi kinh Phật truyền vào Trung Quốc thì danh từ
Buddha trong Phạn văn được phiên âm khác nhau là Phù Đồ hoặc Phật, chỉ
vì do con đường du nhập vào Trung Quốc khác nhau, nghĩa là qua hai ngôn
ngữ trung gian khác nhau. Danh từ Buddha trong Phạn văn được phiên âm là
Phù Đồ khi qua nước Đại Hạ và But khi qua các nước nhỏ vùng Tân Cương,
Trung Á. Nhà Phật học Quý Tiễn Lâm, với kiến thức uyên bác và những luận
chứng thuyết phục về ngữ học đã chứng minh cho thấy trong văn tự Hồi
Hột, Buddha biến thành trọc âm (âm đục) But. Và các tín đồ Phật giáo
Trung Quốc buổi sơ kỳ đã dùng chữ Phật để phiên âm lại danh từ But, vì
trọc âm xưa của Phật (chữ Hán) cũng là But.
Trong kinh nhật tụng bằng văn tự Hồi Hột, ta thấy cách tụng Nam mô Phật/ Pháp/Tăng như sau:
Quy mạng Phật (Nam mô Phật) => namo but
Quy mạng Pháp (Nam mô Pháp) => namo drm
Quy mạng Tăng (Nam mô Tăng) => namo sag
Cách phiên âm của từ Buddha trước khi vào Trung Quốc, đã thay đổi qua ngôn ngữ trung gian như sau :
1. Ấn Độ => Đại Hạ (Đại Nhục Chi) => Trung Quốc.
Buddha => bodo, boddo, boudo => Phù Đồ.
2. Ấn Độ => Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á => Trung Quốc.
Buddha => But=> Phật/Bột.
Sau đây là bảng đối chiếu cách phiên âm từ Buddha trong một số văn bản, theo Quý Tiễn Lâm:
Đại Hạ bodo,boddo,boudo
Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á but
Văn tự Ba Tư cổ (Thánh điển của Bái hỏa giáo) bwt
Văn tự Ma Ni giáo của An Tức bwt/but
Văn tự Ma Ni giáo của Mễ Đặc bwty,pwtyy
Kinh điển Phật giáo Mễ Đặc pwt
Các nước nhỏ vùng Tân Cương, Trung Á but
Văn tự Ba Tư cổ (Thánh điển của Bái hỏa giáo) bwt
Văn tự Ma Ni giáo của An Tức bwt/but
Văn tự Ma Ni giáo của Mễ Đặc bwty,pwtyy
Kinh điển Phật giáo Mễ Đặc pwt
Như vậy, chính vì do cách phiên âm qua trung gian của ngôn ngữ vùng Trung Á 3,
trong khoảng trung thế kỷ, mà người Trung Quốc đã dùng từ Phật để phiên
âm từ Buddha của tiếng Phạn, chứ hoàn toàn không phải là cách phiên âm
trực tiếp. Điều này cho thấy chữ Phật có thể được đọc là Bụt trong thời
cổ. Đây là những luận cứ khoa học về ngữ âm mà chúng tôi thấy là đáng
tin cậy hơn cả.
Như vậy, chúng ta có thể tạm kết luận: Phật hay Bụt
đều là hai cách đọc khác nhau của một từ duy nhất. Và từ này không phải
được phiên âm trực tiếp từ danh từ Buddha trong Phạn văn, mà thông qua
ngôn ngữ trung gian của vùng Trung Á.
Chúng tôi hy vọng rằng bài viết ngắn này giải thích
được phần nào nguồn gốc của hai từ Bụt và Phật. Song theo thiển ý, đã là
Phật tử thì chúng ta cũng không cần phải quan tâm quá đáng với sự phân
biệt giữa Bụt và Phật như các nhà nghiên cứu, mà hãy tự hỏi từ Bụt có
đem lại an lạc tâm linh hơn từ Phật hay không, và ngược lại? Đạo Phật
chủ trương “Bất hoại giả danh nhi thuyết thực tướng”. Trong kinh Lăng Già,
Đức Phật luôn nhắc nhở môn đồ rằng tất cả ngôn thuyết đều do nhân duyên
hòa hợp mà thành, cho nên ngôn thuyết không thể nói về Đệ nhất nghĩa
đế, huống chi là hai từ Bụt và Phật?HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).23/4 /2012.
No comments:
Post a Comment