Thursday 26 April 2012

Đoạn trừ sanh tử chơn thật phú quý

Người học Phật cần có chánh tâm, chánh trí để nhìn thấy mọi sự việc đang xảy ra chung quanh cuộc sống hàng ngày, trong đó có vấn đề tu tập. Không có chánh kiến thì ta sẽ nhìn sai vấn đề và không đạt được chân thật lợi ích của sự tu tập. Người học Phật, niệm Phật cầu vãng sanh không đồng với người thế tục mà hành động, mong cầu: thăng quan tiến chức, tiền của đầy nhà, vợ đẹp con ngoan… mà mục đích của người học Phật là mong cầu giải thoát. Nếu học Phật, niệm Phật mà chỉ mong cầu thăng quan phát tài thì có khác chi người thế tục, ngoại đạo. Người học Phật, niệm Phật không phải chỉ để cầu những thứ tiền bạc danh vọng tạm bợ thế gian thường tình mà chỉ mong cầu chơn thật phú quý, thứ phú quý không mang lại cho chúng sanh một sự ưu phiền khổ lụy, mà, nó có khả năng làm cho chúng sanh luôn luôn vĩnh hằng trong hạnh phúc.

Những thứ phú quý thường thấy ở thế gian là cội nguồn của sanh tử, là bức tường ngăn cản đạo quả giải thoát. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương thứ mười hai dạy rằng : “phú quý học đạo nan…” . Phú tức gồm có những thứ tài sản của cải, quý ấy là danh vọng; danh vọng và tiền tài là hai món ngũ dục mà người tu cần nên bỏ. Người càng nhiều danh vọng tiền bạc thì sẽ bị những ác duyên ấy cột chặt, muốn tu học, niệm Phật cầu vãng sanh thì là một điều rất khó. Đời người chủ yếu là thân thể tráng kiện, tinh thần minh mẫn, sinh hoạt hằng ngày về vật chất tạm đủ thế là tốt mà cũng thuận tiện cho công việc tu trì.

Hiện tại chúng ta đang sống tại thành phố Perth ở Úc Đại Lợi, cuộc sống vật chất gọi là đủ, mong rằng quý vị biết đủ mà không có lòng mong cầu quá nhiều trong sự tranh danh đoạt lợi để sẽ bị chướng ngại trên đường tu niệm. Nếu lòng mong cầu tài lợi quá nhiều thì khó mà thành tựu được đạo nghiệp, khó mà niệm Phật dứt hết phan duyên để cầu sanh cảnh Cực Lạc.

Chúng ta hãy nhìn, phần nhiều những người giàu có trên thế giới tuy có chút ít phước đức hữu lậu kiếp trước nay được làm người giàu sang, có địa vị; nhưng hiện đời thì lại tạo nhiều điều tội ác: không việc gì làm giàu nhanh bằng buôn lậu bạch phiến, vũ khí.. mà những thứ này lại là những điều tội ác vô cùng cực; cho đến những kẻ trốn thuế, lường gạt, bóc lột công nhân… có như vậy thì họ mới mong kiếm được nhiều tiền; và sự thanh toán nhau bằng xương máu mới mong giành được một chút ít địa vị trong xã hội. Ít ai trên thế giới này kiếm ra được nhiều tiền bằng một tấm lòng lương thiện. Ngay cả những người được xem là mô phạm cho quần chúng; nhưng họ cũng xây dựng tiền tài danh vọng bằng sự lường đảo cướp giựt có hệ thống từ công lao của nhiều người khác đóng góp hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Phú quý rồi mà có tấm lòng lương thiện giúp đỡ người nghèo khổ thì lại có mấy ai. Càng giàu thì họ càng muốn giàu thêm, địa vị càng cao thì họ lại muốn cao hơn nên không từ nan những thủ đoạn hạ tiện thấp hè, tội ác mà bám lấy và xây dựng địa vị của mình. Cho nên nói phú quý mê trong tiền bạc, danh vọng mà quên mất đạo nghiệp; vì lẽ đó Phật dạy người tu không nên mong cầu phước đức hữu lậu ở thế gian mà đi vào vòng sanh tử đau khổ.

Mấy ai đang ở trong cảnh phú quý mà vượt được ra ngoài sự đam mê của ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy; kẻ đam mê ngũ dục là đang gây nhân hạnh của cảnh giới ác đạo. Vì lẽ đó nên muôn ngàn lần lưu ý những ai đang niệm Phật cầu vãng sanh không nên để tâm mong cầu danh lợi ở thế gian.

Phật Pháp khuyên ta tu lục độ vạn hạnh, hành hạnh bồ tát là “Phú”; liễu sanh thoát tử chứng nhập đại Niết Bàn là “Quý”. Phàm phu quay cuồng trong lục đạo luân hồi sanh sanh tử tử, nay nhận thức được tự tâm, thấy được lẽ sống chết, chứng A La Hán, ra ngoài tam giới gọi là đoạn sanh tử trong lục đao. A La Hán phát Bồ Đề tâm thực hành Bồ Tát đạo, nhìn thấy các pháp như huyễn, rời pháp chấp, phá từng phần vô minh chứng từng phần pháp thân, viên thành phật đạo, gọi là đoạn trừ biến dịch sanh tử. Thành tựu được như vậy gọi là giải thoát nhị chủng sanh tử; đây mới thật là đạt được chân thật “Phú Quý”.

Chư phật được tôn xưng là bậc tối thượng, là thầy của người trời vì đã thật sự đầy đủ chân thật phú quý. Vì chư Phật và Bồ Tát có đầy đủ chân thật phú quý nên mang cho chúng sanh cùng khắp mười phương thế giới mà không sợ vơi hết. Không phải như những thứ phú quý tạm bợ ở thế gian cho đi thì người ta sợ hết, cho nên họ có tham tâm muốn cất giữ, mà càng cất giữ thì càng mang nhiều sự đau khổ.

Chúng ta là người học phật, niệm Phật cầu vãng sanh thì nên noi theo chư Phật và Bồ Tát mà mong cầu chân thật phú quý xuất thế, mới thật sự là chơn chánh Phật tử.

Niệm phật phải nhất tâm

Chư thiên hữu! Hôm nay học Phật, chọn pháp môn niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trước hết phải đầy đủ ba việc: tín, hạnh, nguyện. Trong Di Đà yếu giải có dạy rằng: “ chẳng có tín tâm thì không đủ nguyện lực, nguyện không tha thiết thì hạnh không chuyên cần; không chuyên cần niệm Phật đến nhất tâm thì tín, nguyện sẽ không viên thành”. Hôm nay, chúng ta nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì nhất định phải tinh chuyên thường niệm hàng ngày.

Bằng phương pháp nào để ta niệm Phật có kết quả mau chóng?! Niệm phật gồm có bốn cách: thật tướng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật và trì danh niệm Phật. nhưng với thời mạt pháp hiện tại, chúng sanh phần nhiều chạy theo ngoại cảnh; pháp môn trì danh niệm Phật là hợp cơ hợp thời đối với mọi người. Trì danh niệm phật là pháp dễ thực hành cho mọi tầng lớp già trẻ, sang hèn…mau đạt thành kết quả dễ nhất tâm. Nhưng phải trì danh bằng cách nào? Hằng ngày ta thường xuyên niệm : “A Di Đà Phật” hoặc “ Nam Mô A Di Đà Phật” công đức đạt thành không gì khác nhau. Tại sao ta không niệm thêm nhiều danh hiệu của các đức Phật khác mà ta chỉ niệm riêng danh hiệu của Phật A Di Đà? Vì niệm nhiều danh hiệu thì tâm ta sẽ phân biệt và tán loạn, nếu chuyên tâm một danh hiệu của đức Phật thì ta dễ được nhất tâm hơn. Và, ta chỉ chuyên tâm niệm danh hiệu của Phật Di Đà là vì cõi Tây Phương Cực Lạc do thanh tịnh tâm của chúng hội Bồ Tát tạo thành; nên khi ta được sanh vào thì liền được vị bất thối đồng với chúng hội Bồ Tát khác; do công đức thù thắng này mà đức Thích Ca khuyên ta nên niệm danh hiệu Phật Di Đà để cầu sanh về cảnh Cực Lạc. Chư Tổ sư cũng dạy: “ chuyên tâm niệm Phật vạn người tu vạn người vãng sanh”.

Hôm nay, chúng ta niệm Phật sáu chữ hay bốn chữ không có gì khác nhau, nhưng điều chủ yếu là khi niệm mỗi chữ mỗi chữ phải rõ ràng, phải nhất tâm cung kính. Miệng niệm tai nghe, tâm suy nghĩ từng chữ từng câu cho thật rõ, cứ như vậy mà tiếp tục niệm, từ một câu cho đến ngàn vạn câu cũng đều rõ rang thông suốt trong tâm. Ngày nay niệm như vậy, ngày mai cũng niệm như vậy, năm này tháng nọ cũng niệm như vậy, năm tới tháng tới cũng niệm như vậy; cho đến mười năm, hai mươi năm, một trăm năm cũng tiếp tục niệm như vậy không gián đoạn, không thay đổi. Thường xuyên niệm như vậy, tâm không thay đổi mà bản rằng không được vãng sanh Tây Phương là điều không thể xảy ra.

Chúng ta niệm Phật giống như ăn cơm uống nước hằng ngày. Nếu một ngày ta không ăn không uống thì cơ thể tâm thần ta không được yên ổn. Cũng vậy, chúng ta niệm Phật đến khi nào nếu thỉnh thoảng bị quên không niệm mà cảm thấy thiếu thốn khó chịu như thiếu ăn thiếu uống thì đã có kết quả. Chúng sanh sanh vào thế giới dục giới này là do chúng ta ghiền ăn, ghiền uống, ghiền tình ái, ghiền tham dục phiền não… nay ta muốn cầu sanh Tây Phương thì phải cai những thứ bệnh ghiền của thế giới Ta Bà không hợp với chúng sanh Tây Phương; vì bệnh ghiền của chúng sanh Tây Phương là ghiền niệm Phật, nghe pháp.

Niệm Phật cầu sanh tây Phương không phải chỉ niệm một ngày hai ngày, mà phải chuyên cần thường xuyên niệm cho đến ngày lâm chung. Sau khi sanh về Tây Phương thấy Phật nghe pháp, tiến tu chứng được quả vị bất thối Bồ Tát ở nơi thường Tịch Quang Độ đồng với pháp thân Chư Phật. Bây giờ ta có thể ở trong thanh tịnh pháp thân mà thị hiện khắp mười phương thế giới để hoằng hóa cứu độ chúng sanh, trong đó có thế giới Ta Bà mà ta muốn đến. Đừng lo không duyên với thế giới Ta Bà mà hãy lo rằng tự ta niệm Phật không tinh chuyên đến chỗ nhứt tâm.

Vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh

Ấn Quang Tổ sư một vị Cao Tăng Trung Quốc cận đại có dạy: “ mạt pháp cận đại muôn vạn người tu khó được một vài người chứng đạo, duy chỉ nương theo pháp môn Tịnh Độ niệm Phật cầu vãng sanh khả dĩ được giải thoát”. Phật pháp chia ra làm ba thời kỳ: lúc Phật còn tại thế cho đến một ngàn năm sau Phật nhập diệt là thời kỳ chánh pháp, thính chúng trực tiếp nghe Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán thuyết giảng, tự quán sát tu tập, vạn người tu đạo, vạn người chứng đạo. Sau một ngàn năm Phật nhập diệt, Tăng đoàn đại đệ tử toàn là những vị Bồ Tát, A La Hán truyền bá Phật pháp, hướng dẫn mọi người tu học, do ảnh hưởng tu tập của các vị Thánh Tăng, nên hàng đệ tử đối với sự chứng ngộ giải thoát có phần dễ dàng, trăm người tu năm bảy chục người chứng đạo; thời gian này cũng kéo dài cả ngàn năm sau thời chánh pháp được gọi là thời tượng pháp, từ năm Phật lịch 1000 đến năm 2000( Tây Lịch 500-1500). Thời kỳ mạt pháp bắt đầu từ Phật Lịch 2001 (DL1501) đến 10,000 năm sau. Hiện tại chúng ta đã ở thời kỳ mạt pháp khoảng 500 năm, nên biết rằng chỉ nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát sanh tử, ngoài ra tu các pháp môn khác cũng tốt nhưng vạn người tu khó có được vài người chứng đạo giải thoát. Pháp môn tu cũng phải tùy thời tùy cơ phù hợp với điều kiện và phương tiện cho người tu; vì xã hội hiện tại cơ khí quá nhiều nên con người cũng trở thành quá cơ tâm; do đó chỉ y lục tự Di Đà mới tiêu trừ được cơ tâm mà đưa người về nơi cõi Tịch Quang Tịnh Độ. Đành rằng pháp môn nào cũng do Phật dạy, nhất là chính Phật do ngồi thiền mà thành Phật chứ không do niệm Phật mà thành Phật. Nhưng căn cơ chúng sanh thì có khác (nếu không thì chúng ta thành Phật rồi), nên đến thời mạt pháp duy chỉ lấy sáu chữ Di Đà mà được độ thoát. Giống như chúng ta trồng cây, phải tùy theo thời tiết khí hậu thì cây mới phát triển; cây phù hợp với khí hậu nhiệt đới ta không thể đem trồng ở nơi hàng băng. Mùa đông lạnh ta không thể không mặc áo ấm, mà chỉ mặt một chiếc áo mỏng của mùa hè tuy rằng chiếc áo được may bằng một loại vải đặc biệt và được kiến bởi một thợ may nổi tiếng.

Chúng ta là người học Phật tự biết rằng, mọi sự vật có mặt ở thế gian dầu do nhơn duyên giả hợp tạo thành và bị chi phối bởi định luật biến đổi vô thường của vũ trụ: sanh, trụ, dị, diệt; hay thành, trụ, hoại, không; Phật pháp hay phương pháp tu cũng không ngoại lệ. Thiền đã đưa người tu chứng liễu sanh thoát tử trải qua hơn hai ngàn năm và nay đến thời kỳ suy yếu, đây cũng là lẽ tự nhiên không có gì phải bối rối lo âu mà cần biện luận. Do đó, chúng ta không cần thiết phải đặt câu hỏi tại sao trong các chùa Bắc Tông tuy là nằm trong hệ thống thiền; nhưng, hai thời công phu thì chuyên về Tịnh Độ và có pha lẫn một ít Mật Tông, như một vị Thiền sư đương thời đã đặt câu hỏi. Hoặc vị Thiền sư khác cho rằng cần phải phục hồi thiền Tông; nếu chúng ta làm được thì đâu còn định luật của thành, trụ, hoại, không; mà ngay cả thuyết vô thường biến đổi cũng không còn chỗ đứng, và, nếu như vậy thì Phật pháp luôn ở trong thồi kỳ chánh pháp, làm gì có tượng pháp và mạt pháp. Cho nên, điều cần thiết mà người tu muốn nói đó là làm sao giúp ích cho mọi tầng lớp quần chúng tu tập được kết quả, diệt đau khổ ở thế gian, liễu sanh thoát tử, càng nhiều càng tốt; chớ không phải chỉ lo bàn đến phương pháp tu mà không đem lại kết quả cho quảng đại quần chúng.

Căn cơ chúng sanh cách đây hai ngàn năm phù hợp cho sự thiền tọa và, nhiều người đã tu chứng đạo không có một vị tổ sư nào của Tịnh Độ Tông không vui vẻ thấy những người bạn mình được chứng quả; vì quý ngài biết rằng thời kỳ truyền bá pháp môn niệm Phật cho quần chúng chỉ ở thời mạt pháp, không phải là ở thời chánh pháp và tượng pháp. Quý ngài là những bậc đại triệt đại ngộ nên nhìn thấy rõ được sự lưu hành của các pháp trong vũ trụ. Và tại sao từ năm trăm năm trở lại đây (đang bước vào thời kỳ mạt pháp) thiền tập đang suy dần và pháp môn niệm Phật đang được phổ cập rộng rãi trong quảng đại quần chúng, từ hàng xuất gia đến người tại gia ai ai cũng niệm Phật; Tăng cũng như tục ở các quốc gia Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan...mỗi khi gặp nhau đều niệm : “A Di Đà Phật”. Sự kiện trên cho ta thấy Tịnh Độ Tông đang ở vào thời kỳ cực thịnh và phổ cập trong quần chúng hơn các pháp môn tu khác. Cho nên các Tổ, ngay cả các ngài Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì...là những Thiền sư nổi tiếng sau khi chứng đạo, đã cầu vãng sanh Tây Phương và, đã giới thiệu mọi người nên niệm Phật cầu vãng sanh là pháp môn tu phù hợp nhất cho thời mạt pháp.

Trong kinh Đại Tập đức Thế Tôn có dạy: “ mạt pháp muôn vạn người tu, một vài người chứng quả, duy chỉ nương nơi niệm Phật mà được đoạn sanh tử”. Đây là lời của các Tổ sư bên Tịnh Độ Tông, lại càng không phải là lời của Thiên Ma hay ngoại đạo. Điều đó cũng cho ta biết rằng đức Phật không chỉ tùy theo căn cơ của chúng sanh lúc Ngài còn sanh thời để hóa độ; mà, Ngài cũng tùy căn cơ của chúng sanh trong thời mạt pháp như chúng ta hiện tại nên phương tiện thuyết giảng pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh. Cho nên nói pháp môn niệm Phật là môn tu đơn giản và hợp cho mọi người ở thời mạt pháp là vậy.

Lời nói trên là của Như Lai nói ra, nếu ai có nghi ngờ hay cho rằng tu theo niệm Phật là không hợp, hoặc chỉ giành riêng cho những người yếu kém khả năng tự lực...thì đó chẳng phải là Phật tử, mà đó là những bạn hữu của ngoại đạo, là tín đồ của Thiên Ma. Dầu cho những vị đó là người cạo tóc xuất gia, mặc áo Như Lai, mà có lòng nghi ngờ lời nói Như Lai, nói những lời làm cho nhiều người hoang mang; như vậy, người ấy thật sự là người không có chánh kiến, nói những lời điên đảo, là con dân của ma.

Vì lẽ trên thỉnh chư vị thiện hữu tri thức không nên có tâm giao động, có lòng nghi ngờ; dầu cho có người danh tiếng đông đảo người theo, thuyết giảng biện tài phi thường, nói rằng phương pháp tu này hay, phương pháp tu nọ mau chứng quả...thì xin chư vị hãy nhất tâm không loạn động trước sau như một chuyên cần trì niệm danh hiệu “ A Di Đà Phật” mà cầu vãng sanh về Tây Phương. Phật Di Đà đang chờ đón quý vị như mẹ trông con, thời mạc pháp không còn con đường nào khác hợp với ta hơn, xin chư vị đừng chần chờ, hãy cố gắng niệm Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Niệm Phật cần phải dụng tâm

Chư thiện hữu! Hôm nay chư Phật tử về chùa tham dự vào tuần lễ niệm Phật, điều cốt yếu trong tuần lễ niệm Phật, quý vị cần nhiếp tâm, tâm niệm cần phải tương ưng. Niệm Phật không phải chỉ dùng miệng niệm mà để tâm tán loạn thì sẽ không có kết quả. Hám Sơn đại Sư có dạy.”miệng niệm Di Đà nhưng tâm tán loạn, kết quả chỉ đem lại sự hao hơi tốn sức mà thôi”. Do đó chúng ta nên biết pháp môn niệm Phật cần phải miệng niệm tâm lắng nghe. Miệng niệm ra tiếng không nên quá lớn sẽ bị tổn hơi, không nên niệm thầm dễ bị tán loạn. Tâm theo dõi và ghi nhớ từng câu niệm Phât rõ ràng: Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật!

Thời mạt pháp căn tánh chúng sanh chạy theo ngoại cảnh quá sâu, nên không thể dùng tâm mật niệm Phật, mà, phải dùng miệng niệm ra tiếng, dùng tâm theo dõi từng câu để cho tâm không bị ngoại cảnh làm tán loạn. Dùng tâm kiểm soát từng câu niệm Phật, tức tâm luôn an trú trong hiện tại. Mỗi câu niệm phật đi qua tâm ghi nhớ rõ ràng tương tục không gián đoạn, ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm. Không phải chỉ có tuần lễ niệm Phật này, mà, quý vị hãy dùng tâm tương tục trong những tuần lễ niệm Phật kế tiếp; không phải chỉ trong tuần lễ niệm Phật tại chùa quý vị mới nhiếp tâm tương tục, mà, phải nhiếp tâm tương tục từng chữ từng câu một từ chùa về nhà, từ nhà đến xưởng, từ xưởng đến công viên... mỗi niệm mỗi niêm trôi qua tương tục từng câu hiệu Phật không quên sót. Niệm như vậy thì miệng mới thuần tâm mới tịnh, công đức vãng sanh Tây Phương mới thành tựu.

Chúng ta niệm Phât ngày hôm nay tâm phải chí thành, nguyện phải tha thiết; ngoài tự lực niệm Phật riêng mình và nguyện lực tha thiết cầu sanh Tây Phương còn lại chúng ta còn có tha lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn nên kết quả sẽ tăng thêm nhiều lần, hãy chuyên cần lên nhiều hơn nữa thưa quý Phật tử.

Chúng ta dụng công niêm Phật liên tục cùng với đại chúng mỗi đêm tại đạo tràng Phổ Quang Tây Úc này trong vòng một tuần lễ với sức gia trì của Phật lực, sức đồng thinh thành tâm của đại chúng sẽ tăng thêm tín, hạnh, nguyện lực cho quý vị trong công đức niệm Phật của đại chúng, sự trang nghiêm của đạo tràng khiến cho tâm của quý vị đi dần vào sự an tịnh và diệt trừ được mọi loạn động.

Chư vị đã biết, Phật tức là giác ngộ; vậy nay ta niệm Phật là niệm sự giác ngộ, là mỗi thời mỗi khắc trôi qua tâm ta tự giác ngộ: tâm an tịnh nơi hiện tại, mỗi câu niệm Phật tai nghe rõ ràng và tâm ta an trú trong từng câu niệm Phật. Niệm được như vậy là hiện tại ta đang an lạc đối với trần lao phiền trược trong thế giới Ta Bà và không còn công đức nào vượt được hơn nữa. Dụng công chí thành niệm Phật như thế, không phải chỉ riêng tuần lễ tại đạo tràng Phổ Quang mà, ở nơi tư gia của quý vị cũng phải tinh tấn không lui sụt như khi tham gia niệm Phật tại đạo tràng. Như vậy, phần vãng sanh của quý vị không sợ bị mất, hãy an lạc nơi tự tâm mà niệm Phật!

Thân khẩu ý thanh tịnh đạo nghiệp viên thành

Dụng công niêm Phật cầu sanh tây Phương Cực Lạc chủ yếu là niệm thường tương tục không gián đoạn; công phu không phải chỉ một ngày hai ngày mà phải hằng thường niệm Phật. Thân, miệng, ý ba nghiệp tương ưng không tạp loạn giao động. Tâm quán tưởng nhớ Phật, miệng hằng niệm danh hiệu Phật, thân thường lễ lạy phật ngày đêm không gián đoạn.

Đem thân này lễ Phật cầu sanh Tây Phương, cho nên thân này phải đoan nghiêm chánh trực không: sát, đạo, dâm; khi đi đứng lúc nằm ngồi phải cho đoan chánh. Mắt không nhìn xéo liếc ngang, tai không nghe những lời nói to nhỏ, mũi không đắm theo hương vị thơm tho.. cho đến thân không chạm xúc những nơi trơn láng dịu dàng, được như vậy thân ta mới thanh tịnh.

Miệng niệm Phật không luận là niệm lớn, niệm vừa, niệm nhỏ hay mật niệm, điều cốt yếu là niệm niệm phải tương tục. Nhưng với căn cơ ngày nay thì người niệm Phật phải niệm ra tiếng vừa đủ tai nghe, tâm ghi nhớ từng niệm là tốt nhất; vì niệm quá lớn thì sanh lao lực, niệm thầm thì dễ bị hôn trầm. Nếu ở nơi đạo tràng cùng với đại chúng đồng niệm thì phải tùy đại chúng chung quanh mà niệm, miễn sao âm thanh niệm Phật của ta hòa đồng với mọi người mà không bị ngăn ngại là được. Nếu người không có sức lực thì tự riêng mình mật niệm cũng được nhưng phải ghi nhớ mỗi niệm cho rõ ràng tương tục không gián đoạn, đừng để vọng tưởng xen tạp. Miệng hằng ngày niệm Phật nên một câu thị phi ngoài đời cũng không bàn đến như vậy là miệng ta được thanh tịnh.

Ý tương ưng là như thế nào? Thân lễ Phật, miệng niệm Phật, mỗi mỗi câu niệm Phật, mỗi mỗi lễ niệm Phật, tâm ý đều ghi nhớ rõ ràng, từ một niệm cho đến ngàn vạn niệm, từ một lạy cho đến ngàn vạn lạy; tâm không giao động tạp niệm thời thời minh bạch nên đạt được công đức bất khả tư nghì, vô lượng vô biên. Bây giờ, niệm một niệm là hằng hà sa số niệm, âm thanh của một niệm cũng là âm thanh của tam thiên đại thiên thế giới :(*), cho đến đồng với âm thanh của mười phương Phật sát vi trần quốc độ. Niệm một Phật là niệm hằng hà sa số Phật; niệm Ứng Thân, Hóa Thân Phật là niệm Pháp Thân Phật; lạy một Phật là lạy hằng hà sa số Phật, lạy Ứng, Hóa Thân Phật là lạy Pháp Thân Phật. Niệm lạy như vậy tức là ba nghiệp: thân, khẩu, ý tương ưng thanh tịnh, mà, cũng là viên thành được Phật đạo. Thỉnh chư vị niệm: Nam Mô A Di Đà Phật!

  • *Tam thiên Đại Thiên: là thế giới của đức Phật Thích Ca làm Giáo chủ gồm có:1000x1000x1000=1,000,000,000 (một tỷ) tiểu thế giới (danh từ khoa học gọi là một tỷ thái dương hệ).

Niệm Phật tiêu tội chướng, phước tuệ sanh.

Chúng ta hàng ngày dụng công niệm Phật, tội chướng sẽ được tiêu diệt, thiện căn phước đức trí tuệ cũng từ nơi đó mà tăng trưởng; và, bao nhiêu phiền não tri chướng cũng sẽ từ đó mà đứt sạch. Khi niệm phật chúng ta tập trung toàn bộ tinh thần vào câu niệm Phật, không phân biệt có người niệm và danh hiệu Phật đang niệm; được như vậy thì mới đạt được tối an lạc của sự niệm Phật.

Tâm chuyên chú vào danh hiệu A Di Đà Phật, thì phiền não nhiễm tình vọng động mới dứt, tâm thanh tịnh mới hiển bày, tội chướng nghiệp lực từ vô thủy dần dần tiêu diệt, trí tuệ phát sanh.

Tâm chúng sanh xưa nay vốn đầy đủ các đức tướng đại từ đại bi, đại nguyện, đại hạnh, đại trí, đại lực...nhưng vì mê theo trần cảnh, nên không thường hay chiếu diện. Các vị Bồ Tát đã nhiều đời tu lục độ vạn hạnh, phá trừ nhiều phần vô minh phiền não nên thường hay hiển bày các đức tướng diệu dụng ấy, mà, độ thoát chúng sanh ra ngoài vòng sanh tử. Ngài Văn Thù Bồ Tát là đại diện cho đại trí, Quán Thế Âm Bồ Tát là đại bi, Địa Tạng Bồ Tát là đại nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát là đại hạnh, Di Lặc Bồ Tát là đại hỷ...chúng ta hiện thời vì vô mình dày đặc nên không có khả năng hiển bày các đức tướng như các ngài; nên ngày ngày chúng ta phải nương nhờ công đức năng lực của sáu chữ : ”Nam Mô A Di Đà Phật” mà hiển bày các đức tướng vi diệu nơi tâm.

Do vì chúng ta là kẻ phàm phu tội chướng sâu dày không có một chút công đức khả dĩ để tự bố thí cho chính mình, cũng như giúp đỡ cho mọi người chung quanh đang cần các vị Bồ Tát đã và đang làm; nên ta nương nhờ nơi câu thánh hiệu của Phật A Đi Đà đầy đủ công đức trí tuệ vô lượng vô biện, mà, làm người chủ nhân mang phước đức trí tuệ ấy đến với mọi người. Giống như ta vốn không có một đồng xu, nhưng cha mẹ ta là người giàu có nhất vùng; do đó mà ta có thể nương nhờ nơi tài sản của cha mẹ, để làm việc bố thí cơm gạo cho những người khốn cùng.

Công đức của Thánh hiệu Di Đà không lường như hư không, tuy không có hình dạng nhưng tất cả những núi sông, rừng biền, mặt trời, mặt trăng... không một vật nào mà không nằm trong hư không. Cũng vậy, niệm danh hiệu Di Đà là niệm vô lượng hằng sa công đức của lục độ vạn hạnh. Vì sao? Bởi vì Di Đà Như Lai đã từ vô lượng hằng hà sa số kiếp tu hành lục dộ vạn hạnh, chứa đầy công đức vô lậu như hư không, trang nghiêm Phật quốc Tịnh Độ.

Hài nhi sanh ra đời bú sữa mẹ để lớn, trong lúc bú sữa mẹ để lớn, trong lúc bú sữa mẹ, hài nhi không biết rằng thân thể mình lớn khôn là do nơi sữa của người mẹ; cũng không biết khi bú như vậy khiến cho thân thể người mẹ bị tổn giảm nên không nhận thức được công khổ khó nhọc của người mẹ nuôi con. Hài nhi phải cần bú sữa mỗi ngày thì thân mới khỏe mạnh và lớn nhanh, không có bệnh hoạn; nếu bú sữa không đủ thì hài nhi sẽ bị bệnh và ốm yếu. Cũng thế, sáu chữa Di Đà Thánh hiệu có năng lực nuôi dưỡng Pháp thân tuệ mạng của ta trưởng thành từng giờ từng ngày, nếu chúng ta niệm Phật thường xuyên không gián đoạn; bằng ngược lại chẳng những trí tuệ không phát sinh mà phiền não tội chướng lại tăng trưởng, như em bé bú sữa không đều sanh ra bệnh hoạn. Do công đức vô lượng của sự niệm Phật như vậy: thỉnh chư vị cùng niệm Phật để tội chướng từ nhiều đời nhiều kiếp được tiêu diệt và, phước huệ cũng từ nơi đây mà sanh trưởng. Nam Mô A Di Đà Phật!

Đoạn nghi ngờ sanh tín tâm cầu vãng sanh

Phật, tâm, chúng sanh tuy ba nhưng đồng nhứt thể, vì chúng sanh mê muội vọng tâm, chạy theo trần cảnh tạo nhiều nghiệp lực đau khổ sanh tử luân hồi trong lục đạo. Tâm chúng sanh vọng tưởng nên tạo: sát, đạo, dâm, vọng; tham, sân, si các thứ nên gọi là tâm địa ngục. Chúng sanh một niệm giác thấy được tự tánh bản tâm ấy là tâm Phật. Mê ngộ tuy hai nhưng tựu trung là một, khi mê tâm tạo nên địa ngục, lúc ngộ tâm tạo nên thế giới Cực Lạc.

Trong Kinh Địa Tạng có nói đến các cảnh giới riêng biệt của địa ngục là do nơi sự chiêu cảm nghiệp lực tạo tác của tâm chúng sanh mà ra. Như tạo tác: sát, đạo, dâm, vọng, phá hoại những người làm việc thiện, tiếp tay những người tạo nghiệp ác, thấy ai làm việc thiện hay nói lời chê bai, chia rẽ sự hiểu biết hạn hẹp ích kỷ riêng mình; những tâm tưởng ác nghiệp này sẽ chiêu cảm trở thành quả báo nơi địa ngục. Địa ngục do nơi tâm tạo, cảnh giới đau khổ buồn vui lẫn lộn ở nơi trần gian cũng do tâm tạo; tâm tạo tác, tâm dẫn đầu. Tâm nghĩ xấu thì hành động xấu, tâm nghĩ tốt thì hành động tốt. Tâm chúng sanh phiền não đau khổ thì tạo nên cảnh giới đau thương sầu muộn. Cảnh giới súc sanh, chúng sanh ở đây tâm độc ác, ngu muội tự ăn thịt đồng loại với nhau; cảnh giới địa ngục ngã quỷ tâm chúng sanh chứa đầy thù hận tranh đấu, giết hại lẫn nhau; cho đến trong loài người tuy tâm có chút thiện nghiệp; nhưng chúng sanh đa phần đang hướng tâm về cảnh giới đau khổ ác đạo nên dã sanh tâm thù hận chém giết lẫn nhau trong cuộc sống.

Chuyển tâm phiền não ác độc của địa ngục ngạ quỷ thành tâm thanh tịnh của thánh chúng nơi cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, bằng cách ngày ngày gieo vào tâm thức của ta bằng sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Chuyển tâm phàm thành tâm Thánh, mê thành ngộ, chúng sanh thành Phật. Ta bà ngũ trược ác thế, phiền não đau khổ, tranh đấu, chém giết, ăn thịt nhau là do tâm niệm ác độc, cấu trược vô minh của chúng sanh ở đây mà tạo thành. Bây giờ, chuyển phàm thành thánh bằng câu niệm Phật, tức tâm chúng sanh giờ này thuần là thanh tịnh, nên tạo thành cảnh giới thanh tịnh không phiền não đau khổ; đó là cảnh giới Cực Lạc của Phật Di Đà.

Tại sao chúng ta phải niệm Phật? Và niệm phật để làm gì? Chúng ta niệm phật là để chuyển phàm tâm thành Phật tâm, chuyển đau khổ thành an lạc, chuyển tâm phiền não địa ngục thế giới Ta Bà thành tâm thanh tịnh thánh chúng của thế giới Cực Lạc; chuyển tâm mê thành tâm ngộ chuyển tâm uế thành tâm tịnh, chuyển tâm ưa nói lời thị phi thành tâm ưa niệm Phật, chuyển tâm nghi thành tâm tín.

Xưa nay chúng ta đem tâm nghi ngờ mọi việc chung quanh, ngay cả nghi ngờ chính mình; nay phát tín tâm đoạn trừ sự nghi ngờ mà niệm Phật để cầu sanh Tây Phương. Tâm nghi ngờ hết, tín tâm kiên cường dũng mãnh công đức niệm Phật mới viên mãn tròn đầy. Thỉnh chư vị dứt trừ nghi tâm, tinh tấn phát đại tín tâm niệm phật hằng ngày tương tục mà cầu sanh Tây Phương Cực Lạc..

Đoạn nhân Ta Bà quyết sanh Tịnh Độ

Trong thiền môn vào thời công phu chiều ở phần hồi hướng có đoạn: “ thị nhựt dĩ quà, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư...” có nghĩa: “ngày nay đã qua, mạng sống cũng theo đó mà giảm dần, như cá ít nước...” chúng ta thử nhìn xem cá mà bị ít nước thì còn khổ nào hơn. Nhưng, mặt khác, trong đại dương biển nước mênh mông cá đang sống trong đó cũng chẳng phải vui gì! Kinh Pháp Hoa có dạy:”chúng sanh sống trong tam giới như đang ở trong nhà lửa”. Cá đang sống trong lòng biển cả nhưng người chẳng tha lại đem lưới vây bắt. Hưu, nai, cầm thú... đang sống trong rừng sâu người lại không tha dùng bẩy để sập. Chim, quạ đang bay trên trời cao nhưng người lại dùng tên đạn để bắn...cho nên nói cuộc sống của chúng sanh ở thế giới Ta Bà mang nhiều sự đau thương sầu khổ, không có gì là hạnh phúc an ổn.

Người lặn sâu vào biển cả để bắt cá tôm nuôi dưỡng cho thân mình, cá lớn thì ăn thịt cá nhỏ, cá nhỏ lại ăn tôm, tép, tôm tép thì ăn côn trùng...trong rừng thú mạnh ăn thịt thú yếu... và, cứ như vậy mà tranh giành cắn xé ăn thịt lẫn nhau. Cho đến loài người tuy không ăn thịt lẫn nhau như loài thú; nhưng, lại cũng giết hại lẫn nhau để tranh giành sự sống. Nước mạnh cướp nước yếu tàn sát giết hại sinh linh. Ngay cả cùng một quốc gia chủng tộc nhưng khác nhau chủ thuyết, ý thức hệ, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ...con người đã không ngần ngại chém giết lẫn nhau xương chất thành núi, máu chảy thành sông. Như vậy, thì còn khổ nào hơn mà người học Phật, niệm Phật lại không nhận thức được, không có tâm mong cầu vượt thoát khỏi thế giới Ta Bà này.

Quý vị hãy nhìn xem chung quanh thế giới chúng ta đang sống; Rwanda vì khác biệt chủng tộc mà họ đã khởi lên cuộc chiến để tàn sát lẫn nhau trong cùng một quốc gia hơn nửa triệu người. Bosnia vì khác nhau về chủng tộc và tôn giáo họ đã giết hại lẫn nhau hàng trăm ngàn người trong vòng nửa năm. Lebanon vì khác biệt tôn giáo mà họ đã gây cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau trên mười năm chưa chấm dứt. Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Cam Bốt vì khác nhau giữa hai chủ nghĩa, giai cấp, ý thức hệ mà những dân tộc này cũng đã chém giết lẫn nhau làm cho hàng triệu người phải chết và hàng triệu người trở thành tàn phế. Và, còn rất nhiều việc xảy ra nữa từ xưa nay mà loài người tự xây dựng quyền lợi cá nhân hay phe nhóm đã giết hại lẫn nhau không biết bao nhiêu là mạng sống của kẻ khác. Như vậy, chúng ta thử nhìn xem thế giới này là an vui hạnh phúc hay đau thương bất an. Cho nên nói thế giới mà ta đang sống không nơi nào là không bất an; từ đồng bằng cho đến núi cao, từ ao hồ cho đến biển sâu không nơi nào là thật sự có niềm an lạc. Vì chúng sanh sống chung một thế giới mà tâm niệm độc ác, tàn sát ăn thịt lẫn nhau nên phải trầm luân trong cảnh giới đau khổ để đền trả.

Chúng sanh vì mê lầm điên đảo, không nhìn thấy được sự bất ổn và đau khổ ấy mà, lại bám víu vào chút hạnh phúc tạm bợ, cho rằng cuộc đời là an lạc rồi mãi đắm chìm trong cuộc sống đầy phức tạp của thế giới Ta Bà, mà, không mong vượt thoát để cầu sanh về tây Phương. Thỉnh chư vị thiện hữu, hãy nhìn thấy rõ sự đau khồ tội chướng của thân ta ở thế giới Ta Bà mà tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Sanh Tây Phương thân thể không phải cấu tạo bởi sự ô uế dục nhiễm của tinh cha huyết mẹ, mà, từ nơi hoa sen hóa sanh tinh khiết thanh tịnh. Thân tâm trưởng thành bằng những thời pháp vi diệu của Phật Di Đà và Thánh Chúng; chứ không bồi đắp thân tâm bằng những nghiệp: sát, đạo, dâm, vọng nên Phật đạo chắc chắn mau viên thành. Tại thế giới Ta Bà hãy nhìn riêng quả địa cầu mà chúng ta đang sống, và, chỉ nói phạm vị nhỏ hẹp của con người; hơn năm tỉ người nhưng quý vị hãy thử tính có bao nhiêu người đang được nuôi dưỡng thân tâm bằng những lời Phật pháp, được bao nhiêu người không tạo nghiệp: sát, đạo, dâm, vọng để khỏi bị trâm luân trong cảnh ác đạo chịu cảnh khổ đau. Sanh về Tây Phương cùng với các vị Bồ Tát làm bạn hữu, ngày ngày nghe pháp để nuôi dưỡng thân tâm, phát triển trí tuệ, tín tâm bất thối cho đến ngày thành đạo. Vì sự lợi ích vô lượng vô biên của chúng sanh nơi thế giới của Phật A Di Đà như thế, và, cũng vì sự bất ổn và đau khổ của chúng sanh ở nơi thế giới Ta Bà của chúng ta ngày hôm nay; chúng ta là người học Phật nên phải nhứt tâm niệm Phật lìa bỏ cảnh giới Ta Bà để cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc.

Tâm rời Phật hiệu nghiệp ác liền kề

Người phát tâm niệm Phật, trong thời gian hành trì, đừng quá lo ngại về vọng tâm khởi lên, việc này đương nhiên là có. Điều lo ngại nhất là chúng ta có chuyên tâm tinh tấn niệm hay không? Chúng ta hãy nhìn vào đại dương không lúc nào là không có sóng gió, nhưng sóng gió ấy không thể ngăn cản được những chuyến thuyền từ hải cảng này đến hải cảng khác; chỉ trừ những trận bão tố lớn mới làm cho những chuyến thuyền tạm dừng trong chốc lác rồi thuyền cũng sẽ lướt sóng ra khơi. Chúng ta niệm phật cũng vậy, câu niệm Phật phải thường xuyên, dầu cho vọng tâm có khởi động, việc này cũng không làm ảnh hưởng đối với sự nhiếp tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Chẳng những vậy mà nếu câu niệm Phật thường xuyên lại có công năng diệt trừ được vọng niệm; cho đến những thứ tâm tưởng thô bạo ác xấu như: sát, đạo, dâm, vọng, tham, sân, si cũng đều bị tiêu diệt bởi câu Di Đà thánh hiệu.

Lúc ác tâm vọng niệm của ta khởi lên, từ nơi tâm ta nhìn thấy và biết được đem tâm xấu hổ mà ăn năn, đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà lễ lạy và sám hối, càng niệm Phật chuyên cần hơn, tâm tâm niệm niệm không gián đoạn. Tự mình suy xét ác tâm vọng niệm này từ đâu mà có, nghiệp chướng sâu dày này ta đã tạo từ bao đời mà nay nó lại đến với ta. Ngay cả những công đức phước đức lành mà hiện đời này đã mang lại cho ta một vài niềm an vui hạnh phúc tạm bợ, ta cũng phải suy nghĩ, ta đã làm gì được bao phước đức mà nay thừa hưởng, không nên tự mãn, tự phụ với thành quả hiện tại mà khởi tâm đi vào vòng tội lỗi. Vì những phước đức hữu lậu này dễ đưa tâm người tu đi vào vòng luân lưu của sự sống chết đau khổ ở thế giới Ta Bà. Chỉ có phát tâm niệm Phật tinh tấn không gián đoạn thì mới có thể dứt được sự tạo nghiệp sanh, tử luân, hồi, mà nhất là nghiệp nơi ba ác đạo.
Trong Kinh Địa Tạng có dạy:” Chúng sanh ở nơi cõi Nam Diêm Phù Đề (quả địa cầu mà ta đang ở) mỗi cử chỉ hành động suy nghĩ, không chi là không tạo nghiệp ác.”. duy thức học cũng day:” vạn pháp đều do tâm tạo”. Tâm ta tưởng Phật niệm Phật thì tâm ta là Phật, thân ta là Phật, thế giới ta đang ở là thế giới Phật. Tâm ta khởi niệm sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, thì tâm ta là tâm địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Mang danh là Phật tử học Phật, niệm Phật thì phải thấu triệt được nhân mà ta đang làm và, sẽ phải làm đó là nhân gì!

Thỉnh chư vị hãy từ từ từng bước một mà cố công niệm Phật đừng để nhân của ác đạo xen vào. “Nam Mô A Di Đà Phật” thánh hiệu hãy chuyên cần.

Niệm phật tức niệm tâm

Tâm chúng sanh với Phật xưa nay vốn đồng nhất thể thanh tịnh, nhưng vì chúng sanh thả tâm chạy theo trần cảnh nên bị vọng tình làm ô nhiễm; sự ô nhiễm ấy là do nơi ngũ dục: sắc, tài, danh, thùy, thực lôi cuốn. Nếu tâm không khởi động tham sân si; thân không khởi tạo sát, đạo, dâm, vọng; thì nhất định lúc nào cũng thanh tịnh, mà, tâm đã thanh tịnh thì việc cầu sanh tây Phương Cực Lạc có chi là khó.

Tâm tham, sân, si, nổi lên thì chúng sanh cũng có thể tạo bất cứ nghiệp ác gì; những hiện tượng thường xảy ra chung quanh ta như: giết người, cướp của, hãm hiếp.. đó là tâm địa ngục, ngã quỷ, súc sanh của chúng sanh đó khởi dậy; không phải chỉ có tâm lúc đó là tâm ác đạo mà, ngay cả tướng mạo thân hình lúc đó cũng là tướng của ác đạo. Tâm ta tưởng Phật tức ta là Phật, từ ba mươi hai tướng tốt cho đến tám mươi nét đẹp đều xuất hiện trong ta. Khi ta nhiếp tâm niệm Phật thì cảnh giới Tây Phương hiện hữu trong tâm tưởng ta; đồng thời tâm ta cũng luôn hằng thường nghe phật Di Đà thuyết pháp. Hằng ngày tâm ta không niệm ngũ dục, nên cảnh trần ảo mộng của thế giới Ta Bà đối với tâm ta không in bóng; cảnh giới lục đạo luân hồi không thể hiện hữu trong tâm ta, dù rằng ta đang ở trong lục đạo luân hồi. Nhưng ta sẽ sanh về tây Phương vì tâm ta lúc nào cũng niệm Phật, nghe Phật thuyết pháp và, thật sự tâm ta đang sống với cảnh giới Cực Lạc Tây Phương của Phật A Di Đà. Tâm chúng sanh nhiễm ô bởi ngủ dục, nên chúng sanh sống ở thế giới phàm Thánh Đồng cư độ (có kẻ phàm người thánh); nhưng nếu chúng sanh tâm đã lìa nhiễm luôn ở trong cảnh thanh tịnh của chư Phật, lúc nào tâm cũng là Phật, cảnh là cảnh Phật, thì chúng sanh ấy đang ở trong cảnh giới thường tịch quang tịnh độ (cảnh giới thanh tịnh của chư Phật, thánh nhân không có xen lẫn phàm nhân); tuy chúng sanh ấy thân còn trụ nơi Ta Bà ô nhiễm nhưng tâm đã vượt ra ngoài phạm vi tam giới, mà, thể nhận vào thế giới cửa chư Phật, thế giới của Phật Di Đà.

Phật pháp thường dạy người tu căn bản là phải giữ gìn tâm ý, ý tưởng buông lung gây ác nghiệp vô lượng; vọng tưởng không an, phiền não khởi dậy, thiện nghiệp công đức sẽ khó thành tựu. Người thế gian luôn nghĩ đến tài, sắc, danh, lợi...nên tâm chí cuồng loạn quay cuồng trong khổ đau, từ trong đau khổ này đi vào trong đau khổ khác mà không nhìn thấy tự cho là vui; từ đó tạo thêm nhân đau khổ khác để mang tiếp quả đau khổ mãi mãi không bao giờ dứt.

Là người học Phật, niệm Phật dầu cho tại gia hay xuất gia, ta cũng phải nhìn thấy vấn đề, đem tâm sợ hãi nghiệp chướng mà tự mình chuyên cần tinh tấn niệm Phật. Phật là bậc giác ngộ, thanh tịnh tột cùng nên ta phải đem tâm tưởng nhớ và hằng niệm thường ngày. Từ đó chuyển được tâm phàm phu mê muội, phiền não để trở thành tâm thanh tịnh, sáng suốt đồng như chư Phật. Nên biết khi tâm ta suy nghĩ tưởng nhớ ác nghiệp đó là ta đang tạo niệm nhân ác, thì nghiệp quả chiêu cảm sẽ là ba đường ác; nếu lúc nào tâm ta cũng suy nghĩ tưởng nhớ đến sự diệu dụng công đức vô lượng của Phật Di Đà mà hằng niệm danh Ngài, đó là niệm Phật nhân, thì ta sẽ có Phật quả là vãng sanh về Tây Phương gặp Phật Di Đà, nghe pháp.

Trong Kinh có dạy:”tam đồ bát nạn cu ly khổ” nghĩa là: sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, trước Phật sau Phật, Bắc cu lô châu, trời Vô Tưởng, đui điếc câm ngọng, thế gian trí biện luận; nếu chúng sanh nào sanh nhằm một trong tám nạn này đều gọi là nạn khổ. Ở đây chúng ta thấy sanh vào thời kỳ trước Phật hoặc sau Phật là một trong tám nạn. Hiện tại chúng ta sanh vào thời mạt pháp, Phật Thích Ca đã nhập diệt, Phật Di Lặc chưa ra đời nên gọi là một trong tám nạn; tuy nhiên vẫn còn được chút duyên lành là gặp được giáo lý của Phật, biết hướng thiện, biết tu biết niệm Phật. Từ vô lượng kiếp chúng ta đã trôi theo giòng sanh tử sống loạn thác cuồng trong sáu nẻo luân hồi, khi làm thân người trời có lúc lại đi vào địa ngục, ngạ quỷ...đã niếm không biết bao nhiêu mùi vị cay đắng của cuộc đời. Theo tôi thiết nghĩ những mùi vị cay đắng của cuộc đời trong lục đạo mà chúng ta đã trải qua như vậy cũng tạm gọi là đủ lắm rồi. Giờ này, may mắn có chút duyên lành gặp được Phật pháp, gặp được pháp môn tu thù thắng; vậy, kính xin mời tất cả chư vị cùng chúng tôi hãy chuyên cần mà niệm danh hiệu của Phật Di Đà, để lìa bỏ cảnh giới đau thương khổ lụy mà cầu sanh về cảnh Tây Phương. Chúng ta phát Bồ đề Tâm tu học lục độ vạn hạnh, ngồi thiền giác ngộ sanh lên cung trời Đâu Suất gặp Phật Di Lặc xuất thế chúng ta xuống theo tu để chờ ngày thành Phật; hoặc chúng ta nguyện ở lại thế giới này hành đạo Bồ Tát để chờ Phật Di Lặc ra đời...tất cả tựu trung bây giờ tu để chờ ngày gặp Phật, hoặc chờ ngày thành Phật. Đều giống nhau ở điểm là muốn đạt được đạo vô thượng Bồ Đề. Vậy thì tại sao Phật Di Đà đang trụ thế, đang thuyết pháp tại cõi Tây Phương, mà, ta lại không niệm Phật để cầu sanh về gặp Phật, nghe pháp liền, lại phải ở lại Ta Bà chờ gặp Phật Di Lặc. Sau khi sanh Tây Phương gặp Phật Di Đà nghe pháp chứng được bất thối Bồ Tát, trong một niệm đại bi tâm có thể chu du khắp mươi phương thế giới Phật sát vi trần quốc độ mà hóa độ chúng sanh trong đó có thế giới ta bà. Vậy thì pháp môn niệm Phật có gì là khác đối với các pháp môn khác, chưa nói là thuận tiện và dễ dàng hơn cho mọi tầng lớp tu tập.

Do sự thuận tiện của pháp môn niệm Phật ở thời mạt pháp như thế, nên khuyên đại chúng ngàn vạn lần không nên mong sanh trở lại thế giới Ta Bà, làm người có địa vị cao sang mà, hãy quyết tâm chuyển phàm tình lục dục trở thành thanh tịnh tâm của chư Phật bằng câu Phật hiệu Di Đà.

Chúng ta cũng không nên suy nghĩ vì mang nhiều tội chướng ác nghiệp, phàm phu hạ liệt mà không có khả năng niệm Phật để thành Phật. Phật dạy:” ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành”. Trong kinh Pháp Hoa Phẩm Thường Bất Khinh, Bồ Tát Thường Bất Khinh mỗi khi gặp đại chúng đều lễ lạy và nói câu “ tôi không dám khinh quý ngài, vì quý ngài là vị Phật tương lai” hoặc Phật là tâm, tâm là Phật. Vậy hôm nay ta niệm Phật là niệm tự tâm, là hiển bày vị Phật tự tánh, là làm cho Phật Di Đà nơi tự tâm được chiếu sáng, là nghe pháp âm vi diệu phát ra nơi tự tâm, tâm tịnh thì cảnh tịnh, tâm Cực Lạc thì cảnh Cực Lạc, tâm tâm Phật Phật đồng cư nơi Tịch Quang Tịnh Độ nên nói niệm Phật cũng gọi là niệm tâm. Vọng tâm diệt thì chơn tâm hiện. Hiện tại chúng ta là phàm phu, không phải là thánh nhân không ai là không có tội; có tội mà biết sửa đổi cải thiện, sám hối thì tội ấy sẽ tiêu trừ; tội tiêu thì phước đức tăng, trí tuệ sanh, thiện nghiệp lớn; làm được như vậy là chuyền chúng sanh tâm thành Phật tâm. Thỉnh chư vị tinh tấn niệm Phật để chuyển tâm chúng sanh đau khổ Ta Bà thành tâm thanh tịnh của Thánh chúng nơi cõi Cực Lạc.

Niệm Phật cầu vãng sanh cần phải ăn chay

Phật thị hiện ra đời là vì nhìn thấy chúng sanh đang sống chết đau khổ trong lục đạo luân hồi, nên thể hiện tâm đại từ bi. Vì tâm đại từ đại bi mà Phật Di Đà đã phát bốn mươi tám lời nguyện để tiếp dẫn chúng sanh muốn đọa lìa sanh tử mà cầu sanh Tây Phương. Phật là đấng cha lành của chúng sanh nên có tâm đại từ đại bi bao trùm cả mười phương thế giới không có chỗ ngăn ngại. Chúng ta là con của Phật, miệng ta hằng ngày niệm danh hiệu của Phật Di Đà vậy ít ra chúng ta cũng phải có chút tâm từ bi. Chúng ta chưa có khả năng cứu độ chúng sanh thoát vòng sanh tử như chư Phật, thì ít ra cũng không nên làm cho những chúng sanh khác chung quanh ta phải chịu đau khổ. Chúng ta không phóng sanh, không giúp đỡ cho kẻ khác được an vui, thì ta cũng không nên giết hại thân mạng của chúng sanh khác để nuôi dưỡng thân mình.

Hằng ngày miệng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ta lại cũng dùng miệng này để ăn thịt chúng sanh khác; như vậy miệng ta vừa tạo thiện nghiệp mà cũng vửa tạo ác nghiệp; nhưng ác nghiệp lại nhiều hơn thiện nghiệp, vì thì giờ niệm Phật lại ít hơn là tạo ác, nên năng lực sanh về Tây Phương có điều không dễ. Miệng không ăn thịt là ta đã cắt đức được nhân ác nơi cõi Ta Bà. Miệng niệm danh hiệu Phật Di Đà là ta đang gây nhân của cảnh cực Lạc; nên biết rằng ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây Phương, mười người tu mười người vãng sanh.

Thế gian thường nói ăn chay không đủ chất bổ dưỡng làm cho người dễ sanh bệnh tật; kỳ thật chúng ta hãy vào bệnh viện xem bệnh nhân đủ mọi bệnh trạng khác nhau có mấy ai là người ăn chay. Những bệnh nan y như: ung thư , AIDS, gan, tiểu đường..không phải bệnh vì ăn chay mà do ăn thịt và bia rượu quá độ. Ngày nay khoa học tiến bộ, các nhà nghiên cứu sinh tố thực phẩm đã cho ta biết; thịt, bia, rượu, thuốc lá mang nhiều vi khuẩn bệnh tật đến loài người hơn là trái cây, rau củ, ngũ cốc. Các nhà khoa học khuyên mọi người nên ăn trái cây, rau cải, ngũ cốc nhiều hơn là thịt để tránh những bệnh nan y như máu cao, ung thư...chúng ta thử để một ký thịt cá, một ký rau cải vào một nơi nào đó trong vòng vài ngày, ta thấy rau cải sẽ có mùi hôi rồi sau đó lại khô đi ; nhưng một ký thịt thì sẽ đi từ trạng thái hôi đến thúi và, sau đó sẽ sanh ra nhiều con dòi bò chung quanh miếng thịt. Nên ta biết trong thịt có nhiều độc tố hơn là rau cải. Như vậy, cũng biết rằng ăn chay niệm Phật, hiện tại thân ít bệnh, tâm trong sạch, sau khi chết được sanh về cảnh giới Phật.

Nhìn lại trong cuộc sống khi chúng ta chạy tị nạn đến các đảo hay muốn đi di dân qua nước Úc, nước Mỹ chẳng hạn, sau khi chính phủ Úc hay Mỹ đã nhận, họ bắt chúng ta phải đi khám bệnh; nếu có bệnh thì phải trị cho đến hết trước khi vào Úc hoặc Mỹ. Ngay khi vào Úc rồi họ cũng phải thử máu khám nghiệm lại một vài lần nữa để diệt trừ những căn bệnh mà chúng ta đang có, vì họ sợ lây bệnh đến những người khác trong xã hội mới mà mình đang ở. Cũng vậy, Tây Phương Cực Lạc là xã hội thuần khiết thanh tịnh của bậc bất thối tâm Bồ Tát tạo thành, chúng sanh ở đó chỉ nghe pháp tiến tu, không có đường ác, không ăn thịt, không trộm cắp, không tà dâm...., thân tâm được nuôi dưỡng bằng thanh lương Phật pháp. Vì lẽ ấy mà chúng sanh trong thế giới Ta Bà niệm Phật cầu vãng sanh về Tây Phương, cũng phải dọn rửa thân tâm cho thật sạch trước khi vãng sanh, để khỏi phải làm ô uế cảnh giới và lây bệnh cho chúng sanh ở Tây Phương bằng cách ăn chay cho thân tâm mình cũng được thanh tịnh. Ăn chay cũng là đang chữa những thứ bệnh mà chúng sanh ở thế giới Ta Bà đang mang lấy: tài, sắc, danh, thực, thùy, những thứ ngũ dục trước khi muốn di dân về Tây Phương. Chiếc phi thuyền Bát Nhã chở chúng sanh từ Ta Bà đến Tây Phương sẽ không chuyên chở ở nơi toa hành lý những thứ tài, sắc, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ; vì nó là đồ quốc cấm nên hải quan ở Tây Phương sẽ không cho vào. Người niệm Phật mà còn ăn thịt, còn tham đắm ngũ dục lại muốn sanh về Tây Phương thì cũng giống như ở đây người muốn di dân vào Úc nhưng trong người thì đang mang bệnh AIDS, và, hành lý mang theo lại chứa toàn là cần sa, bạch phiến. Thỉnh chư vị hãy cẩn trọng ăn chay niệm Phật để cầu sanh tây Phương.

Trồng cà thì được cà, trồng đậu thì được đậu, nhân nào quả nấy. Xưa kia đất trồng cà thì ta bán cà, nay đổi lại trồng đậu thì ta bán đậu không thể bán cà. Cũng vậy, xưa ta ăn thịt là gây nhân đau khổ sanh tử của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục; nhưng nay đổi lại ăn chay niệm Phật thì sẽ sanh về cảnh Tây Phương, chứ không thể rơi vào ác đạo được. Thỉnh chư vị đừng nghi ngờ!

Niệm Phật cầu vãng sanh cần thọ quy giới

Thế gian thường nói:”tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chơn tu”. Đứng về mặt thiện nhơn ở thế giới Ta Bà việc này thì rất tốt, vì trong kinh Phật cũng dạy:”cha mẹ hiện tiền như Phật tại thế”. Chúng ta hiếu thảo với cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ đó là tròn đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ ở thế gian. Nhưng chúng ta là người học Phật, niệm Phật nên biết rằng thế gian này là giả tạm, là mộng ảo, cho nên những nhân mà ta đang tạo dầu là nhân thiện ở cõi đời này cũng chỉ mang lại cho ta sự sanh tử luân hồi, vì sao? Vì chúng ta chưa cắt đứt được tình ái của thế gian, cho nên đây cũng chỉ mới là việc hiếu nhỏ, chưa phải là đại hiếu như Ngài Mục Kiền Liên trong kinh Vu Lan. Chúng ta muốn trở thành những người con có hiếu như trong kinh báo ân, thì nhất định không nên chỉ phụng dưỡng cha mẹ về vật chất, làm cho cha mẹ vui nhất thời về sự đòi hỏi của dục tánh ở thế gian; vì những dục tánh vật chất này khiến cho con người hướng tâm về con đường ác. Mà người con đại hiếu là người phải hướng dẫn cha mẹ quay tâm tà về đường chánh, bỏ ăn thịt chỉ ăn rau, quy y thọ ngũ giới, niệm phật cầu vãng sanh, ấy mới thật sự là người con đại hiếu ngang hàng với đức đại hiếu Mục Kiền Liên.

Chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh đó là tự lợi, khuyên bảo cha mẹ anh em trong nhà niệm Phật cầu vãng sanh là lợi tha. Đây là hạnh nguyện của Bồ Tát, vì ta chưa chứng quả thật sự nên chỉ có khả năng tập hạnh lợi tha được chút ít là khuyên bảo người nhà cùng tu; được như thế cũng là quá đủ cho hạnh nguyện lợi tha của vị Bồ Tát mới phát tâm. Sau khi sanh qua Tây Phương, pháp lực của ta đầy đủ, tâm Bồ Đề ta bất thối, lúc ấy thì khả năng lợi tha sẽ mạnh hơn có thể độ được nhiều người; chừng ấy thì tha hồ mà làm lợi lạc cho chúng sanh.

Phật thì có vô lượng vô biên công đức, còn ta lại có vô lượng vô biên tội ác, chướng nghiệp; muốn có vô lượng vô biên công đức như chư Phật thì phải diệt trừ ác nghiệp; mà, muốn diệt trừ ác nghiệp thì phải thọ tam quy trì ngũ giới. Ác nghiệp phát sanh là do từ nơi thân, miệng, ý; bây giờ muốn dừng ác nghiệp thì phải lấy ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Do nơi thọ trì ngũ giới mà ta cắt đứt được sự tạo nhân sanh tử luân hồi trong thế giới Ta Bà. Bây giờ người niệm Phật cầu sanh Tây Phương mới nhẹ nhàng xả bỏ xác thân duyên hợp giả tạm Ta Bà mà sanh qua cảnh giới Cực Lạc.

Niệm phật mà không thọ trì ngũ giới thì đạo nghiệp sẽ không viên thành, không sanh được Tây Phương. Người không thọ giới nên không kiên sợ mà không từ nan tạo thêm nhiều nghiệp ác; nghiệp ác từ thân, miệng, ý còn tạo thì nhân sanh tử của Ta Bà vẫn còn. Do đó khi ta niệm Phật cầu vãng sanh kết quả sẽ không viên thành. Thỉnh chư vị muốn niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương thì nên tho trì tam quy ngũ giới để có thêm lương thực mà bước lên thuyền Bát Nhã trực thẳng tây Phương!

Thường niệm Di Đà là hành Bồ Tát đạo

Chư thiện hữu tri thức! Hằng ngày chúng ta niệm Phật, ngoài những thời gian quy định sáng tối; còn lại trong tất cả các thời gian khác như làm việc tại cơ xưởng, văn phòng, trồng rau, nấu cơm, quét nhà, giặt áo, may vá, tiếp khách...chúng ta đều phải thường xuyên niệm Phật. Từng giờ từng phút trôi qua câu Phật hiệu A Di Đà Phật luôn hiên hữu trong tâm niệm của chúng ta. Trong lúc có khách đến thăm nhà, khi nhìn thấy khách hai tay ta chắp lại miệng niệm : Nam Mô A Di Đà Phật! Khi khách ra về ta cũng chắp tay tiễn đưa bằng câu: Nam Mô A Di Đà Phật!
Câu phật hiệu chúng ta niệm hàng ngày là tự độ riêng mình, nhưng khi câu Phật hiệu ấy đã thoát ra ngoài miệng và âm thanh của tiếng niệm Phật đã truyền qua tai của mọi người chung quanh; nhất là câu niệm Phật ấy đã được phát ra trong lúc tiếp và tiễn khách, làm cho những người bạn của ta nghe nhiều lần tiếng niệm Phật mà phát sanh thiện tâm. Từ nơi nhân thiện nầy mà những chúng sanh ấy phát đại tín tâm đi vào Phật đạo.

Do nơi niệm phật của chúng ta mà đã mang lại nhiều sự lợi ích cho những người chung quanh, gây chủng tử Phật đạo nơi tâm thức của nhiều người, cho nên biết rằng công đức của sự niệm phật không phải chỉ cứu độ một người được giải thoát là lìa Ta Bà sanh Tây Phương mà còn độ được nhiều người tăng trưởng chủng tử Phật. Một hành động phát sanh từ nơi thân khẩu ý của chúng ta, vừa giải thoát cho mình lại làm lợi ích cho một số người chung quanh, dầu sự lợi ích đó là nhiều hay ít cũng đều được xem như là hành Bồ Tát đạo, tuy rằng ta chưa phát Bồ Tát tâm. Như vậy, chính ta là người đang thay phật làm việc phật sự, nên quả nhất định sẽ là quả Phật, tức là sẽ sanh về Tây Phương mà gặp Phật A Di Đà. Hãy tinh tấn mà niệm Phật, thay vì chào ông, chào bà,, chào anh, chào chị, hello, good morning..HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).27/4/2012.

No comments:

Post a Comment