Giải thoát Đại thủ ấn |
Các thông tin và bài viết liên
quan đến Giải thoát Đại thủ ấn đã được công bố ở nhiều nơi khác nhau. Trang này
sẽ cố gắng cung cấp một danh sách rõ ràng tới những tài liệu này.
(Bức
thư của Tôn giả Zhaxi Zhuoma gửi tới các
đệ tử của mình.)
Ta vừa trở về từ một cuộc yết
kiến với Đạo sư và muốn chia sẻ những gì ta có thể nhớ được về bài pháp thoại
tuyệt vời mà ta đã nhận được cùng với buổi trình chiếu riêng về cuốn video đã
được trình chiếu cho những người tham gia kỳ thi lần hai trong những buổi Đạo sư
hướng dẫn nghe tuyên pháp tại pháp hội ở Hồng Kong.
Video này cung cấp một số ví
dụ trực quan của những pháp cao nhất đã được đức Dorje Chang III truyền cho
các đại đệ tử của Ngài, bao gồm việc khai mở đỉnh đầu và đạt được pháp Thiền
Hoán Đổi Thân Kim Cương (Vajra Substitution Body Meditation) và pháp Tập Trung
Nội Nhiệt (Tummo Samadhi), tất cả những pháp này đều là những thành phần của
hình thức cao nhất của Pháp trong thế giới ngày nay – Pháp Kalachakra Tối Cao và
Tối Mật của Giải thoát Đại thủ ấn. Những người phương Tây chúng ta sẽ có thể xem
đoạn video tuyệt vời này khi nó được hoàn thành, được đưa phụ đề tiếng Anh và
phát hành cùng bản dịch tiếng Anh của giáo pháp Giải thoát Đại thủ ấn cùng với
những lời luận giải liên quan. Các con nên nỗ lực để được xem nó.
Ta muốn Đạo sư tôn quý xem lại
những gì ta đã chuẩn bị như một thông cáo báo chí cho chuyến hoằng pháp tiếp
theo của ta tại Mỹ, điều mà Ngài đã làm. Tuy nhiên, Đạo sư của ta, Đức Dorje Chang III cũng bảo
ta và các rinpoche khác giới thiệu về nguồn gốc của các pháp kỳ diệu mà chúng ta
đang được thọ nhận và chứng kiến. Ta thực sự cảm thấy cảm động và biết ơn đối
với Đạo sư vì những gì mà ngài đã giảng giải và trao truyền cho ta, một kẻ tu
tập nhỏ bé, đến nỗi mà dòng lệ ngập tràn đôi mắt ta. Không có một ngôn từ nào có
thể diễn tả được cảm xúc này.
Tất cả mọi điều mà chúng ta đã
thấy, đã nghe và được trao truyền đến nay chỉ đang trong giai đoạn chuẩn bị cho
lần truyền pháp tuyệt vời. Đây có phải là điều mà chúng ta sắp sửa được thấy?
Cho dù điều này được gọi là gì, chúng ta cũng cần chuẩn bị cho nó. Hãy nỗ lực tu
tập, nhanh chóng hoàn thành các thực hành sơ khởi và trong tâm thế sẵn sàng. Ta
mong rằng tất cả mọi người đều được nhận giáo pháp này. Vài năm trước khi chúng
ta chứng kiến Lễ tắm tượng Phật, một trong những điều đầu tiên của những sự kiện
kỳ diệu trong loạt bài này mà ta chứng kiến, ta nhớ lại mình nghe được rằng sẽ
có một sự kiện đặc biệt – giống như một “lần chuyển pháp luân mới”.
Trước tiên, hãy đề cập một
chút về lịch sử và bối cảnh. Chúng ta biết rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhận
được giáo pháp linh thiêng, đã được giảng dạy cách đây 2.500 năm trên thế gian
này, từ vị thầy của Ngài, Đức Phật Nhiên Đăng. Chúng ta cũng biết rằng Đức Phật
Nhiên Đăng là một hóa thân của Đức Dorje Chang, nhưng việc đó xảy ra trong một
thế giới khác, không phải thế giới mà chúng ta đang sống. Đức Dorje Chang chỉ
đến với thế giới chúng ta vào một lần khác, và đó thời điểm cùng với Phật Thích
Ca Mâu Ni khi Đức Dorje Chang hiện thân thành trưởng giả Duy Ma Cật (Đức Dorje
Chang II) để trợ giúp đức Phật Thích Ca giảng dạy hệ thống giáo lý Đại thừa cho
các tu sĩ tiểu thừa của mình. Trong thực tế, tất cả chư Phật mười phương đều
nhận giáo pháp từ Đức Dorje Chang. Đó là lý do tại sao chúng ta lại vô cùng may
mắn khi được sống trong cùng thời gian và không gian này cũng như có thể được
thọ nhận giáo pháp trực tiếp từ đức Dorje Chang III.
Khi Đức Thích Ca Mâu Ni bắt
đầu giảng pháp, đầu tiên Ngài chỉ dạy những điều rất cơ bản. Trên thực tế, lúc
đầu Ngài không muốn giảng dạy vì Ngài nghĩ rằng không ai có thể hiểu được những
gì mà Ngài đã thọ nhận và thấu suốt sau khi Ngài giác ngộ. Vì có nhiều cách nhìn
nhận khác nhau về điều này trong thế giới ngày nay, điều quan trọng cần biết đó
là Đức Thích Ca đã có những giáo pháp khi Ngài đến với thế giới này, và rằng
Ngài đã là một vị Phật, nhưng Ngài cần phải “đánh thức” sự thật đó. Đó là ý
nghĩa của kinh nghiệm giác ngộ của Ngài: thực chứng cấp thứ tư và thứ năm của
Giải thoát Đại thủ ấn. Đây là một quá trình mà chúng ta cũng sẽ phải trải qua.
Tất cả chúng ta đều có “Phật tính” cơ bản của một vị Phật, nhưng chúng ta phải
loại trừ những chướng ngại và phát triển trí tuệ của mình để có thể nhận ra bản
tính tự nhiên đó và trở nên giác ngộ, đi sâu hơn và cuối cùng trở thành một vị
Phật. Nhưng dù sao, cả vua trời Phạm Thiên và vua trời Đế Thích, vị cai quản cõi
trời Tam Thập Tam, đều đã đến và thỉnh cầu Đức Phật giảng dạy “để cho những
người chỉ có một chút bụi trong mắt có thể nhìn thấy được”. Đức Phật nghĩ về
những người có khả năng và nhận ra vị thầy của mình đã tới cõi Phật, nhưng rồi
sau đó Ngài nhớ ra năm vị tu sĩ đồng hành với mình trong nhiều năm thực hành tu
khổ hạnh. Ngài tìm thấy họ ở vườn Nai, gần Sarnath và giảng dạy cho họ về Tứ
Diệu Đế. Đây được coi là lần chuyển pháp luân đầu tiên và những gì được giảng
dạy là chặng đầu tiên trong sự nghiệp hoằng pháp của Ngài. Những giáo lý này sau
đó đã được ghi lại bằng tiếng Pali, ngôn ngữ được coi là tiếng bản địa Magadhan
mà Đức Phật đã nói tại thời điểm đó ở Ấn Độ, và đã được lưu giữ cho đến ngày nay
đó là Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo nguyên thủy.
Điều quan trọng cần nhận biết
đó là việc gọi tên các giáo lý Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ) là phù hợp và thực tế và đó
là những điều mà mỗi Phật tử phải học và hiểu được. Đi theo những giáo lý này có
thể dẫn tới cấp bậc của một vị A La Hán, người đã giải thoát khỏi những đau khổ
của luân hồi và đạt tới một mức độ của Niết bàn. Những giáo lý này hình thành
nên dòng truyền thừa của những vị trưởng lão (Theravada) và được truyền rất sớm
vào Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và các vùng khác của Đông Nam Á.
Tuy nhiên, đó không phải là những giáo lý cao nhất mà Đức Phật mang đến cho thế
giới này. Sau đó, trong sự nghiệp hoằng pháp của mình, Đức Phật đã giảng dạy
những giáo lý cao hơn. Tại đỉnh Linh Thứu, Ngài đã giảng dạy giáo lý Bát nhã về
tính Không, sự kiện này được coi là lần chuyển pháp luân thứ hai. Những giáo lý
này đầu tiên được giảng dạy cho các hàng Bồ tát và những chúng sinh ở cõi giới
cao bởi vì tại thời điểm đó chỉ có rất ít người có thể nắm bắt được giáo lý này.
Người ta nói rằng các vị tu sĩ đã đưa tay lên che tai vì họ không thể chấp nhận
những giảng dạy về tính không. Bởi vậy, các vị naga (những chúng sinh cõi cao
như loài rồng) đã mang những giáo lý này đi và cất giấu chúng cho đến khi thế
giới loài người sẵn sàng đón nhận. Có dự đoán rằng trong khoảng 500 năm có một
vị thánh tăng vĩ đại nhập thế sẽ tìm lại những giáo lý này và làm cho nó trở nên
tiếp cận được với thế giới của chúng ta, ở thời điểm mà thế giới loài người đã
sẵn sàng đón nhận. Vị thánh tăng này chính là Ngài Long Thọ (Nagarjuna), người
sáng lập ra dòng truyền thừa Trí huệ và là vị tổ của nhiều dòng phái Đại thừa
(cỗ xe lớn) như Thiền Tông (Zen) và Tịnh độ tông. Đây là Pháp được truyền vào
Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản qua Con Đường Tơ Lụa. Đức Phật cũng đã chuyển
pháp luân lần thứ ba khi Ngài ban những giáo lý Như Lai Tạng nói về Phật tính
sẵn có ở thành Shravasti. Những giáo lý này được phát triển bởi đạo sư Vô Trước
vào thế kỷ IV, sau khi Ngài thọ nhận chúng từ Đức Phật Di Lặc ở cõi trời Đâu
Suất. Những giáo lý này tạo nên nền tảng cơ bản của trường phái Duy thức và các
truyền thống đại thừa khác và được biết đến như dòng truyền thừa Phương tiện.
Chúng cũng trở nên rất phổ biến ở Trung Quốc và sau đó là Nhật Bản và trong một
số trường phái ở Tây Tạng, đáng chú ý nhất là trường phái Jonang. Đôi khi các
bạn nghe thấy những giáo lý này được nhắc đến như là quan điểm “shentong” hoặc
“Other emptiness”. Quan điểm này không được giữ bởi nhiều người Tây Tạng, những
người theo quan điểm “rontong” về tính Không đã được giảng dạy trong lần chuyển
pháp luân thứ hai.
Nhưng còn có những tập hợp các
giáo lý khác mà Đức Phật Thích Ca đã nhận được, một trong số đó Ngài đã trao
truyền khi còn tại thế và một số giáo lý Ngài đã không truyền lại. Đây là những
giáo lý bí mật hay mật truyền, còn gọi là Kim Cương Thừa (Cỗ xe Kim Cương). Chỉ có
con trai của Đức Phật là Rahula có sự chứng ngộ và đức hạnh để thọ nhận những
giáo lý bí mật này trong thời Đức Phật. Khi Đức Phật sắp nhập Niết bàn, Ngài đã
truyền một số giáo lý bí mật cho người thị giả tin cậy và là người em họ của
mình là Anan với lời dặn dò là Anan sẽ giảng những pháp này cho đức Liên Hoa Sanh, điều mà
Ngài đã làm. Đức Liên Hoa Sanh ra đời chỉ
ít năm sau khi Đức Phật Thích Ca rời khỏi thế gian này. Ananda là người đầu tiên
làm lễ xuống tóc cho Liên Hoa Sanh và giảng dạy
cho Ngài những giáo lý bí mật. Những giáo lý này được biết đến với tên gọi Pháp
Đường Mật (Tang Esoteric Dharma). Những giáo lý này được phát triển ở Ấn Độ và
sau đó truyền vào và phát triển thêm ở Tây Tạng bởi Đạo Sư Liên Hoa Sanh và những
người khác trong thế kỷ thứ VIII, nơi chúng tiếp tục phát triển.
Những lời dạy này của Đức Phật
cùng với sự trao truyền các giáo lý bí mật khác trực tiếp từ Đức Dorje Chang
được biết đến như lần chuyển pháp luân thứ tư và hình thành nên dòng truyền thừa
“Thực hành và Gia trì”. Dòng truyền thừa này có tên gọi như vậy bởi nếu bạn hoàn
thành những thực hành bí mật này, bạn sẽ nhận được những gia trì đặc biệt của
các bậc ở cõi cao, những người sẽ giúp đỡ bạn trên con đường tu tập. Những giáo
lý này được biết đến như Mật tông Tây tạng và được
coi là những pháp cao cả nhất và sâu sắc nhất. Xin nhớ lại rằng đã có những bậc
thánh nhân như Đạo Sư Tilopa, Đức bà Niguma và Đức bà Sukhasiddhi, những người đã
đạt được mức độ chứng ngộ với thân người. Họ có khả năng thọ nhận giáo pháp trực
tiếp từ Đức Dorje Chang. Hãy nghĩ xem chúng ta thật may mắn thế nào khi có cơ
hội được học trực tiếp từ bậc Đạo sư tôn quý này.
Tại thời điểm Đức Phật Thích
Ca giảng kinh Bát nhã ở đỉnh Linh Thứu (Núi Grdhrakkuta) gần thành Vương Xá,
Ngài đã hóa hiện hình tướng phẫn nộ 24 tay của đức Phật Kalachakra và đưa dạng
Tâm Yếucủa pháp bí truyền Kalachakra trong 12.000 câu kệ ở Dhanyakataka cho vua
Suchandra và đoàn tùy tùng gồm 96 vị vương gia và các sứ thần đến từ Shambala.
Các vị vua Sambala tiếp tục cai trị vương quốc báo thân này bằng cách sử dụng
Tâm Yếu của Kalachakra. Sau thời các vị vua Shambhalian, Manjushrikirti và con
trai của ngài là Pundarika, được cho là đã cô đọng lại và đơn giản hóa các giáo
lý vào “Sri Kalachakra” hay “Laghutantra” với khoảng hơn 1000 câu thơ và luận
giải chính "Vimalaprabha (Luận giải Ánh sáng trong
suốt)", hiện còn lại tới ngày nay như là cốt lõi của các tài liệu về
Kalachakra….
Một số hành giả cao cấp ở Ấn
Độ biết đến sự tồn tại của những giáo lý này. Vào thế kỷ thứ X, tôn giả
Kalachakrapada Jamyang Dorje của Ấn Độ đã nỗ lực thực hiện một hành trình đến
Shambala để thọ nhận chúng. Vua Kalkin thứ 11 của Sambala biết được việc này
cũng như những khó khăn của con người đáng kính này khi thực hiện cuộc hành
trình và rất từ bi, ngài đã gặp gỡ và trao truyền giáo pháp Kalachakra cho vị
thánh tăng trên đường đi. Giáo pháp này sau đó đã được truyền khắp Ấn Độ rồi vào
Tây Tạng. Somatha, Bậc thầy Kalachakra người Kashmir đã trao truyền Pháp Tâm Yếu
Kalachakra cho dịch giả Tây Tạng Dro Lotsawa Sherab Drak và một đệ tử Tây Tạng
khác là Yumo Mikyo Dorje vào khoảng thế kỷ thứ XI. Họ đã xây dựng nên nền tảng
của dòng truyền thừa Jonang vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Je Tsongkapa cũng
đã thọ nhận dạng Tâm Yếu của Kalachakra Tantra, nhưng nhận thấy rằng các đệ tử
của mình chưa sẵn sàng để đón nhận nó, vì thế mà Ngài đã không trao truyền pháp
này. Để làm gương cho các tăng sĩ của mình, Tsongkapa cũng đã không thực hành
pháp này. Vì điều này mà Ngài đã không thể trở thành một vị Bồ tát cấp 12 cho
đến sau khi ngài qua đời, trong trạng thái Trung ấm (bardo state). Đây là lý do
tại sao phái Gelug không có Pháp để có thể giác ngộ
được ngay trong một đời. Tuy nhiên, nhiều hành giả Gelug cá biệt (bao gồm cả Đức Panchen
Lama và Dalai Lama) đã thọ nhận Pháp này từ các nguồn khác nữa. Đây là lí do tại
sao thật không dễ dàng gì để hiểu được mức độ thực hành của một người nào đó,
bởi vì một số có thành tựu tuyệt vời còn một số người – thậm chí có địa vị cao –
lại bình thường. Ví dụ như, hiện tượng thực tế của việc khai mở đỉnh đầu không
được tìm thấy trong thế giới ngày nay. Những người tự nhận rằng sở hữu pháp này
chưa từng nhận được phép Thiền Hoán Đổi Thân Kim Cương.
Chữ Kalachakra có nghĩa đen là
chu kỳ của thời gian. Nó nói về các chu kỳ thiên văn của thế giới vật chất cũng
như chu kỳ tồn tại của loài người. Nguyên lý phổ biến "thượng hạ tương liên"
(tạm dựng thuật ngữ “as above, so below”) cũng được thể hiện trong giáo lý bí
truyền này bởi nó nhấn mạnh việc giống nhau và tương quan giữa con người và vũ
trụ. Nó dạy phương pháp thực hành làm việc với các nguồn năng lượng vi tế nhất
trong cơ thể con người như một con đường dẫn tới giác ngộ. Đó là giáo lý cao cấp
nhất của Phật giáo trong thế giới ngày nay.
Giáo pháp Kalachakra đã trở
thành một giáo lý khá phổ biến ở tất cả các tông phái chính của Tây Tạng. Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã ban quán đảnh và gia trì pháp này cho hàng trăm nghìn phật tử
trên khắp thế giới, cũng như các vị giảng sư của Tây Tạng khác như H.H. Sakya Trizin, H.H. Penor Rinpoche, H.E. Chogye Trichen Rinpoche, và H.E. Kalu Rinpoche. Cho đến năm 2006,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trao quán đảnh này 30 lần, trong đó có 5 lần ở Bắc Mỹ và 3
lần ở Châu Âu. Tuy nhiên, đó cao nhất cũng chỉ là sự trao truyền ngoại mật và
trong thực tế thì có rất ít người nhận được giáo lý có khả năng thực hành hoặc
thực hành chúng. Có thể nói rằng những gì chúng ta đã biết đúng thật là
Kalachakra nhưng chỉ là lớp vỏ hay chỉ là vẻ bề ngoài của giáo pháp nguyên gốc
và nó thiếu những năng lực đặc biệt nhất định của Phật pháp mà Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã giảng dạy. Nó được trao truyền như một cách ban phước vì hòa bình thế
giới. Đây là một ví dụ điển hình cho sự suy thoái của những giáo lý nguyên thủy
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hình thức Tâm Yếu của
Kalachakra này chưa phải là hình thức cao nhất. Tuy nhiên, Đức Phật Thích Ca
không bao giờ giảng dạy hình thức cao hơn, mặc dù bản thân Ngài đã học và thực
hành nó. Hình thức cao hơn được biết đến là Pháp Kalachakra cao quý và bí mật
nhất. Pháp Thiền Hoán Đổi Thân Kim Cương là một phần của pháp này trong đó đỉnh
đầu của đệ tử phải được mở trong vòng hai giờ để thần thức của đệ tử có thể tự
do di chuyển. Bậc giác ngộ tôn quý và là vị tổ của dòng Kagyu, Tilopa, đã được học giáo pháp này trực tiếp từ Đức Dorje
Chang nhưng không truyền lại pháp này cho các đệ tử bởi vì Ngài chưa phải là một
vị Phật và chỉ có một vị Phật mới có thể trao truyền pháp này. Tilopa cũng được học một hình thức của Pháp Tumo (nội
nhiệt) từ Đức Dorje Chang và Ngài đã trao truyền pháp này cho các đệ tử của
mình, nhưng những gì được thực hành như là pháp Tumo ngày nay chỉ giống rất ít
với những gì chúng ta đang chứng kiến từ những đệ tử hiện tại của đức Dorje
Chang 3.
Vì chúng ta đang sống trong
thời kỳ mạt pháp, Đức Dorje Chang đã hóa thân trở lại để giảng dạy cho chúng ta
giáo pháp cao nhất của mật thừa –Giải Thoát Đại Thủ Ấn Tối Thượng. Nó cũng được
biết đến như là Giáo pháp Kalachakra cao quý và bí mật nhất. Đây cũng có thể là
những gì mà Đức Penor Rinpoche quá cố muốn nói khi ông trao đổi với ta rằng: “Vì
đây là thời mạt pháp, thật tốt lành khi có một bậc giác ngộ cao như vậygiáng
lâm”. Ngài cũng nói rằng người như vậy sẽ “thể hiện nhiều phép lạ”. Penor
Rinpoche được coi là bậc thầy của Pháp Kalachakra, nhưng chỉ ở dạng Tâm Yếu. HH.
Penor Rinpoche cũng nói với ta rằng Đạo sư của ta, Đức Dorje Chang III còn cao
hơn ông ấy rất nhiều.
Cuốn sách quý Đức Dorje Chang III bao gồm
các lời chứng thực của hai đệ tử cao cấp, những người đã thọ nhận Pháp Đại Toàn Thiện Xian Liang.
Đây là Phật pháp từ Giải Thoát Đại Thủ Ấn – Pháp Kalachakra Cao quý và bí mật
nhất. Những người đủ may mắn nhận được pháp này có thể thâm nhập vào trạng thái
thân cầu vồng chỉ sau khi thực hành pháp chưa đến hai giờ. Hai đệ tử này cũng đã
thọ nhận Pháp thiền Hoán đổi thân Kim cương theo đó đỉnh đầu của họ đã được mở
để họ có thể hoá hiện thân kim cương khác có khả năng tự do đi đến bất cứ đâu,
kể cả những cõi giới khác. Tuy nhiên, bất cứ ai thọ nhận pháp này đều phải đạt
được một mức độ chứng ngộ và đức hạnh mà nhờ đó họ đã có thể đi đến các cõi giới
báo thân như Sambala và gặp gỡ Đạo Sư Liên Hoa Sanh cũng như đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Pháp này không phải là pháp Phowa thường được trao cho
người sắp chết để giải thoát thần thức của họ. Với nhiều hình thức khác nhau của
Pháp Phowa, như Quan Âm Phowa, khi thần thức rời khỏi cơ thể, nó sẽ không quay
trở lại, nhưng đấy không phải là một dạng của pháp Kalachakra cao quý và bí mật
nhất này. Việc thực hành pháp này cho phép một người có thể trở nên giác ngộ
hoàn toàn và giải phóng khỏi duyên nghiệp của sinh tử và có thể ở nhiều địa điểm
khác nhau trong cùng một thời gian. Trước và sau khi những hình ảnh MRI về hộp
sọ của những người đã nhận pháp này cho thấy rõ ràng một lỗ mở trên đỉnh đầu, đủ
lớn để nhét một vài ngón tay vào. Tối đa chỉ 10 người trong thế giới ngày nay đã
được nhận pháp này và chỉ có một người duy nhất, Đức Dorje Chang III là người
có thể trao truyền nó. Một nữ tu, giảng sư Miaokong, ở chùa Hua Zang Si, San
Francisco cũng được thọ nhận pháp này và hiện đang được biết đến ở ngôi chùa như
là tu viện trưởng Daoguo (một người đã thành tựu trong việc thực hành).
Pháp thứ ba, Phật pháp cao cấp
từ Giải thoát Đại thủ ấn đã được trao truyền bởi Đức Dorje Chang III – là pháp
nội nhiệt mà trong đó các đệ tử có thể làm cho thân nhiệt của họ tăng lên hơn
160 độ để tự chữa các loại bệnh khác nhau và loại bỏ những những nghiệp xấu của
mình. Họ cũng có thể loại bỏ các nghiệp xấu của người khác. Kaichu Rinpoche đã
chứng tỏ mức độ hoàn thành của mình bằng cách thực hành pháp này trước một hội
đồng giáo pháp gồm các pháp vương, các rinpoche, giảng sư và các cư sĩ. Trong
suốt thời gian này, vị rinpoche đã làm cho nhiệt độ cơ thể mình tăng lên đến
197,4 độ F. Sau khi cơ thể trở lại khoảng 100 độ F, một số chủng tự linh thánh
đã xuất hiện trên cơ thể ông. Ta thực sự đã nhìn thấy điều này xảy ra cùng với
rất nhiều người khác! Một đoạn video về việc thực hành pháp này của vị rinpoche
có sử dụng cả công nghệ cảm biến nhiệt hiện đại để làm tư liệu cho sự kiện kỳ
diệu này. Vị rinpoche 76 tuổi này nói rằng bác sĩ của ông ấy đã không tin vào
tình trạng cơ thể của ông. Nó đã được biến chuyển từ bị bệnh sang khỏi bệnh và
hoàn toàn khỏe mạnh. Đây là pháp mà các vị đạo sư Tây tạng như Milarepa đã sử dụng để giữ ấm khi chỉ
mặc mỗi chiếc áo choàng làm bằng sợi bông khi thiền định trong một thời gian dài
dưới cái lạnh giá buốt của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Có rất nhiều nhân chứng cho việc
các hành giả có khả năng tạo ra nhiệt đủ để làm khô những chiếc khăn choàng ướt
được đắp lên cơ thể họ trong khi ngồi hoặc đi bộ trong giá rét – thậm chí họ có
thể làm điều này rất nhiều lần. Thuật ngữ Tây tạng chỉ phép thực hành này là
“Tumo” với nghĩa là ngọn lửa hay nhiệt ở bên trong. Tuy nhiên, pháp tumo đích
thực là một phần của Giải thoát Đại thủ ấn còn đáng kinh ngạc hơn điều này.
Có một vị rinpoche mà ta đã
sống cùng trong nhiều năm, Akoulama Rinpoche, cũng thực hành pháp này. Bà có thể
được coi là một hành giả cao cấp của Tây Tạng. Cách bà thực hành tumo khác so
với Kaichu Rinpoche. Những gì mà Kaichu Rinpoche thực hành là tư thế tummo “xác
chết” (corpse pose tummo) nằm trong cấp độ thứ tư của Giải thoát Đại thủ ấn. Đó
là “Vua của các Tummo”. Kiểu thực hành này có thể làm cho một người đạt được
trạng thái thân cầu vồng khi họ rời khỏi thế giới này. Cấp độ thành tựu tương
tự với pháp Đại Toàn Thiện – Longchen
Nyingthig. Những gì mà Akoulama Rinpoche thực hành là Yoga Tummo Tây Tạng trong
“naro” hay tư thế ngồi. Trong suốt buổi thao diễn pháp này, bà đã nâng nhiệt độ
cơ thể lên 140 độ. Ta cũng đã chứng kiến điều này ngay tại chỗ.
Ngày nay trên thế giới có rất
nhiều người nói về việc thực hành tummo, nhưng để có được những khả năng để làm
tăng nhiệt độ lên như vậy là rất hiếm. Về cơ bản, những khả năng này không còn
được nhìn thấy. Điều này cho thấy Phật pháp đích thực đã biến mất. Bạn nên nắm
lấy cơ hội để đi trên con đường này bằng cách học Phật pháp đúng đắn mà thực sự
thể hiện những kết quả lợi lạc.
|
Read more: Giải thoát Đại thủ ấn | Phật pháp http://tuyenphap.com/Phat-phap/Giai-thoat-Dai-thu-an#ixzz1sMJQKk00.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).18/4/2012.
No comments:
Post a Comment