Mùa Hoa Nở
Thích Như Điển
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời
gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
Riêng châu Á và châu Phi, thời gian ít được định vị rõ ràng và nhiều người
cho rằng tại hai châu lục này chỉ có hai mùa. Đó là mùa nắng hạn và mùa
mưa rào.
Tại các xứ lạnh, thời tiết phân chia ra mùa và năm
tháng tương đối dễ phân biệt. Khi xuân đến thì hoa đua khoe sắc thắm; hè
sang với những tia nắng chói chang báo hiệu cho bầu trời trong xanh và cao
rộng hơn. Thu sang với lá vàng rơi lả tả làm đậm nét của thơ và đông sang
cây cỏ chỉ còn cành, trơ trụi lá. Thế là một mùa tuyết giá đã phủ đầy ngàn
cây, nội cỏ và ngay cả những tâm hồn đang nao nức, cũng bị băng giá làm
đông lạnh; trong suốt ba tháng chẳng có mặt trời.
Thế nhưng mùa nào cũng có những loài hoa biểu trưng
cho mỗi mùa trong suốt một năm như thế. Ngày xưa tại Á Đông chúng ta,
thường được nghe kể lại rằng: “Xuân lan, Thu cúc, Hạ trúc, Đông mai”.
Nghĩa là khi mùa xuân đến thì hoa lan nở. Mùa thu sang, cúc vàng khoe sắc
thắm. Mùa hè tuy oi bức nhưng hoa lựu và trúc cũng nở hoa và mùa đông tuy
lạnh giá như vậy nhưng những cành mai vàng cũng chờ ngày đơm hoa kết nụ.
Chữ Hán viết theo lối tượng hình; nên chữ Hoa (花)
được viết thành ba bộ và ghép liền vào nhau. Đầu tiên là bộ thảo (艹)
tượng trưng cho cây, cỏ và muôn vật từ đất phát sinh. Bộ bên trái là một
nhân đứng (亻);
nghĩa là nơi ấy có sự hiện diện của con người. Bộ thứ ba bên phải là bộ
chủy (匕);
nghĩa là sự cứng cỏi và bình an. Nếu ghép hai bộ nhân đứng (亻)
và bộ chủy (匕)
lại, sẽ thành chữ hóa (化).
Hóa đây là sự biến hóa của đất trời, cỏ cây, muông thú. Sự hóa thân của
chư Bồ Tát và chư Phật để vào cõi đời nầy, nhằm cứu khổ, độ mê cũng dùng
đến chữ hóa nầy. Rồi giáo hóa hay hóa độ cũng nằm trong khuôn khổ ấy. Ý
nói giữa con người và sự tiếp cận với đất trời trong cuộc sống bình an,
được thể hiện qua chữ hóa kỳ diệu nầy. Nếu ghép chung cả ba bộ lại, thì ta
sẽ được chữ Hoa
(花).
Vậy hoa là gì? Hoa là một loài cây cỏ sinh sống tự nhiên, lại có thêm sự
hiện hữu của con người trong cõi thế, giúp cho loài thảo mộc này trụ lại ở
đời, nên được gọi là hoa. Dĩ nhiên còn nhiều lối định nghĩa khác nữa,
nhưng theo lối định nghĩa ngày xưa là vậy. Theo nay, ta có thể nói: hoa là
loài cây có bông, mang nét đẹp tự nhiên và làm đẹp cho con người cũng như
cảnh trí.
Mùa hoa Anh Đào ở Nhật thường nở rộ suốt trong một tuần lễ từ ngày 8 đến
ngày 15 tháng 4 dương lịch mỗi năm. Ngày ấy người Nhật tổ chức lễ Phật Đản
Sanh; được gọi là Hanamatsuri (mùa lễ của hoa). Đúng ngày 14 hay 15 tháng
4, người Nhật hay quây quần dưới những gốc hoa Anh Đào đang nở rộ để uống
rượu, ngắm trăng và xem hoa. Họ ca hát, nhảy múa, ăn uống thỏa thê như là
những ngày hội của một dân tộc. Hoa Anh Đào ngày nay không những chỉ có
mặt tại Nhật Bản mà còn hiện diện tại Washington D.C. Hoa Kỳ hay Đà Lạt
Việt Nam. Vùng nào có khí hậu ôn đới thì hoa Anh Đào thường nở hoa vào
tháng tư. Còn nhiều nơi nhiệt đới, hoa Anh Đào hầu như không tồn tại.
Những cánh hoa Anh Đào rất mỏng và thường có màu hồng, khi ra hoa không
một lá nào xen kẻ. Khi hoa nở xong, lá mới đâm chồi từ cành cây. Đây cũng
là một biểu hiện đặc biệt của loài hoa vương giả nầy. Sau một mùa đông
lạnh buốt, khi ánh thái dương của mùa xuân ấp áp tràn ngập đó đây thì hoa
Anh Đào xuất hiện.
Dĩ nhiên là còn rất nhiều loài hoa khác cũng nở vào mùa nầy nữa. Có nhiều
loài hoa sang trọng, cao sang như hoa Mộc liên. Tiếng Nhật gọi là Mokuren
no hana. Hoa này là hoa sen được mọc trên đất liền, không cần bùn và nước.
Khi nở cho nụ màu tim tím. Đôi khi một năm nở cả hai lần và đặc biệt cũng
chỉ ở những xứ lạnh mới có loại hoa nầy. Ngoài ra, hoa mai của Việt Nam
chúng ta nở vào mùa Tết Nguyên Đán; người yêu thích hoa, nâng niu hoa như
là một biểu hiệu cao cả trong gia đình. Còn loài hoa mai của các xứ lạnh,
nở tự nhiên ngoài đường phố hay trong rừng sâu. Cũng màu vàng ấy; nhưng
không là loài hoa vương giả như tại các nước Á Châu mình hay trân quý.
Hoa Tulip tại Hòa Lan hay hoa Cẩm Chướng v.v… là những loài hoa bình dị;
nhưng khi nở lại thuận theo đất trời; nhất là sau một mùa đông giá buốt,
tuyết băng… hoa Tulip đã mọc lên và trổ hoa thật đẹp, như là sự báo hiệu
của một mùa xuân nắng ấm đang đợi chờ trước mắt những du khách từ phương
xa đến đây để xem những ngày lễ hội của hoa. Hoa Tulip bạt ngàn đủ màu, đủ
sắc, đủ loại, đủ giống khó thể hình dung và nắm bắt hết được những vẻ đẹp
nên thơ, chỉ có rừng hoa Tulip và hoa Cẩm Chướng mang lại cho con người.
Ai dầu cho khó tính đến đâu cũng không thể chê hoa, dầu cho đó là loài hoa
nào đi chăng nữa. Ít ra, hoa cũng mang đến được một sự bình an nho nhỏ nào
đó cho con người, khi hoa đã thể hiện trọn vẹn nhiệm vụ của mình, là cống
hiến cho đời những gì tươi đẹp mà hoa có thể mang lại.
Hoa ngày nay nở trái mùa rất nhiều. Vì lẽ người ta có thể bắt hoa nở tùy ý
theo sở thích của con người qua sự lai giống hay thuốc hóa học. Nghĩa là
mùa nào cũng có thể ngắm nhìn hay mua sắm những loài hoa mình thích. Cuối
triều nhà Thanh bên Trung Quốc, có bà Từ Hy Thái Hậu đã bắt hoa cúc phải
nở theo ý mình và cá phải chìm nổi theo cái nhìn ngắm của bà. Ngày nay sau
mấy trăm năm lịch sử, nếu ai đó có đến Di Hòa Cung tại Bắc Kinh đều còn
được nghe kể lại những sự tích nầy.
Những người con gái ở trong cung vua ngày xưa; hoặc những mệnh phụ phu
nhân, được gọi là: “kim chi, ngọc diệp”; nghĩa là: “cành vàng, lá ngọc”.
Cành ấy chỉ chọn những con chim cao quý mới được đậu vào đó và lá kia chỉ
được tiếp xúc với những bậc vương tôn, công tử và không là những kẻ dân
giả hay hạ tiện bình dân.
Còn nhà Phật vẫn trân trọng những bông hoa tuệ giác; nên Mãn Giác Thiền Sư
đời nhà Lý đã có hai câu thơ rằng:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
Nghĩa:
“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai”
Hoa ấy là hoa tâm; hoa ấy là hoa Phật và hoa ấy chỉ nở khi tâm người đã tỏ
ngộ. Dẫu cho xuân đã qua rồi, hay mùa đông giá băng đang đến, hoa mai kia
vẫn nở rộ nơi lòng người con Phật đã giác ngộ.
Một vị Thiền Sư người Nhật ở thế kỷ thứ 13 có bài Haiku như sau:
“Ki no naka ni hana ga aru
Ishi no naha ni hi ga aru”
Nghĩa:
“Trong cây có hoa
Trong đá có lửa”
Hoa từ trong lòng đất; hoa từ trong tâm thức; hoa có sẳn trong thân cây,
cũng như lửa có sẳn trong đá. Nhưng hoa chỉ nở khi nào có khí trời ấm áp
và lửa chỉ hiện ra khi nào có sự cọ xát bởi đá. Tâm ta cũng như vậy, Phật
tính chỉ hiển lộ khi con người có sự dụng công và miệt mài với công án.
Ngoài cây không có hoa, ngoài đá không có lửa; ngoài tâm nầy không có Phật
tánh và ngoài Phật tánh không phải chỉ tồn tại nơi thân. Thân và tâm tuy
hai mà một; tuy một mà hai. Nghĩa là ngoài cái thân nầy không có cái kia
và ngoài cái kia không có cái nầy.
Tôi đến Hoa Kỳ từ Đức lần đầu tiên vào năm 1979 và cho đến nay (2010) cũng
hơn 31 năm Xuân qua Đông lại rồi. Mỗi năm như thế ít nhất là một lần đi Mỹ
và nhiều khi có cả 3 hay 4 lần. Như vậy trung bình trong hơn 30 năm qua,
tôi đã có 50 hay 60 lần đến xứ này. Phải thành thật mà nói rằng: không đâu
đẹp bằng Mỹ, không đâu to lớn và giàu sang, văn minh như Mỹ. Tuy nhiên đời
sống tại đây lại bận rộn vô cùng. Do vậy tôi đã không chọn nơi đây làm quê
hương thứ hai sau nhiều lần qua lại là vậy. Âu Châu; nơi dễ sống và dễ tu,
đối với người ở mọi mức độ trung bình. Úc Châu có một chân trời cao rộng
và thoáng mát; nhưng thiếu nước về mùa hè. Phi Châu quá nóng bức, Á Châu
quá già nua, cằn cỗi. Cho nên tôi vẫn thường hay nói rằng: “xứ Hoa Kỳ chỉ
để giành cho những người giỏi và giàu có”. Ai mà không có khả năng thì
không nên ở xứ Mỹ. Vì vòng quay của xứ Hoa Kỳ nhanh lắm; không khéo thì
người ta sẽ bị quay ra ngoài cuộc sống. Ngay cả người xuất gia cũng vậy.
Xứ này đặc biệt; cho nên mọi thứ cũng đặc biệt. Điều ấy hẳn là thế; nếu ai
đó đã đến xứ nầy rồi sẽ rõ.
Trong hơn 30 năm ấy, tôi đã có nhân duyên đến Hoa Kỳ này bằng nhiều thời
điểm và nhiều vùng khác nhau. Có nghĩa là các mùa xuân, hạ, thu, đông v.v…
tôi đã trải qua nhiều lần như thế. Mỗi nơi lại có một vẻ đẹp khác nhau.
Mỗi chỗ lại có một quan niệm sống khác nhau. Do vậy, cái nầy hay cái kia,
nó cũng chỉ là một sự đối đãi, chứ không là sự tuyệt đối, dưới cái nhìn
tương đối của con người.
Tôi viết văn và dịch sách
(xem tác phẩm);
nên phải đi nhiều nơi mới có nhiều ý tứ để viết. Nhiều khi đi chỉ để mà đi;
đến chỉ để mà đến! vì đến hay đi đối với tôi không còn là chỗ ưa thích nữa,
mà là bổn phận và trách nhiệm mà thôi.
Gần 6 năm nay chúng tôi đi thành đoàn thể. Có thể gọi là Đoàn Hoằng Pháp
lưu động đến từ Âu, Úc và Mỹ châu. Mỗi lần như thế đi cả 10 hay 12 thầy cô
và mỗi nơi được chọn, ở lại trong vòng một tuần lễ. Các khóa tu học Phật
pháp thường được tổ chức vào cuối tuần và đôi khi cả trong tuần nữa. Chúng
tôi thay phiên nhau giảng cũng như tụng kinh, tu tập và hội thảo, giải đáp
thắc mắc v.v… Đa phần chúng tôi đi dọc theo biên giới miền Đông, miền Tây
và miền Trung Hoa Kỳ. Mỗi lần đi như vậy từ 6 đến 8 tuần lễ. Dĩ nhiên ở
tại Hoa Kỳ không thiếu những Thầy, Cô giỏi, có thể hướng dẫn giáo lý và sự
tu học cho Phật tử; nhưng Phật Pháp là nhân duyên, khó nói hết. Vả lại,
chư Tổ ngày xưa vẫn thường dạy rằng:
“Hoằng pháp thị gia vụ
Lợi sanh vi sự nghiệp”
Nghĩa:
“Hoằng pháp là việc nhà
Lợi sanh là sự nghiệp”
Sự nghiệp của người xuất gia không phải ở chổ chùa to Phật lớn hay đệ tử
nhiều v.v… mà là ở chổ làm lợi lạc gì được cho quần sanh, mới là điều đáng
kể. So với loài hoa vô tư vô giác kia, còn mang lại được hương thơm cho
Đời cho Đạo. Còn con người há lại chẳng đóng góp được một chút gì cho sự
hưng thịnh của Phật Pháp sao?
Đời sống của người xuất gia như người xưa thường bảo:
“Nhứt bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Thuyết pháp độ xuân thu”
Nghĩa:
“Một bát, cơm ngàn nhà
Một thân, muôn dặm xa
Chỉ vì sự sanh tử
Thuyết pháp độ người qua”
Chỉ chừng ấy cũng đầy đủ cho mục đích sống của một người xuất gia, sống
đời phạm hạnh rồi. Sống thong thả tự do, không bị ràng buộc bởi tình riêng,
nợ chung; không bị thế quyền, danh lợi, thị phi, nhân nghĩa chi phối… Cho
nên người xuất gia có một chân trời cao rộng; không bị một hoàn cảnh, một
điều luật nào ép buộc cả. Ta đến nơi đây bằng hai bàn tay trắng thì khi ra
đi tất cả cũng phải để lại cho đời. Nếu có chăng là bóng hình thoạt ẩn,
thoạt hiện mà thôi; giống như Hương Hải Thiền Sư đã nói:
“Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô lưu tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”
Nghĩa:
“Vết nhạn bay qua
Ảnh chìm dưới nước
Nhạn không có ý lưu dấu vết
Nước không có tâm giữ lại ảnh kia”
Tất cả đều vô tâm, như sự đến và sự đi trên quả địa cầu nầy vậy. Tôi không
biết rằng phái đoàn chúng tôi còn đi hay phải đi trong bao lần như thế nữa;
nhưng nếu có đến hay có đi cũng như giòng suối thời gian trôi mãi không
ngừng và chưa hề có ý quay trở lại để tìm dấu vết năm xưa.
Hơn 25 năm trước, tôi đã đến thành phố Chicago nầy và chùa Quang Minh hồi
ấy chỉ là một mái nhà bằng gỗ tạm bợ. Đêm về nghe mưa rơi, chuột cống bò
lên tận giường nằm để gặm chân khách phương xa mới đến. Chùa ngày ấy nằm ở
trong khu ổ chuột; sau này được cúng dường cho cố Hòa Thượng Thích Đức
Niệm, Giám Đốc Phật Học Viện Quốc Tế và quý đệ tử của Ngài như Thầy Minh
Huệ, Thầy Minh Chí và Thầy Minh Hạnh sau đó quý Thầy nầy đã di dời về tạo
mãi và địa chỉ trong hiện tại. Từ chùa Quang Minh đã phát sinh thêm 3 chùa
nữa tại vùng nầy. Đó là chùa Trúc Lâm, chùa Phật Bảo và chùa Quan Âm. Tôi
cũng có nhân duyên đối với chùa Phật Bảo một thời gian; nhưng sau này
thiếu duyên lại thôi. Đúng như pháp mà Ngài A Thuyết Thị gặp Ngài Xá Lợi
Phất lần đầu tiên đã nói:
“Tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh
Tất cả các pháp đều do nhân duyên diệt
Và tự tánh của các pháp là không”
Đúng là như vậy. Trước sau cũng sẽ trở về không. Cho nên hãy đừng vui khi
được kẻ khác khen tặng và hãy đừng buồn khi bị người khác chê bai. Việc ấy
là lẽ thường tình trong cuộc sống, có gì đâu để buồn, mà có gì đâu để vui.
Nhớ lại những năm 1979, lần đầu tiên đến Hoa Kỳ, tôi có ghé thăm cố Hoà
Thượng Thích Thiên Ân tại Los Angeles. Ngài có thể nói là vị Tổ khai sơn
của Phật giáo Viện Nam tại Hoa Kỳ. Tiến sĩ đại học Waseda Nhật Bản và Viện
trưởng Viện đại học Đông Phương (Oriental University); nhưng đến năm 1980
Ngài không còn nữa. Sau đó, cố Hoà Thượng Thích Mãn Giác kế thế trụ trì
Chùa Việt Nam tại Los Angeles; nhưng cách đây 3 năm Ngài cũng đã cởi Hạc
Tây quy; đúng như bút hiệu Huyền Không của Ngài. Nếu còn chăng nữa thì chỉ
còn:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”
Chùa Trúc Lâm tại Chicago cũng được hình thành trong nhân duyên và hoàn
cảnh như vậy. Bây giờ do Thượng Toạ Thích Hạnh Tuấn trụ trì. Thầy là người
có học cao, hiểu rộng và hơn 20 năm đã miệt mài đèn sách tại các đại học
lớn ở Hoa Kỳ như: Đại học San Francisco, Havard và Berkeley trong các
chương trình BA, M.T.S. và Ph.D. Trước đây 25 năm khi Thầy ấy còn ở tạm
trú trong trại tỵ nạn Pulau Bidong ở Indonesia có thư đến Đức thăm tôi và
hỏi rằng: đến Hoa Kỳ tỵ nạn thì nên ở chùa nào? Thuở ấy tôi thấy chỉ có
Hoà Thượng Thích Tịnh Từ ở chùa Từ Quang tại San Francisco là có thể được.
Vì Thầy ấy đi du học đến Mỹ từ Việt Nam hồi năm 1974 và có cái nhìn khác
hơn nhiều Thầy khác cho tương lai của Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Do đó
sau khi thầy Hạnh Tuấn đến chùa Giác Minh của Hoà Thượng Thích Thanh Cát
tại Palo Alto tạm trú một thời gian thì đến nương Hoà Thượng Thích Tịnh Từ
từ mấy chục năm qua và sau khi chùa Trúc Lâm hình thành, Thầy Tịnh Từ đã
cử Thầy Hạnh Tuấn về đây trụ trì là nguyên nhân cuả sự
việc.
Cố Hòa Thượng Thích Như Vạn là Bổn sư của Thượng
Tọa Thích Hạnh Tuấn, trụ trì Tổ đình Phước Lâm tại Hội An; nơi mà tôi đã
xuất gia và làm thị giả cho Ngài từ năm 1964 đến 1966. Nơi đây còn lại
trong tôi không biết bao nhiêu là kỷ niệm. Tổ đình này do Ngài Thiệt Dinh,
đệ tử Tổ Sư Minh Hải khai sơn vào đầu thế kỷ thứ 18. Đến đầu thế kỷ thứ
20, sau 200 năm truyền thừa; lúc cố Đại lão Hòa Thượng Thích Vĩnh Gia làm
trú trì ở đây có nhiều Giới đàn được mở tại Tổ Đình nầy. Đức Đệ nhất Tăng
Thống GHPGVNTN Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và Đức Đệ nhị Tăng
Thống, Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên đều thọ giới Cụ túc tại chùa
Phước Lâm nầy. Và các Ngài đã đắc giới với Cố Đại lão Hòa Thượng Thích
Vĩnh Gia. So về Tông môn Pháp phái thì tôi với Thầy Hạnh Tuấn rất gần gũi;
cho nên mỗi lần tổ chức những lễ lộc gì lớn tại Đức tôi đều mời Thầy ấy
sang.
Lần hoằng pháp nầy, phái đoàn chúng tôi đến Chùa
Trúc Lâm gồm có quý Thầy như: TT Thích Minh Dung trụ trì chùa Quang Thiện
tại California, TT Thích Thông Triết trụ trì Thiền viện Chánh Pháp tại
Oklahoma, TT Thích Nguyên Tạng phó trụ trì Tu viện Quảng Đức, Melbourne Úc,
Đại đức Thích Hạnh Đức trụ trì Chùa Phật Ân, Minnesota, Đại đức Thích
Thánh Trí Tu viện Bửu Hưng, Portland, Đại đức Thích Thiện Đạo Tri sự chùa
Phật Tổ, Long Beach, Đại đức Thích Hạnh Tuệ chùa Phật Đà, San Diego và dĩ
nhiên sau tuần lễ tu học tại đây Thượng tọa Thích Hạnh Tuấn cũng sẽ cùng
đi chung với đoàn để đến những nơi khác tại Hoa Kỳ nữa. Trên đường đi sẽ
có thêm Ni Sư Minh Huệ tháp tùng.
Phái đoàn đến
Chicago lần nầy phụ trách giáo lý căn bản Bậc Kiên cho Gia Đình Phật Tử
Việt Nam tại vùng Midwest nầy. Đã có hơn 100 anh chị em huynh trưởng và
đoàn sinh cùng quý đạo hữu về Chùa Trúc Lâm để tham gia khóa huấn luyện và
tu học, thi cử nầy. Ngoài ra các đạo hữu lớn tuổi từ chùa Phật Ân ở
Minesota cũng đã tham gia cùng với Khóa học giáo lý đặc biệt nầy. Đây là
mầm non của dân tộc và đạo pháp. Đây là những đóa hoa mùa xuân vừa hé nụ
để đi vào cấp Tập của huynh trưởng, để sẽ dần nở hoa qua các bậc Kiên, Trì,
Định, Lực của cấp Tập, Tín, Tấn và Dũng về sau này.
Giáo dục là một vấn đề nhân bản của con người. Con
người ở bất cứ một xã hội nào mà thiếu giáo dục ở nhiều phương diện, thì
con người ấy không làm được ích lợi gì cho xã hội mai sau. Thời gian của
giáo dục không hạn định, nhưng Gia Đình Phật Tử Việt
Nam, những đứa con cưng của Giáo Hội đã chọn cho mình một hướng đi xứng
đáng khi hướng về tương lai với nhiều sự thử thách và cám dỗ của cuộc đời.
Những màu lam ấy đã mang lại sự tin yêu cho cuộc sống, đã phủ lên những
tâm hồn non trẻ một chất liệu dưỡng sinh cho tâm linh ở bây giờ và mai hậu.
Giáo dục cũng là chiếc cầu nối từng thế hệ, từ quá
khứ đến hiện tại và từ hiện tại sẽ tiếp tục bắt tới cho tương lai.
Nếu không có quá khứ thì hiện tại sẽ không có và dĩ nhiên là tương lai sẽ
mờ mịt. Nhưng nếu nhịp cầu quá khứ bắt thẳng qua tương lai mà không lưu
tâm đến hiện tại, thì sẽ lỡ một nhịp cầu. Vì lẽ tre già thì măng phải mọc.
Chứ tre không thể là tre mãi và măng phải trưởng thành; chứ măng quyết
không thể chỉ là măng non trong muôn thuở.
Từ Oanh vũ đến ngành Thiếu rồi ngành Thanh các em
Gia Đình Phật Tử đã ý thức được điều ấy. Đến khi có trách nhiệm cầm đoàn
qua các cương vị như Đội trưởng, Đoàn trưởng, Liên đoàn trưởng v.v… thì
các em lại còn có trách nhiệm với các bậc đàn em của mình nhiều hơn nữa.
Trong thế giới của Phật giáo, cách riêng chỉ có
Việt
Nam là có Gia đình Phật tử. Điều này phải niệm giữ thâm ân nơi người sáng
lập. Đó là cố Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám. Vào thời điểm hơn 70 năm
trước, nếu không có những con người có đầu óc tiến bộ, muốn canh tân Phật
giáo Việt Nam, trong đó có tuổi trẻ Phật giáo, thì Gia Đình Phật Tử không
có mặt ngày nay với hơn 300.000 đoàn sinh ở trong và ngoài nước như thế
nầy. Đây là những bông hoa đầy màu sắc đang nở rộ trong vườn hoa tâm linh
của Dân tộc và Đạo pháp vậy.
Mỗi khi có dịp thuyết trình tại các diễn đàn nói
tiếng Anh, tiếng Pháp, hay tiếng Đức, tôi đều trình bày với thính chúng
địa phương rằng: “Quý vị lâu nay đã sống với vườn hoa tâm linh do Thiên
Chúa mang đến. Hôm nay chúng tôi mang thêm những bông hoa mới của Phật
giáo từ Á Đông đến để trồng vào vườn hoa tâm linh của quý vị. Quý vị đừng
lo ngại, vì nếu trong vườn hoa kia, nở thêm nhiều màu sắc thì ngôi vườn
kia sẽ trở nên đẹp đẽ hơn. Có lẻ quý vị không chối từ việc nầy”. Dĩ nhiên
là ai ai cũng đáp lại bằng nụ cười; nhưng trong thâm tâm của họ chắc không
có gì lo ngại lắm về những tư tưởng của Đạo Phật và những bông hoa giác
ngộ đem đến từ những xứ Á châu xa lạ kia.
Hôm nay từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 4 năm 2010 tại
chánh điện và vườn chùa Trúc Lâm Chicago đã nở ra hơn 100 đóa hoa của Gia
Đình Phật Tử và quý đạo hữu như thế. Mỗi hoa có 5 cánh và hoa đời hoa đạo
ấy sẽ tiếp tục mang hương sắc nhiều màu vào trong các cõi nhân sinh để
tưới tẩm và gội nhuần những tâm hồn biết hướng thượng như vậy.
Bước chân của chúng tôi đã đặt lên trên mặt đất gần
Ngũ đại hồ và Chicago, Michigan hay những vùng lân cận đó; nơi những giòng
nước ngọt tràn đầy lai láng như mặt biển của đại dương. Bên cạnh những bờ
hồ cũng có nhiều người đang ngồi câu thời vận và chờ cho những đóa hoa ven
bờ nở rộ, để họ tận hưởng được một mùa xuân thật tràn đầy ý nghĩa, khi mọi
nhu cầu về sự sinh tồn của con người được đáp trả lại chăng!
Trên đường
Wilson nằm trước mặt chùa Trúc Lâm nầy có rất nhiều cây cao đã đâm chồi
nẩy lộc. Nhìn những nụ xanh bụ bẩm như thầm bảo cho ta biết rằng: xuân đã
đến rồi đây! . Cây nầy kế tiếp cây kia như thầm bảo nhau rằng: trước mắt
là những điều hứa hẹn. Vì không khí mùa xuân đã ấm áp và bên kia đường,
những loài hoa dại cũng đang khoe sắc màu với chúng ta, đâu có ngại ngùng
gì với sương gió màn đêm. Nơi đây là tất cả. Vì bên cạnh đường cái nầy,
còn biết bao nhiêu con đường dẫn đến tâm linh, mà những cánh hoa kia đã vô
tình hay cố ý nở rộ trong lòng người tại đất Chicago nầy.
Viết để tưởng niệm những ngày tháng đã qua, để nhớ
về những bậc Thầy ở một thuở xa xôi trong quá khứ. Viết để tri ân và hồi
tưởng những pháp lữ đã giúp cho tôi có đầy đủ nghị lực trong cuộc hành
trình và nhất là cho những mầm non, những đóa hoa đang nở đúng mùa của Gia
Đình Phật Tử Việt Nam đang học giáo lý bậc Kiên vào những ngày tháng cuối
tháng 4 năm 2010 để sang năm 2011 cũng vào cuối tháng 4 như thế nầy phái
đoàn lại đến đây một lần nữa và lúc ấy Phật Ngọc đi vòng quanh thế giới sẽ
về đây, trước khi sang Âu Châu, để cho những đóa hoa lòng có cơ hội nở
thêm một mùa xuân nữa nhằm đón mừng sự thị hiện nhiệm mầu của chư Phật
mười phương.
Viết để tặng cho Gia Đình Phật Tử vùng Midwest-
Chicago tháng 4 năm 2010.
Thích
Như Điển.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).29/4/2012.
No comments:
Post a Comment