Shigatse Và Dòng Ban-Thiền Lạt-Ma
Nhìn
bản đồ, ta thấy Gyantse quả thật là ngã tư của nhiều conđường lữ khách. Cách
Gyantse khoảng 300km về phía nam là Gangtok, thủ đô nước Sikkim. Từ Gyantse ta
chỉ đi về phía tây thêm 100km là đến Shigatse, đô thị lớn thứ hai của Tây Tạng.
Từ Shigatse mà đi về hướng tây nam thêm khoảng 500km là đến Kathmandu, thủ đô
Nepal. Mấy năm về trước tại Kathmandu tôi đã ngắm đường đi Tây Tạng, nào ngờ hôm
nay tôi đứng trên đất Tây Tạng nhìn về Nepal.
Thế
nhưng hướng về miền tây Tây Tạng, lòng tôi rộn rã không vì gì khác mà chỉ vì
Ngân sơn [21], nó còn cách Gyantse chỗ tôi đang đứng đến hơn 850km, chỗ đó là
niềm mơ ước nhiều năm nay của tôi. Tôi mơ ngày đến Ngân sơn lúc đứng tại cao
nguyên Simla tại Ấn Độ mười năm về trước. Đến Ngân sơn làđến núi Tu-di trên địa
cầu. Đến Ngân sơn là thăm trú xứ của thánh thần, là đến nơi sinh ra các sông
thiêng như sông Hằng của Ấn Độ, như sông Yarlung Tsangpo của Tây Tạng. Nếu đến
được đó tôi sẽ đi thêm khoảng 200km nữa là đến Tsaparang, kinh đô tàn tạ của
vương quốc Guge. Người ta không thể được tất cả, phải chăng phải còn một chỗ
chưa đạt tới để lòng còn mơ ước, tôi tự nhủ.
Đường
từ Gyantse tới Shigatse là một con đường đi qua một cao nguyên xanh tươi nằm
trên độ cao 4000m, chạy dọc theo con sông Nyang Chu. Nyang Chu chỉ là một con
sông nhỏ, nước trong xanh. Tây Tạng là xứ thưa dân, xe chạy cứ cả vài chục cây
số mới thấy xuất hiện làng mạc ruộng đồng. Thỉnh thoảng vài tu viện đổ nát hay
phế tích nằm cao trên đỉnh đồi hiện ra như một tiếng gọi trầm mặc vang vọng từ
quá khứ. Đâu phải chỉ vương quốc Guge, tất cả các triềuđại của Tây Tạng đều đang
tàn tạ.
Khoảng
20km trước khi đến Shigatse ta có thể thấy tu viện Shalu. Tu viện này mới đầu
được xây năm 1040, có kiến trúc hỗn hợp của người Hán và Tây Tạng. Ngày nay ta
còn thấy mái của tu viện được lợp bằng một thứngói có tráng men xanh của đời nhà
Nguyên, đó loại ngói ta hay thấy tại các chùa của Trung Quốc. Ngói này cũng là
loại ngói tráng men của các cung điện xứHuế. Dưới mái ngói này của tu viện Shalu
thuộc phái Tát-ca, Buton đã tu học và kết tập kinh điển thành các bộ Kanjur và
Tanjur. Trong tu viện Shalu này Buton cũng đã lấy tên của tu viện mà sáng lập ra
bộ phái Shalupa.
Xe
đến Shigatse lúc trời đã tối. Đây là đô thị lớn thứ hai sau Lhasa và bộmặt của
nó đang dần dần biến thành một thành phố nhỏ của Trung Quốc với các sạp hàng với
cửa cuốn bằng kim loại. Lại những cơ quan nhà nước với hai người lính bồng súng
trước cửa. Cách đó không xa là các tiệm ăn, trước mỗi tiệm cũng có hai người
Hán, nhưng là hai cô gái đứng trước cửa mời chào chúng tôi.
Shigatse
đã được xây dựng trên một độ cao 3900m khoảng trong thế kỷ thứ 13. Shigatse có
một tu viện nổi tiếng, đó là Tashilhunpo, nó được kiến lập năm 1447. Tu viện này
do các đệ tử của Tông-khách-ba trụ trì. Nó nổi tiếng ở chỗ các sư trưởng đầu
tiên của nó chính là vị Đạt-lai thứ nhất và thứhai và các vị sư trưởng thừa kế
được gọi là Ban-thiền lạt-ma. Khi vị Đạt-lai thứ năm lên ngôi thì vị thầy của
ông tên là Choki Gyeltshen (1475-1542) được phong làm Ban-thiền đời thứ tư. Vì
Đạt-lai là hiện thân của Quán Thế Âm nên Ban-thiền, thầy của Đạt-lai được xem là
hiện thân của A-di-đà. Các vị Đạt-lai và Ban-thiền được xem là đời đời làm thầy
trò của nhau, vị này ấn chứng cho vịkia khi một vị được khám phá là mới tái
sinh. Potala là cung điện của dòngĐạt-lai và Tashilhunpo là tu viện của dòng
Ban-thiền. Hai dòng đều có trách nhiệm giáo hóa của mình nhưng công việc chính
sự chỉ do các vị Đạt-lai nắm giữ.Thế nhưng trong thế kỷ hai mươi, với sự có mặt
của Trung Quốc, vấn đề không cònđơn giản như thế.
Tôi
đến tu viện Tashilhunpo, từ xa đã thấy mái điện mạ vàng sáng rực. Điện có nhiều
công trình, được bao bọc xung quanh bởi một lớp tường thành mà tín đồ Tây Tạng
nào cũng đi một vòng trước khi bước vào. Toàn thể công trình của điện chiếm một
diện tích 150.000 mét vuông. Điện được xây dựng để thờDi-lặc, vị Phật tương lai
và vì thế trong chính điện ta thấy ngay bức tượng vĩ đại của Ngài với chiều cao
27m, đúc toàn bằng đồng. Tôi yêu tượng Di-lặc của Tây Tạng hơn cách trình bày
Ngài của Trung Quốc. Mỗi lần đến đảnh lễ tượng Di-lặc của Tây Tạng tôi đều nhìn
lên để thấy cặp mắt xanh biếc đầy trí tuệ của Ngài. Tôi nhớ Ung Hòa cung tại Bắc
Kinh với bức tượng Di-lặc cao 18m đẽo từ một cây gỗ trầm hương. Nơi đó Ngài đã
nhắc tôi "không có gì được thành tựu hết".Đó là cách nói của Ngài mà ngày nay ta
sẽ nói một cách hiện đại là "không có gì tồn tại trên cơ sở tự tính cả" [22] .
Bức tượng tại Tashilhunpo cao hơn tại Ung Hoà cung, cặp mắt Ngài vẫn xanh biếc,
hình như nhìn ngắm những gì diễn ra tại Shigatse lịch sử này một cách bí ẩn và
hóm hỉnh. Vì rằng những gì xảy ra tại Shigatse cũng chẳng có tự tính, tất cả đều
dựa lên nhau mà thành.
Điều
gì đã xảy ra tại Shigatse và Tashilhungpo ? Đã từ lâu Trung Quốc tìm cách chia
rẻ hai dòng Đạt-lai và Ban-thiền. Khoảng năm 1924Đạt-lai thứ 13 và Ban-thiền thứ
9 có mâu thuẫn với nhau, kể từ khoảng thời gianđó ta có thể nói Ban-thiền chủ
trương thân Trung Quốc, còn quan điểm củaĐạt-lai là duy trì và phục hồi nền độc
lập chính trị của Tây Tạng. Khi Trung Quốc tiến quân vào Tây Tạng và Đạt-lai thứ
14 lưu vong đi Ấn Độ năm 1959 thì sau đó vị Ban-thiền thứ 10 cũng bị giam lỏng
tại Bắc Kinh. Đến năm 1978 Bắc Kinh bỗng nhiên tôn vị Ban-thiền lên làm phó chủ
tịch Quốc hội. Mưu kế đó không mới mẻ cho lắm, chẳng qua là một biện pháp chính
trị để giữ "mặt trận đoàn kết dân tộc". Tháng giêng năm 1989, Ban-thiền được về
lại Shigatse, đến tu viện Tashilhunpo để làm lễ tế tự cho tháp mới xây của các
vị Ban-thiền từ thứ 5đến thứ 9. Trong buổi lễ đó, bỗng nhiên Ban-thiền thứ 10
chết, lúc đó ông mới 51 tuổi. Ông ít khi được về lại Tashilhunpo, nay về lại tu
viện của mình sau khi bị giam lỏng và chết ngay tại lúc tế tự các tiền thân của
chính mình. Bí ẩn thay cái chết của ông. Về mặt chính thức thì ông chết vì bịnh
tim, nhưng ai biết được điều gì đã xảy ra.
Ngày
nay tại Tashilhunpo khách có thể đi thăm tháp thờ di cốt hai vị Đạt-lai thứ nhất
và thứ hai, tháp của các vị Ban-thiền thứ 5 đến thứ 9. Và kể từ khoảng 10 năm
nay có thêGm tháp của vị Ban-thiền thứ 10 mà hình chụp của ông cho thấy là một
người thông thái và khỏe mạnh. Dưới chân Di-lặc bao nhiêu điều đã xảy ra, hẳn
chỉ có Ngài mới biết rõ. Đối với Di-lặc, cái chết hiển nhiên không phải là sự
chấm dứt. Còn đối với tôi, cái chết bí ẩn của Ban-thiền chỉ lập lại thêm một lần
nữa, là Phật giáo hãy xa rời triều đình và quyền lực, hãy bỏ lại đằng sau "tám
bận tâm thế gian" [23] . HET=OM MANI PADME HUM.( 3 LAN ).26/4/2012.GESHE TASHI TSERING.( MHDT ).
GB
No comments:
Post a Comment