Chương 02
Hấp Hối
Thời Khắc Quan Trọng Của Cuộc Đời
Cái chết đến với tất cả một
cách tự nhiên. Cái chết là ngả tư dẫn tới tương lai.
Chúng ta phải đối xử với nó bằng sức mạnh kinh nghiệm Thiền.
Chúng ta phải đối xử với nó bằng sức mạnh kinh nghiệm Thiền.
Trong chương này chúng ta sẽ xét tiến
trình chết và cách đối xử với cái chết khi nó xuất hiện, gồm cả trí thức và kinh
nghiệm của một số "delog" là những người đã trải qua tiến trình chết và trở lại
thế gian để kể những kinh nghiệm của mình.
Với sự xuất hiện của "cơn chí tử", những
bệnh tật, bị thương, hay những sự kiện khác đưa đến cái chết, chúng ta bước vào
tiến trình chết. Trong tiến trình chết, những thành phần tạo nên thể xác và tâm
trí đều sẽ tan rã tất cả. Đối với những hành giả thành tựu, tiến trình chết kết
thúc với sự xuất hiện của chân tánh. Đối với người thường, tiến trình chết kết
thúc với sự ngừng thở và rơi vào vô thức của sự chết.
Đa số mọi người sẽ trải qua những kinh
nghiệm về tiến trình chết được mô tả ít nhiều dưới đây, nhưng những hành giả
thành tựu trọn vẹn có thể không cần trải qua những kinh nghiệm này. Khi sắp
chết, với sức mạnh thiền quán, chúng ta có thể hợp nhất chân tâm của mình với
cõi chân không và trí tuệ, đó là Phật quả. Nếu chứng ngộ và duy trì sự hợp nhất
này, như vậy chúng ta đã đắc Phật quả. Nếu không thể làm được như vậy, thì qua
pháp Phowa, chúng ta có thể chuyển di thần thức tới một cõi tịnh độ của các vị
Phật và tái sinh ở đó.
Tiến trình chết
Khi bước vào tiến trình chết, hay lúc hấp
hối, thần thức dần dần rời khỏi thể xác khi những thành phần sắc, thọ, tưởng,
hành, thức của thân tâm bắt đầu tan rã. Trước hết những tinh lực của thể xác trở
nên hỗn loạn, rồi sau đó, chúng ta trải qua sự phân hủy của năm thành phần nói
trên.
Những nguyên tố và những tinh lực của cơ
thể
Để có thể theo dõi tiến trình phân giải
được mô tả dưới đây, chúng ta nên hiểu một ít chi tiết về cơ thể con người dựa
theo huyền học Phật Giáo. Mỗi phần tử của cơ thể được cấu tạo bởi bốn yếu tố hay
sự phối hợp của chúng: đất, nước, gió và lửa. Đất làm thành những phần cứng của
cơ thể như xương và thịt; Nước là những chất lỏng như máu, bạch huyết và nước
tiểu; Lửa là thân nhiệt và sự trao đổi chất; Gió là hơi thở cũng như sự di
chuyển của các chất và các tinh lực của cơ thể. Còn có nguyên tố thứ năm, không
(không gian), chứa đựng bốn nguyên tố kia. Về mặt thể xác thì nó tương ứng với
những khoảng không trong cơ thể.
Thêm vào những phương diện vật chất của cơ
thể là hệ thống những lực tinh tế ở bên trong. Ba thành phần là hệ thống tinh
lực là khí, kinh mạch và tính chất.
Kinh mạch (tsa, nadi) là mạng lưới vô số
kinh mạch tạo thành những đường dẫn tinh lực của cơ thể. Ba kinh mạch chính là
kinh mạch trung ương, kinh mạch phải và kinh mạch trái.
Khí (lung, prana) là những sức mạnh của
tinh lực thể hiện sự di chuyển qua những kinh mạch. Có khi chúng được gọi là gió
vì những hoạt động khác của sinh lực:(a) khí đi lên, giúp sự nói, tiếng nói, và
sự nuốt; (b) khí đi theo lửa, gây ra sức nóng của sự tiêu hóa; và (c) khí đi
xuống, giúp những sự bài tiết.
Tinh chất (thigle, bindu) là những tinh
chất lỏng trắng và đỏ di chuyển qua những kinh mạch của cơ thể bằng tinh lực
khí. Chúng được mô tả là những giọt hay quả cầu lực sáng tạo cần yếu mà chúng ta
nhận từ Cha Mẹ vào lúc thọ thai. Tinh chất trắng là tinh lực nam từ Cha của
chúng ta, và tinh chất đỏ là tinh lực nữ của Mẹ. Trong tiến trình chết, hai tinh
lực này bắt đầu quy tụ ở tim. Sự quy tụ này là lúc chết.
Nhiều giáo lý huyền học Phật Giáo dùng
những tinh lực của cơ thể này làm phương tiện tu tập cần yếu. Thí dụ, Đạo Sư
Tsele dạy các đệ tử "tu luyện về kinh mạch như chỗ ở, về khí như sự di chuyển và
về tinh chất giác ngộ như sự trang trí". Khi chứng nghiệm đại lạc của tinh chất,
các hành giả di chuyển tâm và tinh lực của mình cùng với nhau qua những kinh
mạch, gieo tinh chất hoan lạc. Kết quả là họ đưa tâm và khí vào kinh mạch trung
ương và giữ nó ở đó không lay động. Như vậy kinh mạch trung ương trở nên còn hơn
là một kinh mạch của thể xác. Nó trở thành đạo tu tập và quả chứng đắc, cõi vô
thượng, thoát khỏi những hạn chế của ý niệm, sự phân biệt, và những khuynh
hướng.
Sự phân giải của các nguyên
tố
Khi tiến trình chết bắt đầu, khí hay tinh
lực, trước hết trở nên hỗn loạn và bắt đầu phân tán, và chúng ta đi qua hai giai
đoạn của sự phân giải. Trong giai đoạn thứ nhất, tức là sự phân giải bên ngoài,
những lực của bốn nguyên tố vật chất: đất, nước, gió và lửa của thể xác tan rã,
và rồi các giác quan ngừng hoạt động. Trong giai đoạn thứ hai, sự phân giải bên
trong: những ý nghĩ và cảm xúc của tâm trí ngừng lại. Mỗi giai đoạn này được kèm
theo những chứng nghiệm nội tâm nào đó.
Những chứng nghiệm nội tâm diễn ra trong
tiến trình chết có tính chất gì? cần phải hiểu rằng khi chúng ta rút sự cảm nhận
hướng ngoại vào bên trong và tập trung tất cả sự chú ý vào những sự biến đổi
đang diễn ra trong cơ thể trong tiến trình chết, tất cả thế giới của chúng ta
trở thành sự kiện riêng biệt đó. Đối với chúng ta, toàn thể vũ trụ trở thành
những biến đổi diễn ra trong cơ thể của mình lúc đó. Đó là lý do những sự biến
đổi diễn ra dù chỉ trong một giọt máu sẽ có cảm giác trái đất tan vỡ. Một sợi
tóc trên đầu của chúng ta có vẻ giống như một cái cây lớn. Thói quen sợ hãi cũng
như những khuynh hướng và những cảm xúc khác sẽ xuất hiện trong hình thức, hình
ảnh những sinh linh, những cõi giới, những âm thanh và những cảm xúc. Đây là một
số những chứng nghiệm mà chúng ta sẽ thấy được mô tả trong lời kể của các
"delog" ở phần sau của chương này.
Trước hết, nguyên tố đất của thể xác tan trong nguyên tố nước. Vào lúc này chúng ta cảm thấy mình đang mất năng lực hay sự kết nối với nguyên tố đất của thân xác vốn có những tinh chất cụ thể, sức mạnh, trụ tại chỗ và ở trên mặt đất. Mặt của chúng ta xanh xao giống như cơ thể không còn sinh lực. Chúng ta có thể cảm thấy mình đang rơi xuống hay chìm xuống, và đất đang sụp ở phía dưới mình. Chúng ta không thể ngồi dậy hay đứng lên được, chúng ta mất thăng bằng, và cảm thấy như dang bị ép bởi một vật nặng. Đó là lý do những người hấp hối thường yêu cầu:" xin kéo tôi lên. Tội cảm thấy như mình đang chìm xuống". Chúng ta có thể cảm thấy mờ mịt và thấy những hình ảnh huyễn ảo.
Trước hết, nguyên tố đất của thể xác tan trong nguyên tố nước. Vào lúc này chúng ta cảm thấy mình đang mất năng lực hay sự kết nối với nguyên tố đất của thân xác vốn có những tinh chất cụ thể, sức mạnh, trụ tại chỗ và ở trên mặt đất. Mặt của chúng ta xanh xao giống như cơ thể không còn sinh lực. Chúng ta có thể cảm thấy mình đang rơi xuống hay chìm xuống, và đất đang sụp ở phía dưới mình. Chúng ta không thể ngồi dậy hay đứng lên được, chúng ta mất thăng bằng, và cảm thấy như dang bị ép bởi một vật nặng. Đó là lý do những người hấp hối thường yêu cầu:" xin kéo tôi lên. Tội cảm thấy như mình đang chìm xuống". Chúng ta có thể cảm thấy mờ mịt và thấy những hình ảnh huyễn ảo.
Thứ hai, nguyên tố nước của thể xác tan trong nguyên tố lửa. Đến đây chúng ta có thể cảm thấy mình đang mất năng lực nước hay sự kết nối với nguyên tố nước vốn ướt, lỏng và chịu đựng. Chúng ta có thể cảm thấy rất khát, Nước bọt nhểu xuống, nước mắt rơi rồi lại khô. Đó là lý do mà người sắp chết thường yêu cầu:"Xin cho tôi chút nước, tôi khát nước". Chúng ta có thể cảm thấy ngạt thở và khó chịu và thấy những hình ảnh giống như khói xuất hiện.
Thứ ba, nguyên tố lửa của thể xác tan trong nguyên tố gió. Tới đây chúng ta có thể cảm thấy mình đang mất năng lực lửa hay sự kết nối với nguyên tố lửa vốn là hơi ấm, làm cho chín muồi và thiêu đốt. Nếu người hấp hối đã là một hành giả thành tâm và có lối sống lập công đức với lòng từ bi và phục vụ người khác, sự phân tán sức nóng từ cơ thể bắt đầu ở chân và di chuyển lên phía tim. Nếu người hấp hối đã sống một đời xấu xa, hư hỏng và vị kỷ thì sự phân tán sẽ bắt đầu ở phần thân trên và di chuyển xuống phía tim. Trong cả hai trường hợp, rốt cuộc sức nóng sẽ phân tán từ tim. Người đó có thể không còn trông thấy gì nữa, mọi thứ có vẻ giống như những tia lửa đỏ trên một hậu cảnh tốt.
Thứ tư là nguyên tố gió của thể xác tan
nhập vào thần thức. Vào lúc này chúng ta cảm thấy bị mất năng lực gió hay sự kết
nối với nguyên tố gió vốn nhẹ và có tính lưu chuyển. Chúng ta cố gắng thở. Hơi
thở vô trở nên ngắn hơn và hơi thở ra dài hơn. Rồi "hơi thở bên ngoài"
chấm dứt và hai mắt trợn lên. Vào lúc này, những người đã sống đời sống không
tốt, có thể trông thấy ảo ảnh trong hình thức những hình ảnh đáng sợ, còn những
người đạo đức có thể trông thấy những hình ảnh vui vẻ. Chúng ta cũng có thể
trông thấy những hình ảnh giống như ánh sáng đèn.
Cuối cùng ý thức tan nhập vào cõi không.
Vào lúc này "hơi thở bên trong" chấm dứt.
Các nguồn tài liệu khác nhau có ý kiến khác nhau về lúc chấm dứt hơi thở bên ngoài và bên trong. Lúc chấm dứt này xảy ra khác nhau tùy theo mỗi người, vì mỗi người có những cá tánh riêng (individual natures) của họ. Nói chung thì khi hơi thở của phổi ngừng lại sau ba hơi thở dài, thì đó là lúc chấm dứt hơi thở bên ngoài. Khi thần thức rời thể xác hoàn toàn thì đó là lúc hơi thở bên trong cũng chấm dứt.
Nếu cái chết của chúng ta là do nghiệp báo
sẽ rất khó cho chúng ta đảo ngược được sự chết. Nếu cái chết do hoàn cảnh bất
ngờ, không do nghiệp báo, chúng ta vẫn có thể được hồi sinh bằng phương tiện y
khoa hay tâm linh. Nhưng trong những trường hợp bình thường, chúng ta không thể
được mang trở lại đời sống như những delog. Họ đã đi xa hơn giai đoạn này nhiều
nhưng họ đã sống lại.
Ba sự phân giải bên trong
Khi hơi thở bên trong ngừng lại và tâm đã
mất sự kết nối với những nguyên tố của thể xác, những kinh mạch, khí và tinh
chất của cơ thể cũng sẽ phân rã. Hơi thở của chúng ta nhập vào hư không. Kết quả
là trong lúc đó, ba giai đoạn tan rã bên trong tinh tế, tinh tế hơn, và tinh tế
nhất, hay ba sự rút lui, sẽ diễn ra:
1.Thần thức tan nhập vào "sắc
tướng". Vào lúc này, tinh
chất trắng mà chúng ta đã nhận được từ Cha đi xuống từ đỉnh đầu qua kinh mạch
trung ương. Chúng ta thấy mọi thứ có màu
" hơi trắng", không sáng bóng hay trắng
sáng như ánh sáng ban ngày, mà trắng giống như ánh trăng trên bầu trời không
mây. Tất cả ý nghĩ sân hận chấm dứt.
2. Sắc tướng tan nhập vào "gia
tăng". Vào lúc này, từ
đáy kinh mạch trung ương ở bụng, tinh chất đỏ mà chúng ta đã nhận được từ Mẹ đi
lên kinh mạch trung ương. Mọi thứ có vẻ hơi đỏ, giống như ánh sáng mặt trời lặn
trên bầu trời không mây. Tất cả những ý nghĩ tham chấp chấm dứt. Nhưng có những
người chứng nghiệm hình ảnh hơi đỏ trước, hình ảnh hơi trắng sau. Theo Đại sư
Tsele, đây là lúc tốt nhất để làm pháp chuyển di thần thức phowa.
3. "Gia tăng tan nhập vào "thành
tựu". Vào lúc này, thần
thức do lực của khí, trở nên được bao bọc giữa hai tinh chất Cha Mẹ và mọi thứ
trở nên "đen", giống như bầu trời không mây trong một đêm thu không trăng. Đến
đây, những ý nghĩ mê muội chấm dứt.
Bây giờ khí, tinh chất và thức tụ tập ở
nơi tim. Sự kiện này được gọi là hư không tan nhập vào quang minh. Sự xuất hiện
của "quang minh căn bản" sẽ diễn ra kế tiếp, báo trước sự đi vào giai đoạn kế
đó, trạng thái chân tánh, sẽ nói đến ở chương sau.
Sau sự tan nhập của hư không vào quang
minh, người bình thường sẽ rơi vào vô thức, nhưng có những lối diễn dịch khác
nhau về những gì xảy ra khi quang minh căn bản xuất hiện. Theo đạo sư Karma
Lingpa thì ở giữa sự chấm dứt của hơi thở bên ngoài và bên trong, nếu là hành
giả cao cấp, chúng ta sẽ thấy quang minh chân tánh khi khí của cơ thể đi vô kinh
mạch trung ương. Nhưng người bình thường thì sẽ trở nên vô thức và hơi thở bên
trong sẽ ngừng lại. Sau đó chân tánh quang minh sẽ xuất hiện. Jigme Lingpa cũng
viết: "Khi màu đen xuất hiện, sẽ bất tỉnh trong cõi không. Và tám sinh lực
xuất hiện trở lại và sự bất tỉnh sẽ tan biến. Lúc đó sự sáng của trạng thái
nguyên thủy sẽ xuất hiện. Trong sáng và lâu dài, giống bầu trời mùa thu. Trụ
trong chân không và quang minh, không mê muội và không bị che
phủ".
Kyabje Dudjom Ringpoche nói rằng khi khí
tan nhập vào thần thức, tâm trí sẽ rơi vào trạng thái vô thức lâu dài. Nhưng đối
với các Thầy thành tựu hay hành giả kinh nghiệm thì sau khoảng hai phút sự vô
thức sẽ tan nhập vào hư không và hư không sẽ tan nhập vào quang
minh.
Cần phải biết một điều rất quan trọng, đó
là không phải tất cả những người hấp hối đều có cùng những kinh nghiệm theo cùng
thứ tự. Tsele viết rằng những lời giải thích về sự phân giải chỉ là những điều
tổng quát về cách người ta trải qua những chứng nghiệm đó, nhưng không thể nói
chắc là tất cả sẽ có những chứng nghiệm giống nhau. Mỗi người người có một loại
kinh mạch, khí và tinh chất khác nhau, và mỗi người sẽ chịu một loại bệnh tật,
lực xấu hay tại nạn (khi chết) khác nhau. Do vậy sự phân giải có thể diễn ra cho
mọi người theo những thứ tự khác nhau, hay có thể diễn ra cùng lúc.
Những chứng nghiệm này kéo dài bao lâu ?
Tsele viết rằng: "thời gian diễn ra những sự phân giải bên ngoài và bên trong
khác nhau. Đối với đa số người, mỗi chứng nghiệm có thể kéo dài một khoảnh khắc,
và ba sự phân giải bên trong đặc biệt sẽ không kéo dài hơn một khoảnh
khắc.
Chúng ta nên làm gì khi hấp hối
?
Những người bình thường nên làm gì đối với
những giai đoạn phân giải này ? Trước hết chúng ta phải cố gắng biết là mình
đang ở trong tiến trình chết. Chúng ta nên cố gắng giữ càng nhiều an tĩnh càng
tốt trong những chứng nghiệm về sự phân giải này và không hốt hoảng. Chúng ta
nên cố gắng nhớ rằng mọi sắc tướng và chứng nghiệm phù du chỉ là những sự phản
chiếu của tâm và cảm xúc của chính mình, giống như những giấc mộng. Chúng ta
không nên bám giữ vào chúng, khó chịu vì chúng, hay sợ chúng. Chúng ta nên cảm
nhận mọi thứ như con đường tâm linh của mình. Trụ trong an tĩnh, chúng ta nên
bình tĩnh để cho bất cứ tình trạng xuất hiện và biến đi.
Chúng ta nên nhớ dùng bất cứ lối tiếp cận
tâm linh hay kinh nghiệm tâm linh nào mà mình đã quen thuộc trong đời sống.
Những lối tiếp cận tâm linh quen thuộc sẽ hiệu quả hơn và dễ hơn cho chúng
ta.
Chúng ta nên nhớ đến nguồn gia hộ cho mình, như các vị Phật, các vị đạo sư, những đối tượng tâm tốt, những giáo lý, những chứng nghiệm thiền quán, và dùng những kinh nghiệm và ký ức này làm sự hỗ trợ tâm linh của mình. Cố gắng nhớ những pháp môn tu tập của mình, tất cả những chứng nghiệm tâm linh và những lực tâm linh của mình, rồi hợp nhất với chúng. Cảm thấy các vị Phật, đạo sư và thần thánh luôn có mặt với mình, đang bảo hộ và hướng dẫn cho mình. Từ các vị, hãy để cho ánh sáng an lạc, chân không và oai lực, hoan hỷ đến với mình, tràn ngập mình và chuyển hoá thể xác của mình thành thân ánh sáng giống như cầu vòng, tỏa ra an lạc và sức mạnh. Rồi cố gắng an trụ trong thân tâm linh đó suốt tiến trình chết.
Chúng ta nên nhớ đến nguồn gia hộ cho mình, như các vị Phật, các vị đạo sư, những đối tượng tâm tốt, những giáo lý, những chứng nghiệm thiền quán, và dùng những kinh nghiệm và ký ức này làm sự hỗ trợ tâm linh của mình. Cố gắng nhớ những pháp môn tu tập của mình, tất cả những chứng nghiệm tâm linh và những lực tâm linh của mình, rồi hợp nhất với chúng. Cảm thấy các vị Phật, đạo sư và thần thánh luôn có mặt với mình, đang bảo hộ và hướng dẫn cho mình. Từ các vị, hãy để cho ánh sáng an lạc, chân không và oai lực, hoan hỷ đến với mình, tràn ngập mình và chuyển hoá thể xác của mình thành thân ánh sáng giống như cầu vòng, tỏa ra an lạc và sức mạnh. Rồi cố gắng an trụ trong thân tâm linh đó suốt tiến trình chết.
Chúng ta phải liên tục nhắc nhở
mình"Mình phải trụ với chứng nghiệm tâm linh của mình". Điều này có ảnh
hưởng tốt và thực sự giúp chúng ta nhớ lại những kinh nghiệm của mình, ngay cả
trong tiến trình chết đầy khó khăn. Nếu trụ với chứng nghiệm của mình, tiến
trình chết sẽ bớt khó khăn và sẽ đưa chúng ta đến một cõi tịnh độ hay một sự tái
sinh an lạc và lành mạnh.
Nếu đã chứng ngộ chân tâm khi còn sống,
chúng ta phải cố gắng nhớ trụ trong ý thức về chân tánh này. Dù điều gì xảy ra
cũng cố gắng thấy tất cả chỉ là sự biểu lộ chân tánh của mình, thay vì theo đuổi
và bám giữ vào những ý nghĩ và những chứng nghiệm với sự chấp thủ hoặc sân
hận.
Nếu chúng ta đã được biết và tu tập về
chân tâm và những linh ảnh quang minh của nó, thì đây là lúc để trụ trong chứng
nghiệm đó. Đây cũng là lúc các hành giả nhắc nhở chúng ta về những chứng nghiệm
mà chúng ta đang trải qua. Longchen Rabjan khuyên: "Trong tiến trình chết,
những nguyên tố của thể xác sẽ phân giải. Người ta sẽ thấy những ảo ảnh mờ mịt,
méo mó. Rồi đất, nước, gió, lửa và hư không của thể xác sẽ phân giải. Năm giác
quan sẽ ngừng hoạt động. Lúc đó nên nhắc nhở mình: "Mình đang hấp hối nhưng
không cần phải lo ngại".
Rồi hãy xét :"sự chết là gì ? ai đang hấp
hối? sự chết có ở đâu ?".
Sự chết chỉ là dấu hiệu trả lại bốn nguyên
tố mà mình đã vay mượn.
Chân tánh là vô sanh bất tử.
Trong trạng thái thanh tịnh, chết là sự
hợp nhất của chân không và trạng thái tự nhiên của Pháp Thân tức Thân Vô
Thượng".
Cứ xét :"sự chết là gì ? ai đang hấp hối? sự chết có ở đâu ?” Vì sự chết không có ở đâu cả nên nó tuyệt đối không có thật. Hãy can đảm và tin tưởng vào điều này.
Jigme Lingpa viết rằng trong tiến trình chết, điều tốt nhất để làm là an trụ trong chân tánh. Điều tốt thứ hai là chuyển di thần thức đến một cõi tịnh độ. Ít nhất thì cũng an trú trong Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Cầu nguyện vị đạo sư của mình, và hợp nhất tâm của mình với tâm giác ngộ của Ngài.
Guru Rinpoche khuyên chúng ta hãy tu tập,
hãy cầu nguyện không bám giữ một cái gì lúc chết, hãy nhớ lại những giáo lý, và
hãy thiền quán hợp nhất chân tánh của mình với chân không: "khi cái chết đến
gần, hãy buông bỏ sự chấp thủ vào bất cứ thứ gì, chú tâm vào những lời dạy sáng
tỏ không lay động, và chuyển di chân tánh vô sanh đến trạng thái chân
không".
Những lời dạy như vậy của các vị đạo sư về
hấp hối và sự chết là những điểm quan trọng để ghi nhớ và ứng dụng, không chỉ
trong tiến trình chết mà còn trong tất cả bốn giai đoạn chuyển tiếp của đời
sống, kể cả kiếp sống hiện tại này.
Kinh nghiệm chết của các
delog
Để minh họa những gì xảy ra khi chúng ta
vượt qua cửa tử, tôi kể tóm tắt mười một bản tường thuật của các delog. Tất
nhiên những chuyện này là kinh nghiệm của cá nhân. Nên nhớ là người ta sẽ có
những kinh nghiệm chết khác nhau, vì những sự khác nhau về tâm trí, thể chất,
nghiệp quả, ảnh hưởng văn hóa, khuynh hướng thói quen, và hoàn cảnh lúc chết của
họ.
Như đã nói, các delog là những người rất
mộ đạo, và nhiều người là những vị Thầy thành tựu. Họ trở lại đời sống vì đã có
những việc chưa làm xong. Một phần kinh nghiệm của họ sẽ khác với những gì bạn
hay tôi sẽ gặp lúc chết, nhưng có thể có những sự tương đồng đối với những người
có bối cảnh, trí tuệ, cảm xúc hay văn hóa giống nhau.
Trong những lời kể này, chúng ta chú ý tới
tiến trình chết. Chúng ta sẽ trở lại với phần lớn những delog này ở chương 3 và
chương 5, để thấy kinh nghiệm sau khi chết đi tiếp như thế nào vào con đường của
chân tánh và cõi trung ấm bardo.
Những năng lực phân rã: kinh nghiệm của
Karma Wangdrin
Karma Wangdrin đã chết trong bảy ngày. Ra
đời ở Lhotrag, miền Nam Tây Tạng, bà là người có học và mộ đạo. Chồng của bà là
Depai Drung, trưởng làng Oktra. Bà đã đến Tu Viện Traphu học giáo lý với Lama
Norbu Trashi, và đã thấy linh ảnh của Tara Trắng cũng như của đại sư Liên Hoa
Sanh.
Karma đã nhập thất một năm để cầu nguyện
và hành thiền. Một hôm bà bất ngờ ngã bệnh, không muốn ăn gì và không nhận ra
những người thân quen. Ngày hôm sau, một người bạn vừa khóc vừa nói với
bà:"chị ơi, mắt của chị sâu, mũi của chị gãy (những dấu hiệu của sự chết).
Tôi có nên gọi chồng chị đến đây không?".
Karma nghĩ thầm: "nếu mình không chịu
nỗi một cơn bệnh nhỏ thì việc mình tu tập có ích gì?" Rồi bà nói với người
bạn: "cứ để ngày mai". Nhưng ngay chiều hôm đó, bà cảm thấy lạnh, bà cảm
thấy khát nước, nhưng khi uống nước vào thì tràn ra ngoài mũi.
Những dấu hiệu lực tứ đại đang phân rã bắt
đầu xuất hiện với bà. Bà cảm thấy thân xác của mình chìm xuống dù các bạn kéo bà
lên. Đó là dấu hiệu những lực thể xác đang tan nhập vào nguyên tố đất. Miệng và
mũi của bà khô khan vì mất nước, nhưng dù rất khát, bà cũng không thể uống nước
được. Đó là dấu hiệu năng lực của máu tan nhập vào nguyên tố nước. Bà run lên vì
lạnh, dù được đắp những cái chăn ấm. Đó là dấu hiệu sức nóng cơ thể tan nhập vào
nguyên tố lửa. Bà cố gắng thở, nhưng khó thở vô hay giữ hơi thở. Đó là dấu hiệu
hơi thở tan nhập vào nguyên tố gió.
Khi ánh sáng thị giác
bắt đầu mờ đi từ khả năng nhìn, bà không thể thấy hay nhận ra những gì ở xung
quanh. Khi thính giác yếu đi, bà cũng không thể nghe các bạn đang nói gì với
mình. Khi mất kiểm soát hệ thần kinh, bà không thể nói một tiếng nào nữa. Bà đã
gần mất đi sự tiếp xúc với thế gian này và đã sẵn sàng bước vào cõi giới mà mình
sẽ đến.
Nhưng trong suốt những
sự kiện này, tâm của bà Karma vẫn sáng suốt, giống như con cá trong làn nước
trong trẻo. Bà nhớ rõ tất cả những người thân yêu của mình nhưng biết rằng họ
không thể giúp gì cho nhau được nữa. Đối với bà, đã đến lúc phải đi một mình.
Karma không tin rằng mình đã đạt được một kinh nghiệm tu tập nào cả. Ký ức về
tất cả những điều xấu mà bà đã phạm diễn ra trong tâm bà, và điều này làm cho bà
khóc trong lòng.
Kế tiếp là một tiếng động lớn, và hơi thở
của bà hoàn toàn ngừng lại. Bà chìm trong bóng tối cứ như một ngọn nến bị bất
ngờ thổi tắt. Tất cả lực tâm trí của bà rút vào trong tim, và bà rơi vào vô
thức. Karma bất tỉnh một lúc và không biết mình còn sống hay đã
chết.
Hãy tạo công đức cho tôi: kinh nghiệm của
Lingza Chokyi
Lingza Chokyi sinh ra ở xứ Kham, thuộc
miền Đông Tây Tạng. Bà đã bệnh nặng trong mười sáu ngày rồi và không có một lễ
cúng hay một phương thuốc nào có thể giúp cho bà khỏi bệnh. Bà nghĩ:"mình sắp
chết. Khi còn trẻ mình muốn đi tu, nhưng những người thân không cho mình rời
khỏi gia đình. Mình có biết một chút về giáo lý, nhưng có ít chứng nghiệm, vì
rất ít thực hành thiền quán, mình cũng đã không bố thí gì cả. Than ôi, mình đã
bỏ phí cả đời người quý báu của mình, mà kiếp làm người thì hiếm có với đầy cơ
hội tu tập đạt giải thoát. Bây giờ mình phải đi khỏi thế gian đầy tiềm năng với
hai bàn tay trắng. Đến lúc ân hận thì đã quá trễ".
Rồi bà nghĩ tiếp: "trước đây gia đình
mình đã giết hai, ba chục con trâu và cừu mỗi năm". Điều này làm cho Chokyi
lo ngại vì sát sanh là một trong mười giới cấm chính yếu của Phật Giáo và là ác
nghiệp mang lại đau khổ và sẽ bị đọa xuống địa ngục. Bà lại lo nghĩ: "bây giờ
người ta không chịu làm lễ cầu an cho mình. Như vậy có nghĩa là mình sẽ phải đối
diện với nghiệp quả xấu mà không có nghiệp quả tốt hay công đức nào cả. Chồng và
con của mình chỉ thích của cải vật chất. Họ keo kiệt và có rất ít niềm tin vào
đạo pháp. Nhưng dù sao mình cũng phải hỏi họ là họ sẽ làm cho mình nghi lễ
nào".
Chokyi gọi người thân đến bên giường rồi
nói với chồng của mình " tôi sẽ không qua khỏi cơn bệnh này. Bây giờ tôi có
vài lời cuối cùng để nói với ông. Trong đời tôi đã không tạo được công đức nào
cả mà lại tạo nhiều bất thiện nghiệp. Xin ông dùng một phần ba gia tài để lập
công đức cho tôi". Trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, thân nhân của
người quá cố dùng một phần khá lớn gia sản để làm lễ cúng, tụng niệm, hành
thiền, phát thực phẩm cho người nghèo, phóng sanh (như mua và thả chim, thú hay
cá), xây tháp, chùa, tu viện hay cúng dường chư Tôn Đức Tăng Ni. Họ tin rằng
những việc như vậy sẽ tạo công đức, thiện nghiệp, đưa đến sự qua đời thanh thản
và tái sanh an lạc cho người quá cố.
Chokyi nói tiếp: "một nửa đồ trang sức của
tôi sẽ là của con gái chúng ta. Một nửa sẽ dùng để tạo công đức. Dù làm nghi
thức nào cũng xin làm theo lối thuần túy giáo pháp. Nếu có thể, cả nhà hãy thực
hành theo giáo pháp một chút, nếu không lúc chết sẽ phải hối hận. Ít nhất hai
con trai của tôi cũng phải tu tập một chút. Xin đừng tục huyền để ba đứa con của
tôi phải khổ vì một người đàn bà khác. Hãy hứa với tôi là ông sẽ làm những điều
này".
Đến đây chồng bà lên tiếng: " nếu dùng
một phần ba tài sản cho bà thì chúng tôi sẽ ăn bằng cái gì ? con cái của chúng
ta cần đồ trang sức của bà cho riêng nó. Sau khi bà chết, tôi sẽ tục huyền để có
người trông coi nhà cửa. Mấy đứa con còn quá nhỏ để tự lập. Tôi sẽ dùng một chút
gì cho bà, nhưng không thể hứa là bao nhiêu".
Chokyi nghĩ: " ông ta sẽ không làm lễ cúng lớn nào cho mình. Tại sao khi có cơ hội và khả năng mình lại không tự lập công đức cho mình? ông ta sẽ tục huyền và mấy đứa con sẽ khổ. Tội nghiệp chúng nó quá".
Cuộc nói chuyện đã làm cho Chokyi buồn. Nỗi buồn này mang lại cảm giác quay cuồng. Kế đó bà cảm thấy mình đang bị kéo xuống lòng đất, và bà bắt đầu đi qua một số cảnh tượng đáng sợ. Bà cảm thấy mình đang bị đẩy xuống bởi lực của nhiều người, trôi nổi đây đó trong một không gian rộng lớn, và run rẩy với cái lạnh băng giá. Rồi bà có cảm giác thể xác của mình đang bị thiêu ở một nghĩa địa thiêu xác chết, trông thấy những tia lửa và nghe thấy tiếng hú của ngọn lửa, Khi cảm giác đó chấm dứt, bà bị thổi đi bởi một cơn bão lớn. Rồi bà cảm thấy thể xác bị cắt thành từng mảnh bởi nhiều người với những dụng cụ khác nhau. Tất cả những điều đáng sợ này chỉ là hệ quả của sự kiện các nguyên tố đất, nước, gió, lửa tan rã trong thể xác của bà.
Sau tất cả những cảm giác này, bà nhìn
thấy những linh ảnh đỏ, trắng và đen. Tiếp theo là cảm giác không còn trí nhớ
hay ý thức và đây là trạng thái phúc lạc lâu bền. Sau đó khi sống lại, bà không
thể nhớ là kinh nghiệm này đã kéo dài bao lâu.
Các vị Thần chết đã đến đưa mình đi chưa?
kinh nghiệm của Denma Sangye Seng-ge
Sangye ra đời gần Chabdo ở tỉnh Kham, miền
Đông Tây Tạng. Ông học với nhiều vị Thầy, kể cả Đức Karmapa thứ mười bốn
(1798-1868).
Một hôm ở tuổi năm mươi lăm, ông cảm thấy
đau nhói ở tim giống như mình đã bị một viên đạn bắn trúng. Ông bắt đầu có những
ảo giác kỳ lạ. Ông không muốn ăn uống gì cả và có khi cảm thấy thể xác dường như
sắp loại bỏ mọi cơ quan nội tạng ra ngoài. Ông thấy thần kinh tay chân bị kéo về
phía tim.
Sangye sợ là mình sắp chết. Nhưng ông
không thể làm gì để giữ mạng sống của mình. Ông trở nên nhạy cảm với mọi thứ,
đến mức bất cứ điều gì xảy ra cũng làm cho ông lo sợ. Hơi thở của ông mỗi lúc
mỗi ngắn hơn. Ông đang chịu đau khổ và cảm thấy bất an giống như con chim bị bàn
tay người bóp nghẹt hay một con cá bị vất lên trên cạn. Ánh sáng trong mắt ông
mờ đi mau chóng. Rồi bỗng nhiên tất cả sắc tướng trở thành bóng tối.
Sangye đi qua một loạt những kinh nghiệm
đau đớn khi lực của các nguyên tố của thể xác bắt đầu phân giải. Có lúc ông cảm
thấy rất khát nước, cứ như là phần bên trong cơ thể đang bị thiêu đốt, và ông
thèm muốn một giọt nước. Những lúc khác, ông cảm thấy mình bị đè bởi một vật
nặng giống như một quả núi. Trong khoảnh khắc kế tiếp ông cảm thấy mình đang bị
thổi bay đi giống như một cộng lông trong cơn bão. Có những lúc ông cảm thấy mặt
trời và mặt trăng đang rơi xuống đất. Ông nghe thấy những tiếng nổ lớn giống như
hàng ngàn tiếng sấm cùng lúc, và trông thấy hàng ngàn tia chớp đánh xuống đồng
thời. Rồi ông cảm thấy một căn nhà đổ, mà sự thật là chính thân thể của mình
đang sụp đổ. Nhưng ngay khi những hình ảnh và những cảm giác này xuất hiện chúng
đã biến đi như một ảo giác.
Rồi Sangye thấy nhiều tia lửa giống như
đom đóm trên bầu trời đêm. Có lúc chúng xuất hiện rõ ràng, có lúc
không.
Sangye nhận xét: "những sắc tướng này
xuất hiện là vì những lực đất, nước, gió, lửa đang tan rã khi mình sắp chết".
Nhưng rồi, đúng theo bản chất con người, ông cảm thấy lo sợ. Nhiều câu hỏi kéo
tới. "phải chăng mình đang trải qua kinh nghiệm tan rã của tứ đại ? giống như
trong vô số kiếp trước, lúc chết lại đã đến với mình hay sao? các vị thần chết
đã đến để đưa mình đi chưa? mình sẽ không sống lâu hơn sao?".
Ông cảm thấy mình bị kẹt ở một nơi rất
tối, mà thật ra chính là thể xác của ông, bây giờ đã mất hết ánh sáng. Ở đó ông
thấy chín lỗ hổng (mắt, tai, mũi...) có thể giúp ông thoát ra khỏi nơi tối tăm
đó. Ông nhìn qua lỗ hổng dẫn thẳng lên trên và la âm HIK ba lần như đã được dạy
trong pháp chuyển di thần thức phowa. Việc này giúp ông thoát qua lỗ hổng thứ
mười, chỗ hở của sọ ở đỉnh đầu.
Theo Phật Giáo, vào lúc chết thần thức sẽ thấy mình thoát ra ngoài qua một trong mười "cửa" (cửu khiếu và thiên môn). Nếu thần thức đi qua những cửa ở phần thân trên thì điều này giúp hành giả tái sanh vào những cõi hạnh phúc an vui. Các hành giả được dạy đóng kín cửa thấp, đặc biệt là những cửa thấp nhất, với việc quán tưởng chữ HUM. Rồi họ di chuyển thẳng lên qua kinh mạch trung ương với lực của tinh lực trong thiền quán ,và thoát qua khe hở trên sọ ở đầu trên của kinh mạch trung ương ở đỉnh đầu.
Theo Phật Giáo, vào lúc chết thần thức sẽ thấy mình thoát ra ngoài qua một trong mười "cửa" (cửu khiếu và thiên môn). Nếu thần thức đi qua những cửa ở phần thân trên thì điều này giúp hành giả tái sanh vào những cõi hạnh phúc an vui. Các hành giả được dạy đóng kín cửa thấp, đặc biệt là những cửa thấp nhất, với việc quán tưởng chữ HUM. Rồi họ di chuyển thẳng lên qua kinh mạch trung ương với lực của tinh lực trong thiền quán ,và thoát qua khe hở trên sọ ở đầu trên của kinh mạch trung ương ở đỉnh đầu.
Bầu trời không mây, giống ánh quang minh:
kinh nghiệm của Dagpo Trashi Namgyal
Dagpo Trashi Namgyal là người miền Trung
Tây Tạng. Ông đã chết được năm ngày. Ông bị đau nhức ở đầu và thân trên. Biết là
cái chết có thể đang tới, ông muốn biết những giáo lý về cõi trung ấm
bardo.
Khi những nguyên tố của thể xác bắt đầu
dần dần phân giải, ý thức hướng ngoại của ông bắt đầu quay vào trong. Ông thấy
linh ảnh ánh sáng năm màu. Đây không phải là một thứ ánh sáng bên ngoài, vì ông
đang nhìn bằng mắt thần thức, một thứ ánh sáng ở bên trong chính
mình.
Trước hết ông mất nhận thức những đối
tượng của năm giác quan: sắc, thanh, hương, vị và xúc. Khi thị giác mờ đi, ông
không nhận ra những người mình quen biết. Tai của ông không thể nghe, mũi không
thể ngửi, lưỡi
không thể nếm, và thân không thể cảm thấy gì.
Nguyên tố đất của thể xác ông tan nhập vào
nước và thể xác ông trở nên nặng nề. Khi nguyên tố nước tan nhập vào lửa, miệng
và mắt ông cảm thấy khô khan, và ông cảm thấy khát nước. Những mạch máu của ông
dường như bị cuốn lại giống như một nùi chỉ. Rồi nguyên tố lửa tan nhập vào
nguyên tố gió, và thân nhiệt của ông bị gió phân tán.
Vì nguyên tố gió là tinh túy của chân tánh
nên khi hơi thở bên ngoài chấm dứt, thần thức của ông tan nhập vào ánh quang
minh. Khi hơi thở bên ngoài hòa vào hơi thở bên trong của ông, kinh nghiệm đầu
tiên của ba kinh nghiệm xuất hiện.
Trước hết ông nhận thấy "sắc tướng". Như
dấu hiệu bên trong, những giác quan của ông trở nên trong sáng. Những sắc tướng
bên ngoài trở nên hơi trắng, giống như ánh trăng. Những giác quan của ông thoát
khỏi những biến đổi tạm thời và ông cảm thấy rõ ràng và trong sáng.
Rồi "sắc tướng" hòa nhập vào "gia tăng".
Như dấu hiệu bên trong, ông trông thấy những tia lửa, giống như đom đóm. Như dấu
hiệu bên ngoài, ông trông thấy mọi thứ có màu hơi đỏ như bầu trời rạng
đông.
Rồi "gia tăng" tan nhập vào "thành tựu".
Những giác quan của ông vẫn trong sáng trong vài khoảnh khắc. Ông trông thấy
những ngọn lửa và những ánh sáng như ánh đèn. Sự vô minh của ông về chân tánh
chấm dứt. Rồi xuất hiện bầu trời không mây, giống như quang minh. Nói cách khác,
ông bắt đầu chứng nghiệm sự hòa nhập quang minh vốn rất trong sáng giống như bầu
trời mùa thu không mây, một trạng thái không có lối nhận thức thô kệch hay nhị
nguyên về chủ thể (tâm) và đối tượng (vật).
Những cảm nhận lúc chết: kinh nghiệm của
Samten Chotso
Ở tuổi mười chín, Samten Chotso người xứ
Kham thuộc miền Đông Tây Tạng, đã có kinh nghiệm cận tử (delog) trong bảy ngày.
Những nguyên tố thể xác của cô bất ngờ bị khuấy động và cô đã sửa soạn để chết.
Những ảo giác xuất hiện liên tục. Cô biết là mình đang hấp hối và cô bắt đầu có
những cảm nhận ảo giác sau đây.
Trước hết những nguyên tố và những giác
quan của thể xác của cô bắt đầu tan rã: khi những mạch máu của tim ngừng hoạt
động, cô có cảm giác một quả núi bị lật ngược. Rồi những mạch máu trong hai mắt
ngừng hoạt động, và cô cảm thấy như mặt trời và mặt trăng rơi xuống. Rồi những
mạch máu ở lưỡi ngừng hoạt động, và cô cảm thấy không gian được soi sáng
bởi những tia chớp. Kế tiếp những mạch máu ở
tai ngừng hoạt động, và cô nghe thấy hàng ngàn tiếng sấm nổ ra cùng
lúc.
Một delog
độc đáo: kinh nghiệm của Dawa Drolma
Dawa Drolma (1910-1941) sinh ra ở Washul
Thromtha, thuộc tỉnh Kham, miền Đông Tây Tạng. Một trong mấy người con trai của
bà là đạo sư Chagdyd Tulku Ringpoche (1930-2002), là người đã sống và hành đạo
tại Hoa Kỳ và Brazil trong mấy chục năm nay.
đạo sư Chagdyd Tulku Rinpoche (1930-2002)
Dawa Drolma là người độc đáo trong các
delog vì bà đã biết là mình sẽ có trước một kinh nghiệm delog. Vì vậy bà đã sửa
soạn cho mình và cho những người khác ở xung quanh mình. Hành trình delog của bà
kéo dài năm ngày.
Vào năm 1924, Dawa Drolma thường có những
lần nhập định sâu. Một hôm bà trông thấy Tara trắng và được Ngài ban lời tiên
tri sau đây: "con sắp bị bệnh và chết, nhưng nếu con làm theo những lời hướng
dẫn thì sau năm ngày con sẽ sống lại như một delog và làm lợi ích cho nhiều
người". Vị Thầy của Dawa, Chogtrul Rinpoche, ngần ngại chấp thuận ý muốn của
bà sửa soạn và trải qua một kinh nghiệm cùng cực như vậy. Ngài gia hộ cho bà và
nhắc nhở: "trụ trong tâm vô niệm, không rơi vào vọng niệm. Giữ cảm nhận trong
sáng và sự tôn kính đối với các bậc Thầy và các vị thần bảo hộ của mình. Phát
tâm từ bi đối với chúng sanh".
Rồi Dawa Drolma trở bệnh rất nặng. Bà
thỉnh cầu đại sư Chogtrul Rinpoche và các vị khác ở đó làm những việc sau đây
:"Dọn hết thực phẩm và nước ra khỏi phòng của con; Sau khi con chết, hãy rửa
xác của con với nước nghệ được chú nguyện với sự hiện diện của một cô gái tên là
Drolma; Để tượng trưng cho bộ phái Phật của con, đầu của con sẽ được quấn khăn
xanh; Cửa nhà của con sẽ được khóa bằng ổ khóa, rồi bọc ổ khóa bằng một tấm vải
xanh và niêm phong nó với con dấu có hình một con bò cạp. Một người mặc áo xanh
sẽ ngồi bên ngoài để canh phòng ngôi nhà. Trong năm ngày lúc con chết, không một
ai được vào phòng của con hay gây tiếng động xung quanh ngôi nhà. Khi sống lại,
con sẽ cần một cái áo làm bằng vải xanh và không làm bằng da thú. Con sẽ cần
nước đã chú nguyện để súc miệng". Bà cũng thỉnh cầu các vị lama cử hành
những nghi lễ như cỗ cúng Yunka (một vị nữ Phật) và Năm Nữ Thần Trường Thọ và
cầu nguyện Guru Rinpoche (Đại Sư Liên Hoa Sanh).
Bà và các vị Thầy làm lễ cúng Yumka vào
ngày mười lăm âm lịch Tây Tạng. Các vị Thầy nhắc nhở bà một lần nữa:"Giữ cho
tâm an tĩnh không xao lãng với những vọng niệm. Để cho tâm hợp nhất với chân
tánh, vì tâm sẽ tự nhiên làm như vậy vào lúc chết".
Khi đến lúc, Dawa Drolma giữ tâm an tĩnh trong trạng thái tự nhiên. Bà chứng nghiệm như một trạng thái chân không và đại hoan hỷ, hoàn toàn trong sáng và vô nhiễm. Mọi vọng tưởng đều chấm dứt. Bà không ngủ quên trong cõi không, nơi không có vọng niệm. Bà không bị kẹt trong mạng lưới hoan lạc, quang minh hay vô niệm. Bà cũng không trôi theo những vọng tưởng. Mà bà đang ở trong cõi không vô biên của tâm tự nhiên. Như vậy bà ở trong một trạng thái tâm thức khác, dù bà có thể nghe thấy tất cả những tiếng động và những tiếng nói ở xung quanh.
Vào buổi sáng ngày hai mươi sáu, bà trông thấy rõ ràng sự hiện diện của Tara Trắng, nữ thần bảo hộ của mình ở trước mặt, bên trong một khối ánh sáng kỳ diệu.
Khi đến lúc, Dawa Drolma giữ tâm an tĩnh trong trạng thái tự nhiên. Bà chứng nghiệm như một trạng thái chân không và đại hoan hỷ, hoàn toàn trong sáng và vô nhiễm. Mọi vọng tưởng đều chấm dứt. Bà không ngủ quên trong cõi không, nơi không có vọng niệm. Bà không bị kẹt trong mạng lưới hoan lạc, quang minh hay vô niệm. Bà cũng không trôi theo những vọng tưởng. Mà bà đang ở trong cõi không vô biên của tâm tự nhiên. Như vậy bà ở trong một trạng thái tâm thức khác, dù bà có thể nghe thấy tất cả những tiếng động và những tiếng nói ở xung quanh.
Vào buổi sáng ngày hai mươi sáu, bà trông thấy rõ ràng sự hiện diện của Tara Trắng, nữ thần bảo hộ của mình ở trước mặt, bên trong một khối ánh sáng kỳ diệu.
Rồi bà trông thấy từ cõi tịnh độ của Đại
Sư Liên Hoa Sanh một ánh sáng cầu vồng với năm luồng ánh sáng song song chiếu
vào phòng của bà. Ở giữa những ánh sáng này, bốn "dakini" (Thiên nữ) mặc áo đẹp
với những món trang sức xuất hiện như đoàn tùy tùng của Dawa. Họ đặt bà lên một
cái kiệu được che với những tấm lụa nhiều màu. Dawa Drolma và bốn dakini đồng
thanh tụng bài cầu nguyện bảy câu Vajra và niệm Thần chú Guru Rinpoche liên tục
với lòng chí thành. Bà trông thấy tất cả những hình ảnh này trong linh thị của
mình.
Thần thức du hành không chướng ngại: kinh
nghiệm của Gyalwa Yungtrung
Gyalwa Yungtrung người xứ Kham, miền đông
Tây Tạng, là tín đồ đạo Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Năm ông bốn mươi
chín tuổi, Mẹ của ông qua đời. Ông mời nhiều vị Lạt Ma đến làm lễ bốn mươi chín
ngày, theo niềm tin cho rằng hầu như không có ai còn ở lại trong cõi trung ấm
bardo sau bảy tuần. Ông dùng tất cả của cải để làm những nghi lễ này. Ngày đêm
ông nghĩ đến tình thương và lòng tử tế của Mẹ và buồn vì bà đã qua đời. Rồi một
hôm, khi đang thiền quán về tâm của mình, ông thấy nó vô sinh và hiện diện một
cách tự nhiên, một lúc khác, ông cảm thấy thế gian và thể xác đều là không, tâm
của ông có thể đi khắp nơi mà không có chướng ngại nào cả, ông phải nối kết với
thần thức của mẹ mình ở bất cứ nơi nào bà đang lưu trú. Bỗng ông cảm thấy mình rời
khỏi thể xác.
Gyalwa trải qua thêm nhiều chứng nghiệm,
như chúng ta sẽ thấy ở chương 5 về những chứng nghiệm trong cõi bardo của các
delog. Ở giai đoạn này ông không viết về sự kiện của mình có hay không chứng
nghiệm sự phân giải của bốn nguyên tố của thể xác. Lời kể về lúc chết của ông
chỉ cho thấy một lần nữa rằng mỗi cá nhân kinh nghiệm tiến trình chết một cách
khác nhau.
Chân tánh: kinh nghiệm của Tsophu
Dorlo
Tsophu Dorlo là một vị Thầy thành tựu. Tên
thật của Ngài là Dorje Duddul, người xứ Khrozur, nhưng Ngài được mọi người gọi
là Tsophu Dorlo. Ngài có kinh nghiệm về delog ở tu viện Pema Sheltrag ở
Nya-rong, miền Đông Tây Tạng.
Năm 1923, khi được sáu mươi mốt tuổi, Thầy
Dorlo bất ngờ ngã bệnh, và mọi người đều không hy vọng Ngài sẽ hồi phục. Để giảm
sự đau buồn của các đệ tử, Ngài ban cho họ những lời pháp nhũ và nói chắc với họ
rằng Ngài sẽ trở về trong kiếp kế tiếp. Trong một linh thị, vị Thầy chính của
ngài, Zhing Kyong Rinpoche, gia hộ Ngài và nói: "đây không phải là lúc để con
đi vào tịnh độ, con phải đi cứu độ chúng sanh ở địa ngục". Vị lama đưa cho
Ngài một cái bánh xe cầu nguyện cầm tay cở lớn để mang theo mình.
Vào buổi tối ngày thứ tư, những dấu hiệu
của sự chết bắt đầu xuất hiện. Dorlo cố gắng giữ tâm thanh tịnh với những giáo
lý và những lời hướng dẫn của các vị Thầy của mình. Ngài đặc biệt giữ cho tâm
hợp nhất với tâm trí tuệ của vị Lama của mình và trụ trong trạng thái hợp nhất
không lay động. Trong một lúc lâu, Ngài trụ trong chân tánh của mình. Đó là sự
hiện diện vô cùng và trạng thái không lay động của sự hợp nhất tịnh quang và
chân không của tâm trí.
Không bao lâu sự tan rã của những nguyên
tố của thể xác bắt đầu. Như dấu hiệu của thịt tan nhập vào đất, Dorlo cảm thấy
thân xác của mình rơi và chìm xuống đất. Khi máu tan nhập vào nước, Ngài mất
năng lực của cơ thể, mũi và miệng của Ngài chảy nước, và lưỡi của Ngài khô khan.
Khi sức nóng tan nhập vào nguyên tố lửa, thân xác của Ngài mất hơi nóng, sự
trong sáng của tâm Ngài lúc có lúc không, rồi hai mắt của Ngài trợn lên, Ngài
không nhận ra những người thân quen. Khi hơi thở tan nhập vào nguyên tố gió, hơi
thở của Ngài trở nên nặng nề và tay chân của Ngài run rẩy, tâm của Ngài cảm thấy
bưng bít và Ngài thấy những linh ảnh giống như ảo ảnh mờ nhạt.
Sau sự tan rã của những nguyên tố thô,
Ngài bắt đầu chứng nghiệm sự phân giải của những tinh lực. Khi tinh chất lửa tức
tinh chất đỏ đi lên, những "sắc tướng" tan nhập vào "gia tăng", và mọi vật trở
nên hơi đỏ. Khi tinh chất nước tức tinh chất trắng đi xuống, và "gia tăng" tan
nhập vào "thành tựu". Mọi vật trở nên hơi trắng. Rồi khi sinh lực tinh tế nhất
chấm dứt, "thành tựu" tan nhập vào "quang minh". Mọi vật trở nên tối
đen.
Tâm trí tuệ trở nên trong sáng: kinh
nghiệm của Shugseb Jetsun Lochen
Shugseb Jetsun Lochen (1865-1953), cũng
được gọi là Jetsun Rigdzin Chonyi Zangmo, là một trong những nữ tu vĩ đại nhất
của Tây Tạng ở thế kỷ hai mươi.
Shugseb Jetsun Lochen
(1865-1953)
Jetsun sinh ra ở Ấn Độ nhưng tu học ở Tây
Tạng và sống nhiều năm cuối đời ở Shugseb, gần Kangri Thokar, Tu viện của
Longchen Rabjam, một vị Thầy Dzogchen (pháp Đại Hoàn Thiện) thuộc thế kỷ mười
bốn.
Jetsun trải qua trạng thái delog trong
nhiều ngày trong khi nhập thất ở Zangyak Trag ở thung lũng Drigung, miền Trung
Tây Tạng. Bà đã thành tựu nhiều chứng ngộ thiền kỳ diệu. Bà có thể đi xuyên qua
tường một cách dễ dàng, và nhiều lần bà đã trở nên vô hình đối với những người
bạn của bà. Thỉnh thoảng bà có thể đi đến những nơi khác chỉ bằng ý nghĩ. Bà có
linh thị về các vị thần cũng như tất cả những loài sinh linh khác vốn vô hình
đối với loài người.
Một hôm tinh lực của Jetsun đi vào kinh
mạch trung ương. Hậu quả là phát ra đủ loại âm thanh, nhảy múa, bà cứ chạy ra
chạy vô am thất của mình. Rồi bất ngờ bà gục xuống và bất động.
Tưởng bà đã chết, mấy người bạn khóc than
rồi bàn thảo việc mai táng cho bà, nhưng Mẹ của bà nhận thấy mặt bà vẫn có màu
sắc của sự sống, vì vậy bà Mẹ bảo mấy người bạn kiểm soát lại cẩn thận. Họ thấy
có một chút hơi ấm ở tim của bà, giống như thân nhiệt của một con chim. Vì năng
lực dị thường của đời sống của bà, các bạn nghĩ rằng bà chưa chết hẳn, Vì vậy họ
sửa soạn một lễ cúng.
Về phần Jetsun, dù thân thể không thể cử
động, tâm trí tuệ của bà trở nên trong sáng gấp mấy lần trước kia. Bà có thể
nghe tất cả những lời nói chuyện của các bạn và những người khác ở xung
quanh.
Quỷ đen tối biến đi: kinh nghiệm của Tagla
Konchog Gyaltsen
Tagla Konchog Gyaltsen (1856-1946) ra đời tại thung lũng
Ma thuộc bộ tộc Akyong Ponmotsang, xứ Golok ở miền Đông Tây Tạng. Ngài trở thành
một vị Thầy nổi tiếng. Ngài có kinh nghiệm delog trong nhiều ngày vào năm tám
mươi tám tuổi.
Năm
1932, Thầy Tagla đang ở tại thung lũng Ma tuyệt đẹp dưới sự canh phòng bảo vệ
của rặng núi thiêng liêng Amnye Machen. Một ngày nọ, Thầy Tagla ngã bệnh nặng
khiến Ngài nửa sống nửa chết. Đột nhiên Ngài thấy những đám mây có ánh sáng
nhiều màu sắc ở trên bầu trời trước mặt. Ở giữa những đám mây, Ngài thấy Guru
Rinpoche được vây quanh bởi nhiều vị hộ pháp có thân tướng hiền hòa hoặc phẫn
nộ, và nhiều vị Thầy của dòng truyền thừa. Ngài nghe thấy Đức Phật Từ Bi nói với
mình, “Con đừng xao lãng. Hãy chú tâm lên trên đây. Hãy thành tâm tụng niệm
Thần Chú Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn "OM MANI PADME HUNG". Con sắp được chứng
nghiệm giai đoạn chuyển tiếp [bardo].”
Rồi
từ hướng Nam, trên những đám mây trắng, Vị Thần Bảo Hộ Trắng với mặt trắng và
dung mạo trẻ trung đi về phía Tagla. Vị thần mặc áo lụa trắng, tóc được thắt búi
trên đỉnh đầu, mang một túi lụa trắng trên vai, và đeo trên thắt lưng một hột
súc sắc làm bằng vỏ ốc (thuộc một cặp súc sắc, một dụng cụ bói toán của Tây
Tạng).
Sau
đó, cưỡi trên một cơn lốc xoáy, một Hắc Quỷ với nước da màu đen cũng đến. Ông
mặc một áo choàng sẫm và xõa tóc rũ xuống. Mang một túi màu đen trên vai, và một
khuôn màu đen làm bằng than đeo ở thắt lưng.
Một vị Thần Bảo Hộ Trắng nói với Thầy Tagla, “Ta là Thần Bảo Hộ Trắng của những sinh linh đức hạnh. Ta đến từ cung điện của Pháp Vương Thần Chết để rước con. Con có tự tin để tự tại với bardo, lộ trình chuyển tiếp không? Ta có giữ những sổ ghi chép tả về những công hạnh đạo đức mà mọi người đã tích lũy.”
Với
lòng đầy tự tin, Thầy Tagla kể lại mọi chứng nghiệm thiền định, những chứng ngộ
của mình, số lượng bài cầu nguyện mà mình đã tụng, và những công quả mà mình đã
giúp đỡ người khác. Ngài biểu lộ niềm hoan hỷ lớn lao khi nhập vào cõi trung ấm
thân bardo và gặp Pháp Vương. Sau đó Thầy Tagla cầu nguyện Tam Bảo, các vị Phật
và các vị Lạt Ma, để quý Ngài gia hộ. Tất cả các nguồn an trú này xuất hiện đầy
bầu trời ở trước mặt Ngài. Tất cả các Ngài cùng với Thầy Tagla trì tụng thần chú
Lục Tự chơn ngôn với âm điệu trầm bổng kỳ diệu hoan hỷ nhất. Âm thanh này tràn
đầy trong không gian.
Sau
khi ban dạy giáo lý về giai đoạn chuyển di.Vị Thầy chính của Thầy Tagla, Pema
Dechen Zangpo nói, “Bây giờ con hãy đi đi. Đức hạnh của con xuất hiện như
Thần Bảo Hộ Trắng sẽ dẫn dắt con.” Thầy Tagla thấy một luồng ánh sáng giống
như cầu vồng phóng về hướng Tây như con đường đưa tới cõi Cực Lạc của Đức Phật
Vô Lượng Quang. Nhưng vị Lama chính của Ngài nói thêm: “Vẫn chưa đến lúc con
đi vào cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà".
Hắc
Quỷ nổi giận tiến đến chỗ Thầy Tagla. Y bác bỏ những thiện nghiệp của Thầy Tagla
cứ như thể việc đó là bất tịnh và tố cáo Ngài đã tạo nhiều bất thiện nghiệp. Hắc
Quỷ đe dọa Thầy Tagla bằng cách mô tả hành trình khủng khiếp đi vào cõi trung ấm
mà Ngài sắp phải trải qua. Đến đây, các sứ giả thuộc triều đình của Pháp Vương
xuất hiện, đó là Awa, Đầu-Bò, Nghiệt súc Đầu Rắn, và Quỷ hèn Mặt-Khỉ.
Mới
đầu, Thầy Tagla sợ hãi, nhưng ngay sau đó Ngài lấy lại tự tin và nói, “Này
Hắc Quỷ! nghe ta nói đây, Để bảo vệ danh dự của những thiện nghiệp của ta, ta
phải bác bỏ lời tố cáo của ngươi.” Kể ra tất cả những thiện nghiệp mà Ngài
đã tích lũy trong đời, Thầy Tagla kết luận, “Ta không có lý do gì để sợ những
lời đe dọa của ngươi. Quỷ đen, hãy im miệng”. Nghe những lời này, Hắc Quỷ
biến mất trong một cơn bão.
Rồi
trong một tia chớp, Thầy Tagla thấy thể xác của mình đang nằm chết trên giường ở
nhà, vây quanh là những người bạn đang than khóc. Thầy Tagla buồn bã nghĩ,
“Giờ đây mình không còn cách gì để trở lại đời sống”. Đúng lúc đó, Thần
Bảo Hộ Trắng tiến đến gần và nói, “Con sẽ chỉ chết trong một lúc mà thôi, rồi
con sẽ sống lại". Sau đó, cùng với Thần Bảo Hộ Trắng, Thầy Tagla bắt đầu
hành trình chuyển tiếp của mình.
Đừng Hoảng Hốt: Kinh Nghiệm Của Changchub
Seng-Ge
Changchub sinh tại một nơi được gọi là Lho Gyalwa. Cha
của Ngài là người xứ Kham, và Tagla gọi Ngài là Nyagtrug, như vậy có lẽ Ngài
sống ở vùng Nyag-rung thuộc xứ Kham, phía Đông Tây Tạng.
Changchub bị bệnh. Ngài không thể ra khỏi giường để lấy
nước uống. Ngài bỗng cảm thấy mình đang lơ lững trên hư không. Nhà Ngài bị sụp
đổ. Mỗi gốc chân lông trên thân xác Ngài đang đâm thủng giống như những vật
nhọn. Những quả núi và nhà cửa dường như sụp xuống trên Ngài. Một giòng sông lớn
đang cuốn trôi Ngài đi. Ngài bị thiêu đốt trong một ngọn núi lửa. Một cơn bão dữ
đang thổi bay Ngài đi. Hàng ngàn mặt trời xuất hiện và thiêu cháy Ngài. Ngài
nghe những tiếng la đe dọa lớn như sấm. Như thể mỗi kinh nghiệm này kéo dài hàng
ngàn năm. Tất cả chúng đều là những dấu hiệu của những nguyên tố trên thân xác
Ngài tan rã và hơi thở bên trong Ngài ngừng lại. Khi hơi thở bên trong đã ngừng
lại, năm ánh sáng khởi lên. Bỗng nhiên Changchub có một linh thị quang minh,
giống như mặt trời mọc lúc nửa đêm. Ý thức trong sáng như một ngọn đèn nhưng
không bền, như một ngọn đèn chập chờn trong cơn bão. Ngài cũng có thể thấy những
đoạn tái sanh của Ngài trong những kiếp trước và những kiếp sau của
mình.
Rồi
sự chấp thủ những đối tượng khởi lên trong Ngài, và Ngài bỗng cảm thấy mình bị
đè dưới một tảng đá. Một ý nghĩ đến với Ngài, “Ồ, mình phải đi vào một tòa
lâu đài”. Bất ngờ Ngài thấy mình ở trong ánh sáng màu đỏ, điều này làm Ngài
sợ hãi vì nghĩ rằng mặt mình có thể bị thương. Ngay lúc này, từ luồng ánh sáng
đỏ mở ra hai luồng ánh sáng năm màu. Luồng ánh sáng năm màu phía trên rất rõ
ràng, sáng chói, rạng rỡ và linh hoạt. Chùm ánh sáng ở dưới thì mờ nhạt. Kể đến
đây, Changchub có lời hướng dẫn: “Vào lúc này, đừng sợ hãi luồng ánh sáng
phía trên. Đó lá ánh sáng của năm trí tuệ nguyên thủy. Luồng ánh sáng mờ ở dưới
là ánh sáng của năm cảm xúc độc hại. Đừng để cho luồng ánh sáng phía dưới cám dỗ
mình”.
Changchub là vị Thầy đáng chú ý về những lời hướng dẫn
này. Truyện của Ngài là một kho tàng những lời khuyên về những gì mà người hộ
niệm nên nói với hành giả sắp chết như một sự giới thiệu hay nhắc lại pháp tu
thiền định của họ. Và như vậy, khi hai luồng ánh sáng được đề cập ở trên xuất
hiện; Ngài Changchub khuyên: Đây là lúc cho người bình thường làm phép chuyển
di thần thức phowa, còn những thiền giả đã thành tựu cao sẽ làm như sau:
Nếu một người hấp hối trợn ngược mắt lên và nếu không còn hơi thở qua lỗ mũi,
đó là dấu hiệu hơi thở bên ngoài ngừng lại. Lúc đó những người hộ niệm gọi tên
người đó. Chậm chậm nhổ một ít tóc nơi đỉnh đầu của người ấy. Đừng để những
người yêu mến đứng gần nếu như họ đang khóc lóc.
Hãy
nói với người hấp hối những lời hướng dẫn sau đây về những dấu hiệu của sự phân
giải tứ đại của thế xác: “Bạn có thể cảm thấy như ngôi nhà của mình đang sụp
đổ, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi hơi thở bên ngoài chấm dứt. Đừng để
tâm lay động! Bạn có thể cảm thấy có những vật nhọn đang đâm qua gốc của mỗi sợi
lông trên thân mình, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi các mạch máu trong
thân không làm việc nữa. Xin đừng hoảng sợ!”
Khi
nước da chuyển sang màu vàng nhạt, người hộ niệm nói “Bây giờ có thể bạn cảm
thấy dường như căn nhà đang sụp xuống bạn, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu
khi năng lượng của thịt đang tan nhập vào nguyên tố đất bên ngoài. Đừng lo sợ!”
Khi
nước da chuyển sang màu hơi đỏ, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình
như đang bị thiêu đốt trên một ngọn núi lửa lớn, nhưng không phải vậy. Đó là dấu
hiệu khi nguyên tố lửa bên trong hòa nhập vào nguyên tố lửa bên ngoài.”
Khi
nước da chuyển sang màu hơi trắng, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình
như đang bị một dòng sông lớn trôi cuốn đi, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu
khi nguyên tố máu bên trong hòa nhập vào nguyên tố nước bên ngoài. Đừng sợ hãi!”
Khi
nước da chuyển sang màu xanh lục, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình
như đang bị một cơn bão lớn cuốn đi, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi
hơi thở bên trong hòa nhập vào nguyên tố gió bên ngoài.”
Khi
sắc diện chuyển sang màu xanh lơ, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy mình
như đang chìm trong biển, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi các nguyên tố
bên trong hòa nhập vào hư không. Đừng hoảng hốt!”
Lời
kể của Ngài Changchub độc đáo về cách đi tới đi lui giữa việc chấm dứt sự phân
giải và lúc xuất hiện của chơn tánh cũng như giai đoạn khởi đầu của bardo. Thông
thường, người ta đi qua những giai đoạn phân giải, rồi kinh nghiệm cái nhìn
thoáng qua của chơn tánh quang minh và rồi đi vào cõi trung ấm. Nhưng trong
trường hợp này, ngay cả sau khi thoáng thấy chơn tánh quang minh, Ngài Changchub
lại kinh nghiệm sự phân rã thêm một lần nữa. Như vậy, có thể nói là có những
người hấp hối đi tới và đi lui trước khi họ lìa hẳn thể xác, do vì bản chất của
tâm, cảm xúc và nghiệp quả của họ. Hoặc có thể họ đang cố gắng để duy trì mạng
sống.
Đừng Sợ Hãi – Hãy sẵn sàng.
Bạn
có thể cảm thấy lo sợ sau khi đọc chương này. Có lần một phụ nữ Tây Tạng trình
thưa với vị lama, Thầy của bà rằng: “Khi nghe về quả báo tốt cho những thiện
nghiệp, con mong được giải thoát, dù là một người như chính con. Nhưng khi nghe
về những bất hạnh của những ác nghiệp, con lại nghi ngờ về sự giải thoát – dù là
cho một người như chính bản thân của Thầy".
Lo
sợ những gì xảy ra sau khi chết cho chúng ta không giúp ích gì cho chúng ta cả,
nhưng chúng ta cần quan tâm và thận trọng trước khi quá trễ. Điều tốt của nghiệp
là chúng ta luôn cố gắng cải thiện. Nếu đã không đi trên đường chánh đạo, chúng
ta có thể chuyển cho lối sống của mình đúng hướng. Nếu đã đi đúng đường đạo rồi,
chúng ta càng ra sức tu tập tinh tấn hơn nữa. Chúng ta có thể kiểm soát vận mạng
của mình. Có hàng trăm pháp môn tu tập khác nhau và có nhiều đấng từ bi giúp
chúng ta tự giải thoát.
Nhưng bước đầu tiên là biết và chấp nhận rằng cái chết
là không thể tránh được, và rằng những nghiệp quả đang chờ đợi mình – trong khi
vẫn còn có thời gian. Như vậy, chúng ta có thể làm tất cả mọi sự chuẩn bị cần
thiết trong lúc vẫn còn sống trên thế gian này. Chúng ta cần gây dựng thái độ
tốt và tạo thiện nghiệp đối với người khác. Nếu chúng ta không chuẩn bị như vậy,
cái chết sẽ là một sự kiện đáng buồn, không chỉ ghi dấu sự chấm hết của cuộc đời
mà còn đưa đến sự nguy hiểm của một tương lai đau khổ hoặc thậm chí là rơi xuống
địa ngục.
Tuy
nhiên, nếu chúng ta có lối sống tốt thì cái chết chắc chắn sẽ là lúc đáng vui
mừng. Nó sẽ đánh dấu sự chấm dứt cho tuổi già và bệnh tật, và bắt đầu sự xuất
hiện của phúc lạc. Một số người trong chúng ta có thể thấy những bậc giác ngộ,
từ bi và trí tuệ, tiếp dẫn chúng ta đến với Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật Vô
Lượng Quang, điều này sẽ được bàn luận trong chương 7 và 9. Thêm nữa, nếu chúng
ta là những hành giả Mật Giáo thành tựu cao, chúng ta có thể đạt đến giác ngộ
vào lúc chết trong giai đoạn chứng ngộ chơn tánh, chương kế sẽ trình bày.
Nhưng điểm quan trọng là ngay bây giờ chúng ta cần phải
chuẩn bị cho cái chết và sau khi chết. Nếu thở ra mà không hít vào, cái chết sẽ
đến tức khắc. Chúng ta đang gần kề cái ngày mà mình ăn mừng hay khóc than ấy.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ) .TAM THANH.(MHDT ).29/4/2012.
No comments:
Post a Comment