Friday 20 April 2012

Khai thị từ đức liên hoa sanh về con đường đại toàn diện
There are no translations available.

Tác giả: Đức Phật Bảo Sinh (Padmasambhava)
Ghi lại thành văn bản: công chúa - đạo sư Yeshe Tsogyal
Nguyên bản "Advice from the Lotus-Born"
Nhà xuất bản Rangjung Yeshe, 1994
Chuyển ngữ Tạng - Anh: Erik Pema Kunsang
Chuyển ngữ Anh - Việt: An Phong
Thiện Tri Thức xuất bản 1998, tái bản 1999. Lời giới thiệu:
Một tuyển tập những khai thị của đức Liên Hoa Sanh cho công chúa Yeshe Tsogyal và các đệ tử thân cận khác được công chúa ghi chép cẩn thận & chôn giấu.
Sách này được khám phá từ Động Lớn ở Puri do tôi - Sangye Dorje (Sangye Lingpa), một tín đồ khất thực của Đức Thích Ca Mâu Ni.
-------------------------------------------
(Trích)
"Viên ngọc như ý của sự hồi hướng"
Đưa thiện căn công đức đến chỗ hoàn hảo.

"Các phương tiện thiện xảo này, đưa thiện căn công đức đến chỗ hoàn hảo, là những lời dạy truyền miệng về hồi hướng có tên là "Viên Ngọc Như Ý Của Hồi Hướng", được Đức Padmasambhava ban cho.
Tôi, Tsogyal, viết lại chúng trong hình thức ghi chú và cất dấu chúng như là kho tàng bí mật Terma.
Nguyện rằng chúng gặp người xứng đáng tiền định!"
Pháp hồi hướng các thiện căn nhiều vô số.
Bất cứ công đức nào con đã tích lũy, sẽ tích lũy, hay công đức con đang hoan hỷ.
Lành thay, giờ đây hãy hoan hỷ với quyết định hồi hướng các thiện căn này đặc biệt về trạng thái vô thượng của giác ngộ.
Để cho điều này được hoàn thành, quan trọng là có đủ 3 yếu tố:
- Công đức được hồi hướng.
- Người nhận hồi hướng.
- Ý muốn hồi hướng.
Đối với người thực hành Mật Thừa, người Thầy được xem là ruộng công đức thanh tịnh, như Shri Guhyasamaja nói :
Lúc bắt đầu của bất kỳ dâng cúng nào,
Để qua một bên mọi sự dâng cúng khác và bắt đầu sự dâng cúng đến Thầy con,
Bởi vì làm vui lòng Ngài con sẽ đạt đến thành tựu, trạng thái cao cả của toàn giác.
Với người tu tập theo Đại Thừa, (quyết định Đại Thừa là nguyện của Bồ Tát đạt đến giác ngộ vì sự lợi lạc của tất cả chúng sinh) Người Nhận Thấp Kém là quan trọng hơn, nâng đỡ những người tàn tật, kẻ bị khước từ và không nơi nương tựa. Một đoạn Kinh nói:
Những người tuyệt vọng và cô đơn
Người bệnh hoạn và tàn tật
Người già, ốm yếu, giác quan hư hỏng,
Người nghèo khó, người đói cơm, và người xin ăn... - Bồ Tát phải nâng đỡ những người không ai che chở đó.
Với những Người Nhận Thanh Tịnh này, hoặc cao hay thấp, vật phẩm chúng ta dâng cúng là thực sự có mặt hay tạo ra bằng tâm thức.
Với mây cúng không gì sánh của Phổ Hiền,
Thực có và tâm thức tạo ra,
Bao la và tràn đầy trong không gian thanh tịnh
Con cúng dường với một đại dương dâng cúng bên ngoài, bên trong và bí mật.
Có dạy rằng người ta phải bố thí những món cần thiết.
Của cho không bị nhiễm ô bởi tà hạnh, tà mạng, cho những người nhận bậc thấp bằng sự cúng dường bốn thứ, như Kinh nói :
Không phải là phẩm vật từ trộm, cướp hoặc của thường trụ (1*),
Không phải là vật có hại,
Mà là thứ quý giá và vui thích và, tốt nhất là thứ cần đến.
Hơn nữa, có nói rằng:
Giúp đỡ người nghèo và tàn tật
Với bốn loại cúng dường
Thực phẩm dự trữ và thứ đẹp mắt (đồ tốt) nhưng không phải là đồ vật có lẫn tà hạnh hay vũ khí,
Cũng không là thức ăn nhiễm độc bởi sự kiếm được bất tịnh.
Hãy tự thúc đẩy con trong lối này, với một thái độ thanh tịnh đối với phước điền thanh tịnh.
Làm phát sinh niềm tin vào Các Người Ở Trên, lòng bi với Các Người Ở Dưới với tâm thức giác của giác ngộ.
Có nói rằng:
- Thúc đẩy bằng niềm tin và lòng thương xót.
- Cúng dường cho người khác với thái độ giác ngộ.
- Hướng dẫn bởi hồi hướng và thiện nguyện.
- Và niêm bằng cách không ý niệm hóa ba luân (2*).
Cũng có nói :
Khi có một thái độ thanh tịnh
Đối với mọi vật thanh tịnh
Hãy cúng dường vật tốt nhất.
Khi con hồi hướng chúng về trạng thái của Thừa Tối Thượng và đóng dấu bằng cách không ý niệm hóa ba luân, sự hồi hướng này là siêu tuyệt nhất.
Theo cách này, sự tích lũy công đức được tạo ra do 3 yểu tố:
- Đối tượng liên hệ
- Phẩm vật
- Thái độ hồi hướng.
Công đức này được hồi hướng đến cái gì, hồi hướng cho nguyên nhân hay cứu cánh nào ?
Trích dẫn Đại Mẫu Bát Nhã Balamật: "Bồ tát hồi hướng mọi công đức hay thiện căn về trạng thái toàn giác viên mãn, không về trạng thái Thanh Văn hay Bích Chi Phật."
Như thế, hồi hướng đến nhân cho sự đắc quả toàn giác, quả vị Phật.
Padmavajra nói về các loại đạo sư để hồi hướng (nhờ sự chứng minh của Thầy):
Những vị thấu rõ trạng thái bản nhiên của cái thấy,
Là đệ tử trong đại định
Sở hữu tâm giác ngộ và đại bi
Và mọi dấu hiệu của bậc siêu xuất - các thiện tri thức cao cả như vậy là những bậc thầy siêu việt để hồi hướng công đức.
Tốt nhất là gặp (nương nhờ) một vị thầy như thế.
Nếu không, có nói rằng:
Với người nào có đức tin và quyết tâm tối thượng Phật sẽ đích thân hiện diện và vào đúng thời gian, như khi trăng non, trăng tròn và ngày mùng tám (1, 8, 15)
hãy hồi hướng thiện căn trong sự hiện diện của Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng đoàn 4 người).
Cũng có thể hồi hướng trước bàn thờ Phật.
Sự hồi hướng được làm cho ai ?
Chớ hồi hướng cho một người nhất định, nhưng cho tất cả chúng sinh mà hầu hết là những ‘người đại loại'(3*)
Như có nói :
Trực tiếp và gián tiếp, chỉ làm vì lợi ích của chúng sinh (cho tất cả hữu tình)
Con phải hồi hướng mọi công đức cho sự giác ngộ của họ.
Với một người còn sống, chỉ đơn giản dùng tên;
Với người đã chết, hãy dùng ‘đại loại'
Khi hồi hướng cho tất cả chúng sinh mà hầu hết là một người cụ thể bằng cách:
Giữ cho thân tâm bạn thành kính, chắp tay lại và tưởng tượng rằng trước mặt bạn, vị Thầy của bạn đang ngồi, và bậc Điều Ngự siêu việt, Đức Phật trang nghiêm với các tướng chính và phụ, bao quanh bởi tất cả chư Phật và Bồ Tát của mười phương, cũng như bởi các Guru, Yidam, Dakini, và các Hộ Pháp.
Cúng dường thân bạn, sự thịnh vượng, quyền lực và vinh quang, cùng mọi thiện căn, nghĩ rằng:
- "Mong tất cả chúng sinh mà hầu hết là những ‘người đại loại' được đạt đến giác ngộ tối thượng viên mãn - con hồi hướng mọi thiện căn, công đức, trí huệ đã tích lũy được và tất cả các thứ khác từ vô thủy sanh tử".
Hãy lập lại các hồi hướng 3 lần.
Nếu có tăng chúng 4 vị hiện diện, thỉnh cầu các vị thêm vào các thiện nguyện của các vị ấy.
Vị thầy phải đích thân tập trung vào quyết định này mà không chao động khỏi lời nói và ý nghĩa của chúng :
- "Chư Phật và Bồ Tát trụ khắp mười phương, xin chiếu cố đến... . Các thiện căn được tạo từ bố thí, trì giới, thiền định... mà ông (hay bà) X, Y... đã tạo được (hay giúp người khác tạo được, hay tùy hỷ với công đức người khác tạo được), và các thiện căn từ phước đức và trí huệ do thân ngữ ý trong đời này hay đời sau - cũng như mọi Thánh nhân đã thành tựu trong thần lực của chân lý đã làm, tôi trọn vẹn hồi hướng chúng như là nguyên nhân cho giác ngộ vô thượng viên mãn để cho ông (hay bà) X, Y... cũng như cho tất cả chúng sinh."
Nếu sự chứng ngộ của người được hồi hướng cao hơn của con hay nếu đó là một đại sư, hãy thỉnh cầu chứng giám và hồi hướng ước nguyện cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh như sau :
- "Mong rằng mọi chúng sinh nhanh chóng đạt đến trạng thái quý giá của giác ngộ tối thượng viên mãn!
Mong rằng trải qua mọi kiếp tái sinh đạt được mức độ trời hay người trong các cõi cao, không bị đứt đoạn bởi các tái sinh thấp!
Mong rằng họ có mọi phẩm tính của một tái sinh tính cách cao thượng nhất!
Mong rằng họ gặp được thiện tri thức, các bậc thầy cao cả, và được chấp nhận làm đệ tử!
Mong rằng họ hưởng thụ sự thịnh vượng của các giáo lý không gì sánh nổi của Tối Thượng Thừa!
Qua sự có được chỗ ở tốt, bạn lành và điều kiện tốt đẹp, mong rằng họ rộng chuyển Bánh Xe Pháp sâu xa và thanh tĩnh của Tối Thượng Thừa!
Qua hoạt động bi mẫn vô lượng cùng với từ ái của tâm giác ngộ, mong rằng họ thành tựu lợi lạc cho hữu tình một cách không cần cố gắng và tự nhiên, giáo hóa mỗi chúng sinh bằng con đường nào thích hợp!
Mong rằng họ được hộ trì bởi sự thành tựu của các công đức của họ!
Mong rằng họ đi vào trong tạng của mọi tích tập này!
Mong rằng họ đi theo dấu chân của Các Ngài!
Mong rằng họ đồng đẳng với Chư Phật trong chứng ngộ, đại bi, công đức và thực hành Pháp!
Trên con đường thực hiện điều này, mong rằng mọi yếu tố xấu xa và đối nghịch như là khó khăn, chướng ngại, phóng dật, lười biếng, tà hạnh và lỗi lầm đều lặng mất!
Mong rằng họ có được những hoàn cảnh tuyệt hảo và dồi dào các phẩm tính an vui như: sống lâu, sức khỏe, bề ngoài hấp dẫn, niềm tin sâu xa, trí óc nhạy bén, đại bi, sinh lực mạnh mẽ, thịnh vượng, vui vẻ bố thí, các thệ nguyện samaya thanh tịnh, giới luật hoàn hảo v.v...!"
Nếu sự hồi hướng và ước nguyện được làm cho một người quá cố, đến lúc này hãy cử hành Lễ "Nghi Tịnh Trừ Chướng Ám".
Nếu sự hồi hướng và ước nguyện dành cho một người sống, thì nói một nguyện vọng thích hợp như:
- "Trong đời này, mong rằng họ được trường thọ, sức khỏe tốt, và sung túc!
Mong rằng mọi bệnh tật, ác hạnh, che chướng, vi phạm, lỗi lầm... các chướng ngại bên ngoài và bên trong, mọi năng lực xấu đều được yên tịnh!
Mong rằng họ an trụ trong Pháp với tư tưởng, lời nói và hành vi!
Mong rằng mọi ước mong của họ được viên thành!
Vào lúc chết, mong rằng họ không phải chịu đựng sự đau khổ do sinh lực bị đứt đoạn, mà mọi trạng thái ý niệm của phiền não đều lắng dịu, và họ nhớ lại vị Thầy và Tam Bảo một cách hoan hỷ thích thú!
Mong rằng họ được che chở bởi tâm đại bi của tất cả các bậc thánh và các vị là đối tượng tối cao cho sự quy y!
Mong rằng họ hoàn toàn không phải chịu đựng sự sợ hãi khủng khiếp của trung ấm, và mong rằng mọi cánh cửa vào các cảnh giới thấp đều được đóng lại!
Như là cái tối hậu, mong rằng họ sớm đạt đến trạng thái quý giá của giác ngộ vô thượng, chân thực và viên mãn!
Với sự ban phước của ba thân giác ngộ của Phật,
Với sự ban phước của chân lý bất biến của Pháp tánh,
Với sự ban phước của chư Bồ Tát,
Mong rằng sự hồi hướng của con được thành tựu!
Mong rằng mọi mong muốn của con thành hiện thực!"
Nói vậy xong, chấm dứt bằng cách đóng dấu ấn niêm phong với sự thanh tịnh ba luân của vô niệm.
Có công đức vô biên khi niêm ấn với sự hồi hướng quý giá trong cách này và phát lên những lời nguyện toàn hảo. Kinh Thỉnh Cầu Bởi Trí Bất Đoạn nói :
"Như một giọt nước rơi vào đại dương
Sẽ không khô mất cho đến khi nào đại dương khô cạn,
Cũng cách ấy, công đức hồi hướng trọn vẹn đến giác ngộ
Sẽ không tan biến trước khi đạt đến giác ngộ".
Kinh cũng nói rằng :
"Trong sự hiện diện của Tam Bảo,
Hóa thần, thầy con, hay tương tự,
Với niềm tin, gom góp các sự tích tập
Và phát những nguyện vọng rộng lớn như thế.
Công đức ấy không thể nghĩ bàn".
Khuyết điểm của sự không niêm dấu ấn với sự hồi hướng quý báu được diễn tả như là 4 nguyên nhân của sự khô kiệt (công đức):
- Sau khi tạo được một thiện căn mà không hồi hướng,
- Hồi hướng sai lầm (bởi tham, sân, si)
- Khoe khoang (thiện hạnh) đó với người khác,
- Cảm thấy hối tiếc về việc lành đã làm.
Đó là bốn nguyên nhân làm khô kiệt (công đức).
Bởi thế, cần hồi hướng theo cách sau. Tưởng tượng rằng những tia sáng rực rỡ phóng ra từ trái tim của Phật và chạm đến thân, ngữ, ý của những chúng sanh được hồi hướng cho, tẩy sạch hoàn toàn các ác nghiệp, che ám, tội lỗi của họ. Họ trở thành những khối cầu ánh sáng rồi chúng tan vào trung tâm trái tim của Phật. Phật và Thánh chúng tan biến vào hư không nền tảng, như một cầu vồng tan giữa bầu trời. Ấn niêm như thế, bằng cách không ý niệm hóa ba luân, trở thành sự hồi hướng chân thật và tối thượng.
Đức Di Lặc đã nói :
"Sự hồi hướng phi thường, tròn đủ
Cái cao trổi nhất để cử hành
Là thái độ tự do khỏi sự trụ vào danh tướng,
Tức là không có vô minh".
Ngài nói thêm :
"Hơn nữa, sự hồi hướng vô thượng
Là hiểu biết thấu triệt rằng không có bản tính thực
Trong công đức được tạo ra, trong quả của nó
Trong người được hồi hướng hay trong hành động hồi hướng".
Bởi thế, hãy chôn cất mọi công đức được tạo ra cho một định hướng đặc biệt như một kho tàng vô tận, và hoàn tất nó bằng cách ấn niêm nó với sự thực hành của Đại Thừa.
Hãy tôn kính khi tùy hỷ niềm vui bằng sự biết ơn chân thành.
Đây là con đường được dạy.
Samaya (4*).
Căn bản, khi làm một hồi hướng, có 3 điểm tổng quát:
- Hồi hướng bảo vệ toàn vẹn món quà công đức của người trao;
- Hồi hướng sau một thực hành đặc biệt của Mật Thừa hay sau khi chuyển Bánh Xe Pháp thâm sâu;
- Hồi hướng hoàn thành sự tích lũy công đức ở trong hư không nền tảng của Tính Giác Bổn Nguyên.
Cái thứ nhất xảy ra tức thời sau khi người trao tặng vật phẩm, hay ngay sau khi tùy hỷ nó.
Hãy lập lại 3 lần lời nguyện sau, hay một lời nguyện khác thích hợp:
- "Đảnh lễ Chư Phật và Bồ tát mười phương, xin hãy chiếu cố đến người hồi hướng này. Các đạo sư và tăng chúng thanh tịnh, xin hãy chiếu cố.
Như thiện căn này biểu lộ,
Mong rằng bất cứ công đức nào người trao cho (thí chủ) tạo được trong suốt ba thời
Được hồi hướng về sự tăng trưởng rộng rãi của quả vô tận.
Mong rằng giác ngộ vô thượng sẽ nhanh chóng đạt được".
Cái thứ hai xảy ra vào lúc kết thúc của bất cứ sự nghiên cứu, chỉ dạy và thiền định bên ngoài hay bên trong nào, hay bất cứ cái nào của 10 hoạt động tâm linh (5*).
Hồi hướng theo cách sau:
- "Đảnh lễ chư Phật và Bồ Tát mười phương, các Guru, Yidam, Dakini (6*), và hóa thần Mạnđàla, cùng với Hộ Pháp của các Ngài, xin hãy chiếu cố đến con!
Ở trong đại Mạnđàla bao la của Phổ Hiền (7*),
Mong rằng mọi thiện căn được tạo ra trong suốt ba thời,
Bởi Guru cầm kim cương và các vị khác,
Và bởi tất cả huynh muội kim cương,
Trong công cuộc Chuyển Pháp Luân rộng lớn,
Được hồi hướng đến sự đạt đến Phật tính toàn mãn.
Mong rằng ai ai ở bất cứ đâu đều đạt đến trạng thái Phổ Hiền!".
Cái thứ ba xảy ra lúc kết thúc của bất kỳ lúc nào con hồi hướng, hay vào lúc chấm dứt của bất cứ loại hoạt động nào (có công đức).
Hãy làm sự hồi hướng này từ trong trạng thái của ‘Đại Ấn':
- "Các bậc Điều Ngự và đệ tử trong mười phương, xin hãy chiếu cố!.
Mong rằng bất cứ công đức nào được tạo ra bởi tư tưởng, lời nói và hành vi
Do chính con hay người khác trong tất cả chúng sanh
Trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai,
Được hồi hướng về cõi giới vô biên của giác ngộ
Mong rằng quả tối cao của bản tánh vô thượng được đạt đến!".
Lúc bắt đầu của bất kỳ loại hồi hướng nào, hãy quán tưởng Tam Bảo ở trước mặt như sự chứng giám. Tưởng tượng rằng các vị chấp nhận con với các lời hồi hướng và nguyện lành.
Tiếp theo, nói lên các lời hồi hướng trong khi ấn niêm bằng vô niệm cái con đang hồi hướng, đối tượng của sự hồi hướng, công đức và người tạo.
Vào lúc cuối, an trụ trong trạng thái siêu việt khỏi lời nói, tư tưởng và diễn tả, trong nó mọi hiện tượng của sinh tử và Niết bàn lúc ban đầu không sanh khởi, ở chặng giữa không dừng trụ và cuối cùng không hoại diệt.
Tôi, Tsogyal, viết lại chúng trong hình thức ghi chú và cất dấu chúng như là kho tàng bí mật Terma (8*).
Nguyện rằng: "chúng gặp người xứng đáng tiền định!"
Dấu ấn cất dấu.
Dấu ấn trao truyền.
Dấu ấn kho tàng.
Samaya.
Dathim.
----------------
Chú thích:
(1*) của thường trụ: tài sản thuộc về Tam Bảo hay của công ích của chung mọi người.
(2*) ý niệm hóa ba luân: chấp/bám dính vào hình tướng của vật thí - người thọ thí - hành động
thí
(3*) "người đại loại" vong linh của người mà sự hồi hướng được làm cho
(4*) Samaya: cam kết, các điều luật hay cam đoan của thực hành Kim Cương thừa.
Chính yếu, các samaya về bên ngoài duy trì một mối liên quan hòa hợp với đạo sư Kim
Cương và các bạn Pháp và bên trong không đi lạc ra ngoài sự liên tục hành trì.
Cuối của mỗi chương, chữ "samaya" đứng riêng là một lời thề xác nhận rằng điều được
nói là sự thật.
(5*) 10 hoạt động tâm linh:
- Chép kinh điển,
- Bố thí,
- Thiền định,
- Nghe thuyết Pháp,
- Ghi nhớ giáo lý,
- Đọc giáo lý,
- Trình bày, thuyết giảng Kinh điển
- Tụng chú,
- Tư duy suy niệm về giáo lý
- và quan trọng nhất thực hành nghĩa của Pháp.
(6*) 3 "gốc": Guru, Yidam và Dakini.
- Guru là gốc của các sự ban phước,
- Yidam là gốc của thành tựu,
- Dakini là gốc của hoạt động.
(7*) Phổ Hiền - Samantabhadra: Bậc mãi mãi trọn hảo, Bồ tát Phổ Hiền là gương tiêu biểu
cho sự thành tựu của sự cúng dường triển khai đến vô hạn.
(8*) Terma: sự trao truyền qua các kho tàng được chôn dấu để sẽ được khám phá vào một thời
điểm thích hợp bởi một Terton cho lợi lạc của các đệ tử tương lai. Truyền thống này được
nói rằng sẽ còn tiếp tục ngay cả khi Luật tạng đã biến mất. Các kho tàng được cất dấu có
nhiều loại, gồm bản văn, pháp khí, di vật, và đồ vật tự nhiên.
==========================================================
Lời giới thiệu của Tulku Urgyen Rinpoche, tháng mười 1993 tại Chùa Asura.
"Không có ai vĩ đại hơn Padmasambhava. Dĩ nhiên, Phật Thích Ca là gốc, nhưng Padmasambhava là Đấng đã làm cho các giáo lý Kim Cương Thừa lan rộng và nở rộ khắp Ấn độ và đặc biệt là Tây Tạng." Đã vài thế kỷ trôi qua, nhưng qua lòng tốt vô bờ của Ngài, Ngài đã cất dấu vô số terma cho sự lợi lạc của người tương lai - trong đá tảng, trong hồ, và ngay trong không gian. Nghĩ đến lòng tốt bao la này gây nên sự sợ hãi. Tuy nhiên, có những người không đánh giá nổi lòng tốt ấy.
Khi thời điểm đến cho các lời dạy terma được khám phá, các terton vĩ đại xuất hiện trong thế gian này. Các vị có thể lặn vào hồ, bay đến những nơi chốn hang động không thể đến và lấy báu vật ra từ trong đá tảng.
Lời dạy Terma, lời trực tiếp của Padmasambhava, khi được khám phá vào thời điểm định mệnh, thì có một chiều sâu mà các luận văn khác khó sánh được. Chúng có các ban phước độc nhất - nhưng sự ban phước tùy vào niềm tin và sùng mộ của bạn.
Công chúa Yeshe Tsogyal là người sưu tập chính các lời dạy của Padmasambhava, không có Bà chúng ta sẽ không có nhiều các lời chỉ dạy của Ngài đến thế.
Anan đã là người sưu tập chính những lời của Phật Thích Ca về Kinh, trong khi Vajrapani sưu tập lời dạy Mật thừa của Ngài; trong tinh túy chúng đồng nhất với nhau. Yeshe Tsogyal có cái được gọi là "trí nhớ không quên sót"; bà không bỏ quên một câu nào đã được nghe.
Người sưu tập những lời chỉ dạy của Padmasambhava này chính là một hóa thân của các Phật Mẫu Bát Nhã Balamật, Vajra Varahi, và Quán Âm Tara.
Bà xuất hiện trong thế giới chúng ta cho mục tiêu đặc biệt này - nó là nhiệm vụ của bà.
Anan, Vajrapani và Yeshe Tsogyal đều được diễn tả là có trí nhớ siêu phàm, năng lực ghi nhớ không quên sót. Sự nhớ không quên sót này là giống với điều mà chúng ta gọi là không phóng tâm, bởi vì quên và phóng tâm là cùng một bản chất. Trong cuốn sách này chúng ta có những lời chỉ dạy bà đã nghe, không quên sót, hệ thống hóa, và cuối cùng cất dấu như là kho tàng terma cho chúng ta.
Yeshe Tsogyal là một phụ nữ, có thể một số người tin rằng chỉ có nam giới mới có thể đạt giác ngộ, nhưng cuộc đời của bà là bằng chứng ngược lại. Trong thực tế, trạng thái giác ngộ của tâm thì không là đàn ông hay đàn bà.
Trong cuốn "Đại Dương Các Lời Dạy Kỳ Diệu Làm Hân Hoan Các Bậc Trí Giả," Guru Tashi Tobgyal ghi nhận rằng cha Bà là Namkha Yeshe họ Kharchen và Bà sinh ở Drongmochey xứ Drak. Ban đầu, Bà là một trong những hoàng hậu của vua Trisong Deutsen (790-844) nhưng sau được vua ban cho Padmasambhava làm người phối ngẫu tâm linh.
Trong lễ quán đảnh truyền pháp "Hội Chư Phật," bông hoa nhập môn của Bà rơi vào Mạnđàla Kilaya. Qua sự thực hành pháp môn này, Bà có thể thuần phục các hồn linh ác và làm sống lại người chết.
Bà là người sưu tập chính của tất cả giáo huấn vô số của Padmasambhava.
Ở lại Tây Tạng 200 năm, Bà ra đi đến cõi trời "Núi Vinh Hiển Màu Đồng Đỏ" mà không để thân xác lại.
Bà dấn thân vào sadhana với một sự tinh tấn không thể tưởng và đạt đến mức độ tương đương với chính Padmasambhava, sự tương tục được trang hoàng với thân, ngữ, ý, phẩm chất và hoạt động đều vô tận.
Lòng tốt của Bà đối với xứ sở Tây Tạng vượt quá tưởng tượng và hoạt động đại bi thì không khác với sự liên tục không ngừng nghỉ của Padmasambhava.
Yeshe Tsogyal có nghĩa là "Đại Dương Trí Huệ Vô Địch."
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------





VAJRA TOŠTRENG : "Chuỗi Kim Cương các đầu lâu." Một tên của Padmasambhava.
TRISONG DEUTSEN (790-844) : Vị vua Pháp vĩ đại thứ hai của Tây Tạng, người đã mời Guru Rinpoche, Shanta-rakshita, Vimalamitra và nhiều vị thầy Phật giáo khác trong đó có Jinamitra và Danashila. Trong cuốn Tràng Hoa quý báu của Lapis Lazuli, Jamgošn Kongtrušl ghi ngày sinh của vua là ngày 8 tháng 3 mùa xuân năm Con Ngựa Đực thuộc Thủy (802). Các nguồn khác nói năm ấy là năm ngài lên ngôi sau khi cha chết. Cho đến tuổi mười bảy, ngài chủ yếu là cai trị vương quốc. Ngài xây dựng đại tu viện Samye làm theo kiểu chùa Odantapuri, lập Phật giáo là quốc giáo của Tây Tạng, và trong thời ngài trị vì, các tu sĩ đầu tiên được thọ giới. Ngài thu xếp cho những pháp sư và những lotsawa dịch vô số kinh điển, và thiết lập nhiều trung tâm tu học. Trong số các tái sanh về sau của ngài có Nyang Ral Nyima OŠzer (1124-1192), Guru Chošwang (1212-1270), Jigmey Lingpa (1729-1798) và Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892).
PEMA SAL, CÔNG CHÚA : Con của vua Trisong Deutsen. Padmasambhava đã trao cho bà dòng Đại Toàn Thiện có tên là Khandro Nyingtig. Cô chết lúc trẻ tuổi, sau đó Padmasambhava đã làm bà sống lại. Khi cha cô hỏi tại sao một người có phước lớn vừa là công chúa vừa là đệ tử của đạo sư Liên Hoa Sanh lại phải chết lúc còn thiếu niên, Padmasambhava kể lại câu chuyện cô đã là một con ong chích một trong bốn anh em trong thời gian hoàn thành Đại Tháp Boudhanath. Pema Sal nghĩa là "Hoa Sen Rạng Rỡ."
PALGYI WANGCHUK HỌ KHARCHEN : Trong tiểu sử Sanglingma ngài là cha của Yeshe Tsogyal ; chỗ khác ngài được xem là anh của bà, một đệ tử thân cận của Padmasambhava đạt đến siddhi qua sự thực hành Vajra Kilaya. Palgyi Wangchuk nghĩa là "Bậc Rạng Rỡ."
PALGYI SENGE HỌ SHUBU : Một trong các quan của vua Trisong Deutsen, trong những sứ giả được gởi đi để mời Padmasambhava đến Tây Tạng. Ngài học dịch thuật từ Guru Padma và dịch nhiều giáo lý Mamo, Yamantaka và Kilaya sang tiếng Tây Tạng. Đã đạt được nhiều thành tựu với Mamo và Kilaya, ngài có thể chẻ đá cuội và tách dòng sông bằng con dao găm của mình. Các tái sanh của ngài có đại Terton Mingyur Dorje của truyền thống Nam-choš. Palgyi Senge nghĩa là "Sư Tử Vinh Quang."
NÚI HUY HOÀNG Ở CHAMARA / NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG ĐỎ : Xứ sở tịnh độ của Guru Rinpoche trên tiểu lục địa Chamara phía đông nam của đại lục Jambu (Diêm Phù). Chamara là đảo chính trong chín đảo do loài raksha dã man ở. Ở giữa Chamara có một ngọn núi nguy nga màu đỏ cao ngất trời. Trên đỉnh núi là cung điện thần biến Ánh Sáng Hoa Sen, xuất hiện từ sự biểu lộ tự nhiên của tánh Giác bổn nguyên. Đức Padmasambhava ở tại đây trong một thân bất diệt siêu việt sống chết, trường tồn ngày nào sanh tử vẫn còn và qua đó, ngài không ngừng mang lại lợi lạc cho chúng sanh qua các hóa thân thần biến của thân, ngữ và tâm của ngài.
LOKYI CHUNGPA : Một đệ tử thân cận của Padmasambhava, trở thành một dịch giả Phật giáo lúc còn rất trẻ, do đó có tên. Ngài cũng được biết với tên là Khyen-chung Lotsawa "Đứa trẻ Dịch giả." Trong số các tái sanh về sau là Terton Dušdušl Dorje (1615-1672), Dudjom Lingpa (1835-1903), và đức Dudjom Rinpoche, Jigdrel Yeshe Dorje (1904-1987).
LONGCHENPA BIỆT HIỆU LONGCHEN RABJAM (1308-1363) : Một tái sanh của Công chúa Pema Sal, con của vua Trisong Deutsen. Guru Rinpoche đã trao truyền dòng Dzogchen (tức Khandro Nyingtig) cho bà. Ngài được xem là tác giả quan trọng nhất viết về giáo lý Dzogchen. Công trình của ngài gồm trong Bảy Đại Kho tàng, Tam Bộ và các luận giải trong Nyingtig Yabshi. Nhiều chi tiết về cuộc đời và lời dạy của ngài ở trong cuốn Tâm Phật của Tulku Thondup Rinpoche, nhà xuất bản Snow Lion, 1989. Long-chenpa nghĩa là "Đại Không."
KOŠNCHOK JUNGNEY HỌ LANGDRO : Ban đầu là một vị quan trong triều đình của vua Trisong Deutsen. Về sau trở thành một đệ tử thân thiết của Padmasambhava và đạt đến thành tựu. Hai đại Terton Ratna Lingpa (1403-1471) và Longsal Nyingpo (1625-1692) được xem là trong số các tái sanh của ngài. Košnchok Jungney nghĩa là "Nguồn các bậc Quý Giá."
DORJE DUDJOM XỨ NANAM : Một ông quan của vua Tri-song Deutsen, được gởi đến Nepal để mời Padmasambhava đến Tây Tạng. Một mantrika đã đạt đến hoàn thiện trong hai giai đoạn phát triển và thành tựu, ông có thể bay với tốc độ gió và đi qua vật đặc. Rigdzin Gošdem (1337-1408) và Pema Trinley (1641-1718), vị Vidyadhara vĩ đại của chùa Dorje Drak miền trung Tây Tạng, cả hai được xem là các tái sanh của Dorje Dudjom. Dorje Dudjom nghĩa là "Người hàng phục không thể hủy hoại đối với Ma Vương."
BỒ TÁT LOBPOŠN, BIỆT HIỆU SHANTARAKSHITA : "Người gìn giữ hòa bình." Pháp sư Ấn Độ và trụ trì chùa Vikra-mashila và chùa Samye, vị đã xuất gia cho những nhà sư Tây Tạng đầu tiên. Ngài là một hóa thân của Bồ tát Vajrapani và cũng được biết như là Bồ tát Khenpo hay Tỳ kheo Bồ tát Shantarakshita. Ngài là người sáng lập một học phái triết học hỗn hợp Trung Quán và Duy Thức. Truyền thống này được trùng hưng và làm sáng tỏ bởi Mipham Rinpoche trong luận giải Madhyamaka Lamkara của ngài.
==========================================================

HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).20/4/2012.

No comments:

Post a Comment