BÀI
4
THÁI TỬ TẤT ÐẠT ÐA TU HÀNH VÀ THÀNH ÐẠO
-ooOoo-
Trong xã hội, con
người là trung tâm. Trong muôn loài, con người là cao quí hơn hết. Từ đó Thái Tử
Tất Ðạt Ða quyết tâm xuất gia để tìm cái gì ưu việt của con người. Trên con
đường đó, Thái Tử Tất Ðạt Ða phải trải qua nhiều gian truân mới chứng kiến thành
đạo quả.
I- TẤT ÐẠT ÐA HỌC
ÐẠO VÀ TU KHỔ HẠNH.
Sau khi cởi bỏ hết trang sức của trần
gian, trước hết Ðạo sĩ Thái Tử Tất Ðạt Ða đến Khổ Hạnh Lâm tìm hiểu phương pháp
tu hành của nhóm Bạt Già. Quan niệm của nhóm này cho rằng cuộc đời con người có
nhiều khổ não ràng buộc. Trừ hết khổ nhanh bao nhiêu thì chóng được giải thoát
bấy nhiêu. Bởi thế con người cầu ép xác tu hành khổ bản thân càng nhiều càng
chóng đạt kết quả. Từ đó, có người suốt ngày đứng một chân phơi mình giữa nắng
như thiêu đốt hay giữa sương tuyết lạnh buốt. Có người tự lấy roi quất vào thân,
có người nằm trên chông gai cho da thịt rướm máu. Có người ngồi bên đống lửa để
xông ướp sức nóng. Có người lặn xuống dưới nước để mong ánh trăng hoặc tia nắng
mặt tr?i xuyên vào cơ thể. Còn thức ăn, họ ăn rêu xanh hoặc vỏ cây, hoa quả. Lúc
đi khất thực, họ đem thức ăn bố thí cho người khác hoặc cho chim muông, chỉ ăn
các thứ bừa bãi, thừa thãi. Y phục toàn bằng vỏ cây, lá cây. Họ thực hành như
thế để mong chóng lên cõi trời hưởng sung sướng đời đời. Qua tư duy, Thái Tử Tất
Ðạt Ða thấy khổ hạnh chưa phải là cứu cánh, vì đã chịu nhiều cay đắng do xã hội
do thiên nhiên đem lại, con người lại tự hành xác chỉ mang thêm thống khổ. Phải
chăng đó là khổ khổ! Sau khi lên cõi trời hưởng phước báu hết, con người có còn
đọa lại vào sanh ra tử luân hồi không!
Với những vấn đề đó, Ðạo sĩ Tất Ðạt
Ða hỏi, nhóm Bạt Già không sao giải đáp được. Thấy Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða thật thông
thái xuất chúng, nhóm Bạt Già suy tôn Ðạo sĩ lên làm bậc thầy. Ðể giúp thỏa mãn
trí thức của Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða, nhóm Bạt Già giới thiệu Ðạo sĩ Alalam (Arada
Kalama) ở núi Tần Ðà nước Ma Kiệt với Ðạo sĩ. Do đó, sau một đêm ở lại rừng Khổ
Hạnh, Tất Ðạt Ða lại lên đường đi qua núi Linh Thứu (Pháp gọi là Pei des
Vautours) rồi vào thành Vương Xá để khất thực. Nghe tin Thái Tử Tất Ðạt Ða sắp
đến thành, dân chúng Thành Vương Xá rất hân hoan chờ đón để được cúng dường. Ðặc
biệt Vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) cũng chuẩn bị đón tiếp. Trên đường đi, Ðạo sĩ
Tất Ðạt Ða gặp một đàn cừu chạy tung bụi mù, đằng sau là con cừu non, bước đi
thất thiểu... lúc chạy quỵ chân. Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða hỏi người chăn cừu, lý do
thúc hối đàn cừu phải chạy.
Qua sự trình bày của người chăn cừu,
Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða biết Vua Tần BÀ Sa La sắp làm lễ tế thần. Vì thế cừu phải được
giao nạp cho kịp ngày. Thấy tội nghiệp cho cừu non, Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða bế cừu non
chạy theo đàn. Khi vào hoàng cung của Vua Tần Bà Sa La, Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða thấy
người ta đang đổ rượu vào lửa cho cháy rực để thui cừu Tế Ðàn, Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða
đem luật nhân quả giải thích cho Vua Tần Bà Sa La và mọi người nghe, Ðạo sĩ Tất
Ðạt Ða cũng giảng quy luật sinh tồn của xã hội do con người chủ động, không có
sự ban ơn giáng họa của thần linh. Cảm phục lý luận của Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða, Vua
Tần Bà Sa La mời Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða, ở lại Thành Vương Xá để cùng an bang trị
thế. Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða không chấp nhận, nhà Vua lại xin nhường nửa sơn hà, Ðạo
sĩ Tất Ðạt Ða cũng không chịu.
Với ý nghĩ nước Ma Kiệt Ðà được Ðạo
sĩ Tất Ðạt Ða trị vì chắc còn thịnh vượng hơn nhà Vua xin hiến trọn đất nước và
xin làm bề tôi lo việc cung phụng Tất Ðạt Ða. Vì ý nguyện tìm đạo giải thoát
sinh tử luân hồi cho nhân thế, Tất Ðạt Ða từ chối tất cả. Không thể cầm chân
người đạo sĩ, nhà Vua lo cúng dường vật thực rồi tiễn đưa Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða lên
đường.
Giữa đường Tất Ðạt Ða gặp 2 đại thần
sứ giả của Vua Tịnh Phạn. Hai sứ giả kể cho Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða nghe những âu sầu
của Vua Cha, của Du Da Ðà La, của triều đình và của cả kinh thành Ca Tỳ La Vệ.
Với mục đích thuyết dụ Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða trở về. Thấy không thuyết phục được,
hai đại thần xin lui về và hứa sẽ cử những người có ý xuất gia đi theo hầu hạ.
Ðến núi Tân Ðà, đạo sĩ Tất Ðạt Ða gặp đạo sĩ Alalam, một Bà La Môn thuộc phái số
luận. Theo học trong một thời gian ngắn, đạo sĩ Tất Ðạt Ða thông suốt lý thuyết
nhị nguyên luận và thành tựu pháp thiền định từ phi thiền đến phi tưởng phi phi
tưởng định. Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða hỏi kết quả phi tưởng phi phi tưởng định mà Alalam
chứng đạt là hữu ngã hay vô ngã! Vì nếu vô ngã không tri giác con người ở đó có
khác gì cây cỏ! Nếu có ngã có tri giác, con người sẽ còn phan duyên không dứt
được tâm nhiễm trước, còn ô nhiễm là còn triền phược, con người đâu có thể đạt
được cứu cách giải thoát.
Vì không thỏa mãn tri thức, đạo sĩ
Tất Ðạt Ða đến một nhà số luận khác có kiến giải cao để học đạo, đó là đạo sĩ
Uất Ðầu Lam Phất (Uhaca-Ramaputra). Nhưng cuối cùng đạo sĩ Tất Ðạt Ða vẫn chưa
thấy được con đường đi đến chân lý qua các đạo sĩ đương thời của Ấn Ðộ. Trên
nhiều hướng con người là trung tâm của tất cả, đạo sĩ Tất Ðạt Ða nghĩ: Con đường
chân lý là tìm tự nơi ta, chứ không ở một nơi nào khác.
Giã từ Uất Ðầu Lam Phất, đạo sĩ Tất
Ðạt Ða hướng về núi Tượng Ðầu, phía Bắc sông Hằng, nơi núi này nằm giữa sông
Hằng và thành Ba La Nại, nước Ma Kiệt Ðà, rừng Ưu Lâu Tần Loa (Urivilva) rặng
núi Già Da. Khu vườn thật yên tĩnh, rất hợp với người tu hành khi đạo sĩ Tất Ðạt
Ða đi về phía rừng này, có 5 môn đệ của Uất Ðầu Lam Phất xin tháp tùng. Ðây là 5
anh em: Ông Kiều Trần như (Aj-nata Kaundinya) A Xá Bệ Thê (Asvajit) Ma Ha Bạt Ðề
(Bhadrica), Thập Lực Ca Diếp (Ðasadaha-Casyaba) và Ma Ha Câu Ly
(Mahanama-Kuluka). Tại rừng Ưu Lâu Tần Loa, đạo sĩ Tất Ðạt Ða tu khổ hạnh với 5
anh em Kiều Trần Như, trải qua thời gian 6 năm, càng ép xác đạo sĩ Tất Ðạt Ða
càng tiều tụy. Bời hàng ngày chỉ ăn một hạt đậu hay một hạt mè, đâu có đủ chất
bổ dưỡng để nuôi cơ thể.
Trong thiền định đạo sĩ Tất Ðạt Ða
luyện pháp nín thở, càng nín thở càng hoa mắt, tai càng ù, đầu nhức như bị roi
quất, trán đau như bị dao dâm vì đuối sức, nên một hôm đạo sĩ Tất Ðạt Ða ngã
quỵ, tâm trí bàng hoàng. Lúc đó, đạo sĩ Tất Ðạt Ða cảm nhận lạc thú đưa lại cho
con người nhiều tham ái, ngược lại khổ hạnh cũng chỉ đưa lại cho con người hao
mòn cơ thể tinh thần. Con người phải tráng kiện mới có tinh thần minh mẫn. Hình
ảnh một cây đàn có dây, dây đàn căng hay chùng hiện lên trong tư duy của đạo sĩ
Tất Ðạt Ða, dựa theo cây đàn đạo sĩ Tất Ðạt Ða nghĩ rằng dây đàn căng tiếng đàn
sẽ quá cao, ngược lại dây đàn chùng tiếng đàn sẽ không có, dây đàn vừa tiếng đàn
sẽ êm ả. Rồi từ đó, đạo sĩ Tất Ðạt Ða quyết định bỏ lối tu khổ hạnh đi theo con
đường trung đạo.
Tư tưởng đã dứt khoát, đạo sĩ Tất Ðạt
Ða rời chỗ đứng dậy đi xuống sông Ni Liên Thiền. Tắm rửa xong, đạo sĩ Tất Ðạt Ða
lên bờ nhưng quá kiệt sức, đi không nổi, dù đã nhiều lần gượng dậy. May mắn lúc
đó có một cô gái chăn bò tên Su Dà Ta (Sajata) mang sữa đi qua, thấy tình cảnh
thê thảm của một người không còn sức khỏe, nàng rót một bát sữa và đem dâng, đạo
sĩ Tất Ðạt Ða lãnh thọ. Uống xong đạo sĩ Tất Ðạt Ða thấy khoan khoái, tinh thần
trong sáng, khí lực trở lại bình thường. Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða trở về chỗ cũ, nhóm 5
anh em Kiều Trần Như cho là đạo sĩ Tất Ðạt Ða thối chí, uống sữa của nàng chăn
bò là đã ô uế, kể cả tiếp xúc với dòng Thủ Ðà La càng mất phẩm giá của con nhà
dòng dõi, cả 5 người tỏ thái độ không chấp nhận hành động của đạo sĩ Tất Ðạt Ða
và bỏ chạy về thành Ba La Nại vì sợ lây ô uế. Thế là bước đường tìm học với đạo
sĩ và tự thân tu khổ hạnh được chấm dứt. Một bước tiến mới của đạo sĩ Tất Ðạt Ða
được mở ra.
II- ÐẠO SĨ TẤT ÐẠT
ÐA HÀNH THIỀN, TRÍ QUÁN VÀ HÀNH ÐẠO.
Từ bỏ nhóm Kiều Trần Như và tu khổ
hạnh, một mình một bóng đạo sĩ Tất Ðạt Ða thẳng tiến về núi Già Da, ở dưới gốc
cây Tất Bát La trên một tảng đá như kim cang tọa, đạo sĩ Tất Ðạt Ða hốt một số
cỏ trải lên trên đó làm một bồ đoàn. Chuẩn bị xong đạo sĩ Tất Ðạt Ða lên ngồi
với lời thề rằng: Nếu không tìm được đạo ta quyết không rời chỗ này!
Tại nơi đó, Tất Ðạt Ða nhập định 49
ngày Khung cảnh nơi đây êm đềm thật, nhưng đêm xuống khí lạnh của núi rừng thật
khắc nghiệt, tiếng gầm rú của ác thú vồ xé nhau ghê rợn hãi hùng, Ðêm này qua
đêm khác, đạo sĩ Tất Ðạt Ða vẫn không hoảng sợ, kiên nhẫn trong thiền định,
trong tư duy, trong quán chiếu. Nhưng ác liệt nhất là sự quấy phá của Ma Vương,
quỷ sứ hiện thân của vô minh, tham ái, chấp trước, dục vọng... Chúng là bóng tối
của đêm dài luôn luôn tranh chấp với ánh sáng chân lý. Bởi chúng nghĩ nếu đạo sĩ
Tất Ðạt Ða giác ngộ chân lý chúng sẽ thua thiệt. Từ đó chúng sẽ xua đuổi đạo sĩ
Tất Ðạt Ða đi khỏi gốc cây Tất Bát La. Mỗi khi nhắm mắt lại để tư duy đạo sĩ Tất
Ðạt Ða thấy chúng khuyên người hãy trở về cung điện, thụ hưởng các lạc thú. Khi
thấy không thể cám dỗ được, chúng rút lui nhường cho ma sân hận đến hò reo, chửi
rủa thô bạo. Chúng là những con rắn độc trườn tới trước mặt đạo sĩ Tất Ðạt Ða
rồi khè lưỡi phun nọc độc... Nhưng dáng hiền từ và kiên quyết của Tất Ðạt Ða
chúng đành rút lui. Trong bóng đêm ma ngu muội hiện thân của bất công sợ hãi kéo
đến bủa vây quanh cây Tất Bát La, chúng như những đàn dơi bay xào xạc như nhắc
với Tất Ðạt Ða rằng: Ánh sáng trí tuệ của con người đâu có đủ sức phá tan được
hắc ám của trần gian, chỉ có đấng tối cao toàn trí toàn năng mới đủ sức soi sáng
trần gian ban bố cho nhân loại những ân huệ. Rồi tiếp đến ma kiêu căng, ma nghi
ngờ nối nhau đến chinh phục. Cuối cùng là Ca Ma (Kama) chủ tể của dục tình,
khoái lạc, lực lượng chúng vô cùng hùng hậu và đầy đủ. Nào là những thiếu nữ
diễm kiều, nào là những vũ công ca hát, nào là những lực sĩ vai mang nhiều cung
tên dao búa, đèn đuốc... Chúng làm đủ các trò trước mắt Tất Ðạt Ða; khi dịu hiền
ẻo lả khêu gợi, khi ca múa đàn hát, thánh thót âm thanh, khi phùng mang trợn mắt
dọa nạt đủ điều... Bao nhiêu hình ảnh liên tục diễn trò trong đêm tối, đều không
khuất phục được Tất Ðạt Ða, bởi đạo sĩ Tất Ðạt Ða đã vững tâm quyết chí tin
tưởng vào năng lực của mình của tự thân. Trong thiền định với trí quán chiếu đạo
sĩ Tất Ðạt Ða biết đó là những loại ma đang tranh chấp trong đầu óc, trong tư
duy của chính mình mà thôi. Ðạo sĩ Tất Ðạt Ða tự nghĩ từ thời gian tu khổ hạnh
về trước, ta phải đấu tranh với ngoại ma để thoát "ngục vàng", thoát khỏi xã hội
giai cấp, thoát khỏi phi lý, còn từ ngày khởi sự nhập định ở gốc cây này ta phải
đương đầu với lũ ma ghê rợn mà ta đã nuôi dưỡng nó trong không gian vô tận, đây
là trận chiến cuối cùng ta phải tự thắng.
Vào đêm cuối cùng, lúc canh 2 bầu
trời trong suốt ánh sao lấp lánh, tỏa rạng hào quang, ma vương quỷ sứ như tan
biến từ lúc nào, đạo sĩ Tất Ðạt Ða thấy lòng mình phẳng lặng như mặt nước hồ
thu, trí tuệ bừng sáng như mặt trời khi đứng bóng, giữa lúc đó, Tất Ðạt Ða chứng
"Túc mạng minh". Qua trí tuệ này, Tất Ðạt Ða thấy rõ tất cả các kiếp sống
trong quá khứ của mình là một chuỗi dài vô tận, không lúc nào ngừng nghỉ. Có
điều là đạo sĩ Tất Ðạt Ða bao nhiêu hành động của nhiều kiếp sống đã qua đều
đóng góp cho sức mạnh đi lên trên con đường chí thiện, chí mỹ. Các trí tuệ quán
chiếu mà đạo sĩ Tất Ðạt Ða vừa chứng được chính nhờ vào quá trình đó. Bấy giờ
Tất Ðạt Ða thấy mình như người lữ hành ngồi trên đỉnh núi nhìn xuống chân đèo.
Dọc theo con đường dốc đá cheo leo, nào hầm nào hố, nào sỏi, nào gai khe, nào
suối... mà người lữ hành đã khổ công vượt qua không bị té ngã. Có được một trí
tuệ quán chiếu chân chính về đời sống quá khứ là cả một quá trình diệt hết vô
minh, trí tuệ khởi, giống như bóng đêm bị phá tan, ánh sáng tỏ rạng, tâm linh
đạt chính tri kiến ngay trong cuộc sống ở thế gian.
Ðến nửa đêm, Tất Ðạt Ða chứng
"thiên nhãn minh" thấy xuyên suốt bản thể của vũ trụ bao la. Trong khoảng
không gian vô cùng vô tận, Tất Ðạt Ða thấy các tinh tú, lớn có, nhỏ có, nhấp
nhánh nhưng riêng lẻ, nhưng liên hệ, chuyển động vận hành rất trật tự trong một
hổ tương chằng chịt. Các hành tinh xuất hiện, lúc chiếu sáng, lúc lu mờ. Lúc có,
lúc không, nhưng không thêm, không bớt. Thế giới thiên nhiên qua 4 giai đoạn:
Thành, Trụ, hoại, không. Trí tuệ quán chiếu này không bị bất cứ một vật thể hữu
hình nào làm chướng ngại Tất Ðạt Ða, thấy luôn cả sự vật đang chìm trong hố đen
của khoảng không gian vô tận cũng nằm trong luật sinh tồn tương quan tương
duyên.
Qua canh 4, khi sao mai vừa mọc, Tất
Ðạt Ða chứng: "Lậu tận minh". Thấy nguồn gốc khổ đau sinh tử của chúng sanh là
vô minh có nghĩa là từ đó không nhận chân được thực tại, "Như thật tri kiến" rồi
do mê mờ, thân, khẩu ý của con người làm những việc không lương thiện tạo các
nghiệp báo, đó là "Hạnh". Từ nghiệp, con người có phân biệt nhận có ta, có
người, đó là "thực". Từ hiểu biết sai làm con người triển khai có tâm lý và vật
lý, đó là "danh sắc". Tâm và cảnh sắc được thiết lập, cảnh được các giác quan
tiếp nhận, đó là "lục nhập". Hình tướng và giác quan va chạm cọ xát nhau để cảm
giác sinh khởi đó là "xúc" va chạm những gì ưu thích sẽ thọ nhận, đó là "thọ".
Những gì đã thọ nhận thì gọi là yêu thương, say đắm đó là "ái". Ðã ưa thích một
hiện tượng nào liền tìm cách cố giữ đó là "thủ". Những thứ đã có trong tay không
bao giờ để cho mất mát, đó là "hữu". Vì muốn có nghiệp báo tồn tại, làm nhân tái
sinh ở một kiếp khác, đó là "sinh". Vì có sinh ra tức là có một cuộc sống cho
nên phải có bịnh, có già, có chết đó là "lão tử". Trong kiếp sống cứ thuận dòng
theo cái vòng lẩn quẩn của 12 nhân duyên, con người mãi mãi trôi lăn trong sanh
tử luân hồi. Trái lại, nếu đi ngược dòng diệt hết vô sinh, con người sẽ giác ngộ
và giải thoát. Phương pháp đi ngược dòng trước hết con người phải biết phòng
ngừa thân, khẩu, ý đừng tạo tác nghiệp báo là phải giữ "giới", có bỏ các nghiệp
xấu tâm ý được trong sạch vắng lặng, thiền định phát sinh "định". Cõi lòng vắng
lặng như nước mùa thu, trăng sao chắc chắn được hiển lộ. Trí tuệ được chiếu sáng
"tuệ". Ánh sáng chói rực đêm tối sẽ tiêu tan, tam minh bùng chói, vô minh, tham
ái, ngã chấp, dục vọng. Nói khác hơn là kiến tri hoặc, trần sa hoặc và vô minh
hoặc sẽ tiêu tan như mây khói, như bóng đêm khi mặt trời tuệ giác hiển
lộ.
Khi sao mai đã lên cao, ánh trăng rằm
cũng đang tỏa rạng Tất Ðạt Ða hoát nhiên đại ngộ, thành Phật hiệu là: "THÍCH CA
MÂU NI" và trở thành đáng Ðạo Sư của nhân thế.
Lúc bấy giờ Phật được 36 tuổi, cây
Tất Bát La thành cây Bồ Ðề (cây giác ngộ) chỗ Phật ngồi gọi là Bồ Ðề tòa. Vùng
đất xung quanh cây Bồ Ðề gọi là Bồ Ðề tràng, về sau được dựng tháp kỷ niệm gọi
là Tháp Phật Bà-Già-Da (Buddha-Gaya).
III- NHẬN THỨC VÀ
KẾT LUẬN.
Từ khi lên yên ngựa Kiền Trắc, vượt
thành xuất gia, tìm thầy học đạo, tu khổ hạnh với 5 anh em Kiều Trần Nhu, cho
đến lúc ngồi dưới gốc cây Bồ Ðề nhập định, tuệ quán và chứng thành đạo quả, Phật
THÍCH CA đã phấn đấu không ngừng. Nếu không nhờ nghị lực kiên cường, có lúc -
chắc Phật phải bỏ cuộc, nhất là khi ngồi ở tòa Bồ Ðề, nội ngoại ma đã đến cám dỗ
hoặc quấy phá hung hăng không ngừng. Từ đó sự thành đạo của Phật quả là một ánh
vàng xuất hiện, có một không hai trong trần thế.
Từ xưa đến nay có mấy ai từ chối lạc
thú ở đời. Càng có vật chất, càng có địa vị, con người càng khởi niệm tham ái,
đắm trước, mê mờ...
Cảm động biết bao, nếu chúng ta nhìn
lại giai đoạn Phật tu khổ hạnh, da bọc xương, đi đứng không vững. Phải chăng vì
thế, các Chùa ở Việt Nam đã tạc thờ tượng Phật tu khổ hạnh. Tượng này được gọi
là tượng Tuyết Sương, có ở Chùa Bút Tháp, Hà Nội. Hình ảnh khổ hạnh này, Phật đã
diễn tả lại trong kinh Saccaka:
Trong khi ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu nành, xúp đậu đen, xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì ta ăn quá ít, tay chân ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây khô héo. Vì ta ăn quá ít, bàn trôn của ta trở thành những móng chân con lạc đà. Vì ta ăn quá ít, xương sống ta phơi bày giống như cây cột của một sàn nhà hư nát. Vì ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của ta nằm sâu thẳm, trong một giếng nước thâm sâu. Vì ta ăn quá ít, da đầu của ta trở thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí đắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nắng làm cho khô cằn, nhăn nheo. (Trung bộ Kinh I trang 245, HT. Thích Minh Châu dịch).
Quá trình tu hành về giác ngộ, giải
thoát là một quá trình do PHẬT THÍCH CA MÂU NI thực hiện. Trong phần kết luận
của bài ý nghĩa Phật thành đạo, Hòa thượng THÍCH MINH CHÂU đã viết:
1)- Quá trình giác ngộ, giải thoát của Ðức Phật là một quá trình tu tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của con người hiện tại, không có thần linh, không có bùa phép, không có cứu rổi...2)- Pháp môn đưa đến giác ngộ, giải thoát là giới, định tuệ, nghĩa là phải sống mỹ, sống tốt lành trong sạch. Dựa trên nếp sống ấy, tập trung tâm tư vào những đối tượng có lựa chọn để phát triển nội lực tịnh tâm với xả và nhất tâm trong sáng của thiền thứ tư, bước vào thiền quán, nhìn cái nhìn như thật với trí tuệ, và lấy trí thức như thật ấy đoạn tận các hậu hoặc để được giác ngộ, giải thoát.3)- Ðức Phật là một người như chúng ta, sinh ra là một người, sống như một người và từ giã cõi đời như mọi người.
Nhưng là vì một người vị sự đau khổ
của chúng sinh mà xuất gia tu đạo, một con người đầy đủ nghị lực kiên trì, can
đảm để chiến thắng mọi trở ngại, cuối cùng đã tìm ra được con đường diệt khổ cứu
độ chúng sinh.
Ngày thành đạo của NGÀI đã nói lên sự
thành công cao cả của con người đã biết nâng cao phẩm giá tuyệt vời của con
người có khả năng giác ngộ đã thành tựu sự giác ngộ một cách trọn vẹn dưới gốc
cây Bồ Ðề!
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN.
1)- Nhóm Bạt Già tu như thế nào?2)- Gặp con cừu non không chạy kịp đàn, Tất Ðạt Ða đã làm gì?3)- Tại sao Vua Trần Bà Sa La cảm phục Tất Ðạt Ða?4)- A La Lam và Uất Ðầu U Lam Phất chủ trương như thế nào Tại sao Tất Ðạt Ða không chấp nhận lý thuyết của họ?5)- Tất Ðạt Ða tu khổ hạnh với ai? Ở đâu? Bao lâu và kết quả như thế nào?6)- Tại sao Tất Ðạt Ða dùng sữa của Su Dà Ta, giai cấp Thủ Ðà La?7)- Trong 49 ngày, dưới gốc cây Bồ Ðề, Tất Ðạt Ða đã chiến đấu với ai?8)- Ðêm thứ 49, Phật thành đạt được gì?9)- Hãy nhận định quá trình giác ngộ và giải thoát của Phật Thích Ca Mâu Ni.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,MHDT.17/4/2012.
No comments:
Post a Comment