-ooOoo-
N
gày xưa, để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa, ngoài
thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú... Nhà nho còn phải biết thêm bốc,
y, lý và số. Về Phật giáo để được toàn bích, ngoài thông hiểu nội điển, một Tăng
sĩ cần phải biết thêm Thanh Minh, Nhân Minh, Công Xảo Minh, và Y Phương Minh,
gọi chung là Ngũ Minh. Nếu không được như thế, tối đa cũng phải biết 4 hoặc 3,
tối thiểu phải biết 2 minh. Vì trong khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển, nhưng
trình bày không mạch lạc, khúc chiếc, lý luận không biện chứng, Lôgic, thì khó
mà thuyết phục được người nghe. Mặt khác, nếu thuộc kinh điển, có lý luận, nhưng
gi?ữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng, phải nhờ đến thông dịch, diễn
giả cũng không thể truyền đạt hết tư tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế,
để trở thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường nội điển, tối thiểu
các Tăng sĩ cần rèn luyện, biết thêm ngôn ngữ và có một số kiến thức phổ thông.
Thời Phật còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử, Ca Chiên Diên (Katyayana) không
những chỉ thông hiểu những tư tưởng triết học đương thời, am tường giáo pháp của
Phật, mà còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng đều thán phục. Phật là Thánh
chúng phong tặng cho Ca Chiên Diên là bậc Luận Nghị đệ nhất.
I- DÒNG HỌ VÀ BIỆN
TÀI CỦA CA CHIÊN DIÊN.
Ở miền Nam Ấn Ðộ, nước A Bàn Ðồ
(Avente), thôn Di Hầu, thuộc dòng Bà La Môn, có một gia đình rất giàu sang và
danh giá, được nhiều người kính nể. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayana) được sinh ra
trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một quốc sư đương
thời, Ca Chiên Diên là họ, tên là Na Da Là, về sau nhờ nổi tiếng, nên mọi người
dùng họ để thay tên cho Tôn giả.
Ca Chiên Diên Có một người anh cũng
thông minh tài trí theo cha học đạo làm Bà La Môn.
Ðể uyên bác hơn, Ca Ca đi nhiều nơi,
tham học đạo lý với các Bà La Môn danh tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của
Bà La Môn, Ca Ca trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng kinh Vệ
Ðà. Trong khi anh du học phương xa, ở nhà Ca Chiên Diên cũng theo cha dồi mài
kinh sử, cùng lúc với Ca Ca, Ca Chiên Diên cũng lập đàn, đối diện với đàn của
anh để thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi người chưa?
Trước hai đàn tràng, mọi người cho là
Ca Chiên Diên hùng biện hơn Ca Ca. Do đó, hầu hết thính chúng đều hướng về Ca
Chiên Diên. Thấy em làm mất mặt trước đám đông, Ca Ca đến trước thân phụ thưa
kiện, và đòi trừng trị tội trịch thượng của Ca Chiên Diên một cách thích
đáng.
Ca Chiên Diên được triệu đến để tiện
bề phân xử. Trước cha và anh, Ca Chiên Diên quỳ lạy và bày tỏ:
- Thưa cha! Xin cha hãy rộng lượng
soi xét, trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở nhà con cũng theo cha cố công
dồi mài kinh sử. Con thiết lập đàn tràng để biết công lao học hỏi nghiên cứu
trong bao năm qua, kết quả như thế nào? Chỉ có thế thôi. Con cũng không có ý đồ
cạnh tranh hơn thua. Trước thính chúng, con không rắp tâm dụ dỗ ai. Hai anh em
của con sẽ phân trần với nhau, xin cha chớ bận tâm. Hướng về Ca Ca, Ca Chiên
Diên cũng tỏ lời xin Ca Ca cảm thông, và sẽ cùng nhau hòa giải, vì đây, chẳng
qua chỉ là sự hiểu lầm mà thôi.
Trước hai người con, Quốc sư đều quý
mến, không biết nên phân xử thế nào cho phải, chỉ hứa sẽ cho biết ý kiến sau. Cả
hai đều lui bước xong xuôi. Quốc sư bàn với phu nhân, cuối cùng có quyết định để
làm cho an lòng Ca Ca, vì ông này có nhiều háo thắng, vả lại cũng để bảo tồn
danh dự cho Ca Ca, Ca Chiên Diên được gởi qua núi Tần Ðà, ở phương Nam học đạo
với Tiên A Tư Ðà.
Tiên A Tư Ðà là trưởng huynh của thân
mẫu Ca Chiên Diên, ông là vị tiên nhân bác học, chứng tứ thiền, ngũ thông, được
nhân dân Ấn Ðộ trọng nể lúc bấy giờ.
Ca Chiên Diên rất được A Tư Ðà thương
mến, vì tư chất thông thái, chóng lãnh hội những điều được truyền
đạt.
Một hôm A Tư Ðà cho Ca Chiên Diên hay
rằng:
- Ta tuy thông hiểu Thánh điển Vệ Ðà,
nhưng sẽ không bằng Thái Tử Tất Ðạt Ða con vua Tịnh Phạn, vì Thái Tử sẽ xuất gia
thành đạo vô thượng và sẽ chuyển xe chánh pháp tại vườn Lộc Uyển, xứ Ba La Nại.
Sau này, con hãy đến đó thọ giáo để triển khai tài năng luận nghị của con. Riêng
cậu, chẳng bao lâu nữa sẽ từ giã cuộc đời, không có vinh dự gặp Phật.
Rồi để chuẩn bị cho cháu, A Tư Ðà dẫn
Ca Chiên Diên xuống núi đến lập tịnh thất tại Ba La Nại; đúng như lời dự đoán,
ít lâu sau, A Tư Ðà từ giã cõi đời.
Nhớ lời cậu khuyên, sau khi Phật đến
Lộc Uyển chuyển pháp luân, Ca Chiên Diên đi tìm Phật cầu sư học đạo chứng thánh
và trở thành bậc Luận Nghị đệ nhất.
II- ÐẠO NGHIỆP CỦA
CA CHIÊN DIÊN.
1. Biện luận phép bình
đẳng
Trong hàng đệ tử của Phật, có hai
nhân vật biện luận tài tình đó là Phú Lâu Na và Ca Chiên Diên. Nhưng khi thuyết
pháp Phú Lâu Na thiên về số đông, còn Ca Chiên Diên lại thích lý luận với từng
người một.
Một hôm, Ca Chiên Diên đến phía Tây
Ấn Ðộ, nước Ma Thâu (Mathian) truyền đạo, sau khi xem xét dân tình, phong tục
địa phương, lề lối sinh hoạt xã hội, Ca Chiên Diên đến yết kiến vua nước Ma
Thâu.
Thấy Ca Chiên Diên bỏ dòng Bà La Môn,
theo dòng Sát Ðế Lợi là một chuyện lạ, vua Ma Thâu hỏi Ca Chiên Diên:
- "Ở đời ta chưa thấy ai lại bỏ dòng
họ cao quý sinh từ đầu Phạm Thiên, để đi theo dòng họ thấp hơn như Tôn giả. Tại
sao lại như thế? Có ai ép buộc chăng?
- Ðại vương! Tôi cảm nhận Ðức Phật là
bậc đại thánh, lời Ca Chiên Diên. Trước đây, cậu tôi là tiên A Tư Ðà khuyên tôi,
tôi rất nghi ngờ, có thể là không xác thật. Vì tôi cũng nghĩ như Ðại Vương,
trong đời ai có thể hơn dòng dõi Bà La Môn được. Nhưng khi gặp Phật, nghe Phật
khai thị, tôi tự nghĩ, trước đây mình vô cùng lầm lẫn. Với luật Manu, xã hội
được chia thành 4 đẳng cấp: - Bà La Môn, Sát Ðế Lợi. Phệ Xá và Thủ Ðà La. Luật
này có ra, chẳng qua là do dòng Bà La Môn muốn củng cố uy thế mà đặt ra. Giữa
con người với con người, ai cũng dòng máu đỏ, nước mắt mặn, ai cũng chào đời với
tiếng khóc, chưa hề có dấu tin-ka ở trán, hay các vòng vàng ở cổ tay, cổ chân.
Lớn lên, nếu được học, ai cũng có thể thuộc kinh Veda, vào thương trường, ai
cũng có thể biết buôn bán. Sống ở rẫy bái ruộng đồng ai cũng có thể biết cày
cấy, được chỉ nghề nghiệp ai cũng có thể sản xuất ra vật tiêu dùng, người không
chịu học hỏi tất sẽ ngu dốt. Do đó, có dòng này dòng khác là do Luật Manu và xã
hội gán ép cho con người. Hơn nữa, thiện ác hay cao quý, thấp hèn, người dòng
nào lại không có. Thế nhưng, trong nhà tù, kẻ làm tôi tớ đều là người thuộc dòng
thứ dân. Còn trong dòng Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, không hiếm người phạm pháp, làm
điều độc ác, nhưng nhờ được che chở bởi dòng họ, người bất lương tội lỗi vẫn ăn
trên ngồi trước, thật là bất công!
Thái Tử Tất Ðạt Ða vẫn thấy rõ thực
trạng của tư tưởng, tôn giáo, xã hội Ấn Ðộ, nên đã từ bỏ cuộc sống vương giả để
đi tìm đạo và Thành đạo. Ở đời, từ xưa đến nay, có mấy ai dám từ chối địa vị cao
sang, quyền quý và lắm lạc thú như Phật Thích Ca? hiện nay, Phật đang chủ xướng
thuyết bình đẳng để xã hội không có cảnh người bóc lột người, người hà hiếp
người, người ăn không hết, kẻ làm đầu tắt mặt tối mà vẫn đói khổ. Trong giáo
đoàn của người mọi người đều bình đẳng, ai có phẩm hạnh cao tất được tôn trọng,
dù đó là người thuộc dòng hạ tiện.
Thật đúng là nhà Luận Nghị đệ nhất,Ca
Chiên Diên đã thao thao thuyết phục vua Ma Thâu, một cách biện chứng, lôgic. Bởi
thế nhà vua đã thể hội giáo pháp bình đẳng của Phật, qua lần gặp Ca Chiên Diên,
nhà vua cũng thừa nhận Ca Chiên Diên là nhà biện luận đại tài, và yêu cầu được
giới thiệu để quy y Phật. Khi trở thành Phật tử, Vua Ma Thâu áp dụng phép bình
đẳng của Phật để điều hành việc nước. Tất cả tù nhân ở các trại giam đều được
phóng thích. Ai phạm pháp, có tội đều được đưa đi giáo dục cải tạo, dù đó là
người thuộc dòng Bà La Môn hay Sát Ðế Lợi. Nhờ thế cả nước, mọi người đều vui
mừng, dân tình an cư lạc nghiệp, nhân dân cả nước Ma Thâu cũng rất cảm kích giáo
pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng của Phật Thích Ca. Ca Chiên Diên đến đâu cũng
được trọng nể hoan nghênh nhiệt liệt.
2. Ðạo đức không ở tuổi
tác
Ca Chiên Diên đem giáo pháp bình đẳng
của Phật truyền bá khắp nơi, khiến mức độ tôn kính Bà La Môn trong nhân dân ngày
một giảm sút. Bởi thế, các Bà La Môn rất oán hận Ca Chiên Diên và luôn luôn tìm
cơ hội để đả kích.
Một hôm ở Ba La Nại, bên ao Ô Nê, Ca
Chiên Diên đang tọa đàm với các Tỳ Kheo đồng học. Trong lúc đó có một Bà La Môn
thuộc hàng Trưởng lão đến khiêu khích, ông chống gậy đến đứng cạnh Ca Chiên
Diên, nhưng Ca Chiên Diên vẫn điềm tĩnh trong việc tọa đàm, không đứng dậy chào
hỏi và nhường chỗ, Ðạo sĩ nổi giận, lên tiếng trách móc:
- Các ông còn trẻ, gọi là tu hành,
giữ gìn oai nghi tế hạnh, tại sao gặp người già cả, bậc trưởng thượng không chào
hỏi, đón tiếp?
Các Tỳ Kheo có vẻ bối rối, Ca Chiên
Diên vẫn không nao núng, nói:
- Chính ông mới là con người mất lịch
sự, ông là ai mà đường đột vào đây, la lối ầm ĩ như thế? Phẩm hạnh không ở nơi
người đầu bạc. Người không có cung cách, biết tôn trọng sự yên tĩnh của người
khác, nhất là trong lúc tọa đàm, học tập, già mà như thế có đáng được trọng vọng
không?
Nghe Ca Chiên Diên lý luận, ông già
Bà La Môn càng nổi nóng hơn cho là Ca Chiên Diên hổn láo rồi cầm gậy đe dọa Ca
Chiên Diên. Lửa đỏ, không nên thêm dầu, mặc cho ông già quát tháo, Ca Chiên Diên
điềm tĩnh nói:
- Ông thô tháo quá, mất hết tư cách
cho nên chúng tôi không thể tôn trọng được, tuổi lớn nhưng ông không biết trau
dồi tác phong đạo đức, tham đắm sắc trần phiền não, tật đố, si mê... Không buông
bỏ tất yếu không bằng tuổi trẻ, đáng được cho người tôn kính, đó là người không
ái dục, không tham danh lợi, không nóng nảy, chấp trước...
Nghe Ca Chiên Diên nói có lý quá, hết
cách phê phán, lão Bà La Môn lầm lũi rút lui.
Một hôm khác, có một lão Bà La Môn
khác khá giỏi biện luận, từ xứ Câu Thi Na xa xuôi, tìm đến Ba La Nại kêu đích
danh Ca Chiên Diên hạch hỏi:
- Này Ca Chiên Diên! Ta nghe ngươi bỏ
Bà La Môn giáo để theo ông Cù Ðàm phải không? Người phản bội tín ngưỡng lỗi
nhiều hay ít? Ông lại hay đem giáo pháp của Phật thuyết dụ các Bà La Môn, vô lễ
thật.
Nghe Bà La Môn kết đủ thứ tội một
cách ầm ĩ, với đức tính điềm tĩnh nhưng lý luận sắc bén, Ca Chiên Diên chậm rãi
trả lời:
- Ông xem tấm áo cà sa trên thân tôi
là biết tôi đã cải tôn giáo rồi, cần gì phải đặt vấn đề. Với tín ngưỡng có nhiều
thần quyền, có luật lệ mất bình đẳng, người theo tín ngưỡng đó có đáng để tuân
hành không? Người đã biết con đường chính đạo có cần hướng dẫn cho gia đình bạn
hữu, người theo tà giáo trở về nẻo chính hay không?
Chưa chịu thua, vì mục đích đến để hạ
bệ Ca Chiên Diên, lão Bà La Môn hỏi:
- Này Ca Chiên Diên! Ngươi là Tỳ
Kheo, sao không biết giữ oai nghi tế hạnh, trước đây đã không cung kính một lão
Bà La Môn trưởng thượng?
Ca Chiên Diên dõng dạc trả
lời:
- Giá trị con người không ở tuổi tác
mà là ở phẩm hạnh. Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp của Phật, cho nên đương nhiên
tôi không thể chấp nhận tà thuyết vái lạy thầy tà bạn ác, người không có tư cách
được, đó là chuyện đương nhiên, mắc mớ gì mà ông thắc mắc?
Nghe Ca Chiên Diên đối đáp sắc bén,
lão Bà La Môn khâm phục và xin được giới thiệu để gia nhập hàng đệ tử
Phật.
3. Nguyên nhân tranh
cãi
Một buổi sáng sớm, trên đường đi khất
thực, một Bà La Môn chận Ca Chiên Diên lại và hỏi:
- Tôi nghe tiếng Tôn giả đã lâu mà
nay mới gặp, thật là may mắn. Hiện giờ trong tư tưởng, tôi có một thắc mắc mà
không giải đáp được, tiện đây xin tôn giả chỉ giúp.
- Ông cứ tự nhiên nói, Ca Chiên Diên
đáp.
- Thưa Tôn giả! Trên thế gian này tôi
thấy Sát Ðế Lợi tranh cải với Sát Ðế Lợi, Bà La Môn tranh cải với Bà La Môn.
Nguyên nhân gì mà họ lại tranh cải như thế?
Ca Chiên Diên đáp:
- Vì tham dục mê hoặc.
- Thưa Tôn giả! Còn Sa Môn với Sa Môn
tranh cải vì lý do gì?
- Vì ngã kiến và pháp
chấp.
- Thế trên cõi đời nầy ai là người
không bị tham dục mê hoặc và ngã kiến, pháp chấp để nương theo?
Chẳng do dự, Ca Chiên Diên
đáp:
- Ðức Phật!
Ðạo sĩ Bà La Môn cảm thấy lời của Ca
Chiên Diên thật xảo tuyệt nên yêu cầu Tôn giả cho được quy y Phật.
4. Bán nghèo
Tại nước A Bàn Ðề (Avanti), trên
đường đi du hóa, Ca Chiên Diên gặp một người đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ
non, bên bờ sông. Cảm thấy cảnh đáng thương, Ca Chiên Diên dừng bước
hỏi:
- Tại sao lại khóc lóc thê thảm như
thế? Hãy cho biết lý do, thử xem tôi có giúp được gì cho bà chăng?
- Chắc ông không giúp được gì đâu? Bà
ta nói
- Nếu không giúp vật chất, tôi có thể
chỉ cho bà phương pháp giải quyết, Ca Chiên Diên từ tốn đáp.
- Ðời thật là bất công! Bà nói, người
giàu thì càng giàu thêm, dư ăn dư xài, kho lẫm tràn đầy. Ngược lại, người nghèo
ngày càng xơ xác, đổ mồ hôi mà vẫn không đủ ăn. Cái khó lại bó cái khôn! Không
có cách xoay xở. Tôi sinh ra trong gia đình nô lệ khốn cùng, từ khi chào đời đến
nay, không lúc nào mà cái khổ không đeo đẳng. Vì thế, đến nay, tôi không còn sức
chịu đựng, chỉ muốn đi tìm cái chết may ra mới hết khổ.
Ca Chiên Diên đáp:
- Không cần khóc lóc, trong cuộc đời
nầy đâu phải chỉ có bà nghèo. Thiên hạ, đa phần là người nghèo. Bà thử xem tại
nước này có bao nhiêu nhà giàu. Với những thứ tiền của tràn đầy kho lẫm, chắc gì
những người giàu đã là không khổ? Vì lòng tham ô không đáy, có một h? lại muốn
10. Lòng tham dục hành hạ con người ghê gớm lắm! Bởi thế, tuy nghèo, nhưng lòng
không dơ bợn, biết vừa đủ, là thấy thoải mái hơn. Ðức Phật đã nói - "Người giàu
tuy ở thiên đường cũng không vừa ý, người nghèo lại biết vừa đủ tuy nằm trên đất
vẫn thấy an lạc".
- Ðó là lý thuyết thôi ông ơi! Bà ta
nói, thực tế khác hẳn. Người giàu khác với kẻ nghèo. Vì muốn ăn là có ăn, muốn
mặc là có mặc. Họ bỏ tiền ra là muốn chi cũng được. Còn nghèo như tôi suốt đời
làm nô lệ, làm việc quần quật cả ngày mà đôi lúc còn bị roi vọt chửi rủa, thức
từ 4, 5 giờ đến quá 12 giờ đêm mà cơm không đặng no, áo rách tả tơi, đúng là
nghèo truyền kiếp! Vì thế tôi muốn chết, may ra mới hết thống khổ. Nhưng chết
đâu có được. Do đó, có thể nào không khóc được ông ơi!
- Vậy bà hãy bán cái nghèo đi, Ca
Chiên Diên nói.
- Cái nghèo đâu có bán được, Bà nói,
ai lại dại dột mà đi mua cái nghèo?
- Nếu bà chịu bán tôi sẵn sàng
mua.
- Thôi đừng đùa, tội quá ông
ơi!
- Tôi tu hành, đùa với bà có lợi ích
gì? Tôi mua thật đấy. Cái nghèo có thể bán lắm chứ? Có điều là người ta không
biết cách bán. Phương pháp bán nghèo là bố thí. Mọi sự kiện trên đời đều có
nguyên nhân. Giàu là kết quả của sự tu phước bố thí. Còn nghèo là vì đã quá keo
kiệt. Vì thế, thực hành hạnh bố thí là phương pháp bán nghèo độc đáo
nhất.
- Nhưng tôi nghèo rớt mùng tơi, có gì
mà để bố thí cho ông. Cái vò trong tay tôi là của chủ Bà La Môn tôi đâu có đem
bố thí được. Lỡ tay làm bể là đã bị ăn đòn, huống gì là đem bố thí cho người
khác.
- Tôi đang khát nước. Vậy bà hãy đem
vò nước xuống sông múc nước bố thí cho tôi. Ðó là cách tôi mua nghèo cho
bà.
Nghe xong, bà liền đi múc nước bố thí
và tỉnh ngộ. Nhờ Ca Chiên Diên chỉ dẫn, bà ta thường làm việc bố thí, ít ham
muốn, biết vừa đủ, lòng được thoải mái, và cuộc đời trở nên an lạc hơn
trước.
Nhờ tài luận nghị, suốt đời đi giáo
hóa Ca Chiên Diên đã cảm hóa được nhiều người, dẫn dắt người nghèo về với Ðức
Phật, ai cũng thấy an lạc ngay trên cõi đời này.
III- NHẬN THỨC VÀ
KẾT LUẬN
* Ðức Phật ra đời với mục đích chính
yếu là khai hóa cho nhân loại chúng sinh biết con đường giác ngộ và giải thoát
khỏi sinh tử luân hồi. Tuy nhiên không phải vì thế mà Phật bỏ quên vấn đề xây
dựng con người, xây dựng xã hội. Ðó là mầm móng cho giải thoát sinh, già, bịnh,
chết. Mầm móng không xây thì lâu đài không có chỗ dựa vững chắc. Trong kinh Bách
Dụ có câu chuyện:
- Người mướn thợ xây nhà mà chỉ đòi xây lầu không cần xây nền móng, người đời gọi đó là: Xây nhà trên nền cát. Việc làm đó chẳng bao giờ thực hiện được.
* Trong kinh Phật dạy: Phật pháp bất
ly thế gian giác, ly thể mích Bồ Ðề do nhu cầu thế giác. (Phật pháp không ngoài
thế gian mà giác ngộ, xa lìa cuộc đời mà tin Bồ Ðề, giống như tìm lông rùa sừng
thỏ).
* Một trong những nguyên nhân thúc
đẩy Tất Ðạt Ða xuất gia chính là xã hội không bình đẳng, không an lạc của Ấn Ðộ
lúc bấy giờ.
* Noi gương Ðức Phật, trên đường đi
bố giáo Ca Chiên Diên đến gặp vua nước Ma Thâu. Nhân cơ hội nhà vua kích bác vấn
đề bỏ đẳng cấp cao theo đẳng cấp thấp của mình, Ca Chiên Diên đã đem thuyết bình
đẳng diễn giảng.
Sau cuộc hội kiến với Ca Chiên Diên, Vua nước Ma Thâu áp dụng giáo pháp bình đẳng vào xã hội, nhờ đó nước Ma Thâu được an lạc, không còn cảnh người bóc lột người, kẻ nô lệ luôn luôn chịu cảnh nô lệ, người Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, cứ tiếp tục ăn trên ngồi trước dù phạm pháp, ác độc. Qua câu chuyện vua nước Ma Thâu, thực hành pháp bình đẳng trong công tác xây dựng xã hội cho thấy Ðạo Phật không tiêu cực, xa thực tế... để đi tìm một thế giới trên 9 tầng mây.
* Ngoài truyền bá giáo thuyết bình
đẳng, Ca Chiên Diên còn đề cao giá trị con người qua phẩm giá đạo đức. Ðể từ đó
có tinh thần vị tha, bố thí, giúp cho con người hết đói nghèo và đặc biệt là
loại trừ tính tham dục, mê hoặc, ngã kiến, ngã chấp, để sống hòa hợp không tranh
cãi.
* Với những tinh thần đạo lý, qua các
cuộc hùng biện của Ca Chiên Diên, ngày nay con người cần được phổ biến, học hỏi.
Bởi vì cuộc sống của con người giữa Nam và Bắc còn chênh lệch, có những nơi còn
quá đói nghèo, cần được giúp đỡ. Ðặc biệt và có thể nói là nguy hiểm hơn giữa
Ðông và Tây đang âm thầm giữ miếng với nhau, dù có kêu gọi xích lại gần nhau
nhưng thực sự còn có khoảng cách quá rộng!
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Ðể được toàn bích, Tăng sĩ cần học hỏi những gì?2. Dòng họ và biện tài của Ca Chiên Diên như thế nào?3. Trong trường hợp nào, biện luận pháp bình đẳng?4. Các đạo sĩ Bà La Môn khiêu khích Ca Chiên Diên qua những gì? Ca Chiên Diên đã biện luận như thế nào?5. Nguyên nhân nào con người thường tranh cãi nhau?6. Với bà lão ôm vò ngồi khóc, Ca Chiên Diên đã khuyến hóa như thế nào?7. Với những tinh thần đạo lý mà Ca Chiên Diên đã tranh biện, ngày nay, con người có cần không? Tại sao?HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH,( MHDT ).17/4/2012.
No comments:
Post a Comment